Ôn tập Triết học Mac Lenin | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng

Ôn tập Triết học Mac Lenin | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2022 – 2023
Họ và tên: Phan Thị Ngọc Ánh
MSSV: 22520073
STT: 69
1.Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. (Trước V.I.Lênin, các nhà triết học
quan niệm vật chất như thế nào, cuộc cách mạng KHTN, định nghĩa vật
chất của V.I.Lênin, ý nghĩa ppl (phải tôn trọng thực tại khách quan), liên
hệ tt)
a. Quan niệm vật chất của các nhà triết học trước Mác
Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học duy vật như Talét cho rằng vật chất là
nước; Anaximen coi là không khí; Hêraclít coi làlửa; Anaximanđơrơ coi là
Apâyrôn. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyếtnguyên tử của Lơxíp và học trò của ông là
Đêmôcrít .
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII, do cơ học phát
triển mạnh và chiếm ưu thế nên các quan niệm về thế giới (về vật chất)
cũng mang tính cơ học mà đại biểu Niuton.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ
quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụthể của vật chất hoặc với
thuộc tính của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ratia X là sóng điện từ có bước sóng rất
ngắn. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng sau khi bức xạ ra hạt
Anpha, nguyên tốUrani chuyển thành nguyên tố khác. Năm 1897, Tôm
xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một
trongnhững thành phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã phát
hiện khối lượng của điện tử biến động và kết quả các thựcnghiệm khoa
học cho thấy khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của điện tử
tăng.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy
tâm trong quan niệm về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của
chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán(1909), V.I.Lênin, nêu định nghĩa “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
conngười trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
b. Cuộc cách mạng KHTN
Những phát hiện khoa học chứng tỏ rằng:
- Nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia.
- Không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động
của vật chất
c. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1 là) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có
tính cụ thể.
- Tính trừu tượng của vật chấtdùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất
của vật chất
- đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây
cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không
phải là vật chất.
- Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗchỉ có thể nhận biết được vật chất
bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất
thông qua việc nghiêncứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
2 là) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc
trưng cơ bản) là tồn tại không phụ thuộc vào ýthức. Dù con người có nhận
thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
3) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất
bằng các giác quan.
4) ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng
các giác quan của mình, con người có thể trựctiếp hoặc gián tiếp nhận biết
được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhậnbiết biết chứ không thể không biết.
5 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng
giữa thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác(ý thức). Vật chất (cái thứ
nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy
định ý thức. ý thức (cái thứhai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức,
là nguyênnhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập
tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thànhsức mạnh
vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
d. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người phải xuất phát từ bản
thân sự vật, hiện thực khách quan mà phân tích, xem xét nó, đồng thời để
hiểu sâu sắc hơn về sự vật – hiện tượng ta phải đặt nó trong mối quan hệ
với các sự vật – hiện tượng có liên quan kể cả trực tiếp và gián tiếp, không
được chủ quan kết luận
e. Liên hệ thực tiễn.
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.
Vì thế trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội hiện nay, chúng ta lấy thực
tế Việt Nam làm điểm xuất phát và lấy con người Việt Nam làm mục tiêu
của sự phát triển nhanh bền vững
2. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức. Ý nghĩa ppl
(phát huy tính năng động, chủ quan của ý thức; tạo điều kiện cho ý thức
được phát triển), liên hệ tt)
a. Khái niệm
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là
toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm
những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy
vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản
phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả
của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con
người.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được
quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý
thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con
người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao
gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất,
là phương thức tồn tại của ý thức.
b. Nguồn gốc:
Ý thức ra đời từ hai nguồn gốc: Tự nhiên và Xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế
giới khách quan.
+ Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc người.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người và là hình
thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người.
- Nguồn gốc xã hội :
Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành
nguồn gốc xã hội của ý thức.
+ Lao động là một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với
giới tự nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong
quá trình lao động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để
bộc lộ những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra
những hiện tượng nhất định để con người quan sát được.
Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thông
qua hoạt động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và
thông qua bằng bộ não con người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những
tri thức và ý thức.
c. Bản chất
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở
khả năng hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng
tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lữu giữ thông tin
và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới
và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động,
sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người
tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, ... trong đời sống tinh
thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế
giới khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện nhưng
nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông
qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác thì ý thức chẳng qua
chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối
không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, do
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội
quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu của thực tiễn xã hội.
d. Kết cấu
- Kết cấu của ý thức theo chiều ngang gồm có tri thức và tình cảm.
Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản cốt lõi.
- Cấu trúc theo chiều dọc:
+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.
+ Tiềm thức là những tỉ thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của của ý thức
chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tang.
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm,
chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện
tượng khác nhau và chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con
người.
e. Ý nghĩa phương pháp luận
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tạo điều kiện cung cấp các
dưỡng chất cần thiết cho bộ não hoạt động.
- Đồng thời trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải biết phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức để cải biến hiện thực khách quan hiện có,
bằng cách không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ thông qua tích lũy
kinh nghiệm trong lao động sản xuất và trong cuộc sống
f. Liên hệ thực tiễn.
- Giá trị của sự lao động chân chính.
- Bức thư của Tổng thống Abraham Lincoln
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (khái quát vật chất là
gì, khái quát ý thức là gì, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
(vc quyết định yt và ý thức có sự tác động trở lại), Ý nghĩa ppl (tôn trọng
thực tại khách quan, phát huy tính năng động, chủ quan của ý thức), liên
hệ tt)
a. Khái quát vật chất
Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
b. Khái quát ý thức.
Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc
con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có 2
nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên:
• Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu
dài của vật chất.
• Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát
triển khác nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự
chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội của loài người.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích
cực trở lại vật chất.
- Vật chất quyết định ý thức
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có
trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào
trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự
ra đời ý thức.
+ Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan
trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết
định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các
thế hệ.
+ Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan,
tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải
biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
+ Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về
nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống
đầy đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ,
đời sống vật chất phảiđược đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống
tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời
thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà
tác động trở lại thế giới vật chất.
+ Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm
biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống
con người.
+ Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay
làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng
khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc
đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát
triển của vật chất.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn,
nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
+ Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể
vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa
vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt
động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội
VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị
trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã
phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại
vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
d. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ
quan. Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề
vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý
chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách
lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo
thủ, trì trệ, thiếu tính sángtạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý
thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa
học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực
của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp
hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách
quan.
e. Liên hệ thực tiễn.
- “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”
- Với vai trò quan trọng của ý thức, việc “phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững”. Từ đó, nâng cao
trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước hiện nay.
4. *Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (khái niệm mối liên hệ, phân loại
mối liên hệ, nội dung, tính chất của mối liên hệ, ý nghĩa ppl (quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể), liên hệ tt).
a. Khái niệm mối liên hệ
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái
niệm chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình
trong thực tế đều tác động đến nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách
biệt hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác.
– Hiểu một cách khái quát thì:
+ “sự quy định” là sự lệ thuộc vào nhau giữa các sự vật (hay hiện tượng)
A và B.
+ “tác động qua lại” là tác động hai chiều; A tác động vào B, đồng thời B
cũng tác động vào A.
+ “chuyển hóa lẫn nhau” là A “biến” thành một phần hay toàn bộ B và
ngược lại.
Ở trên, ta chỉ đề cập 02 sự vật (hay hiện tượng) A và B cho dễ hiểu. Trong
thực tế, “mối liên hệ phổ biến” bao quát A, B, C, D…, n, đến vô cùng.
Điều này cũng đúng với vô số các mặt trong mỗi sự vật, hiện tượng A, B,
C, D…
b. Phân loại mối liên hệ
Tùy thuộc vào tính chất và vai trò của từng mối liên hệ, ta có thể phân loại
các mối liên hệ như sau:
- Mối liên hệ về mặt không gian và mối liên hệ về mặt thời gian giữa sự
vật, hiện tượng.
- Mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng
lớn của thế giới.
- Mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện
tượng cụ thể.
- Mối liên hệ phổ biến trực tiếp và mối liên hệ phổ biến gián tiếp
- Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối liên hệ phổ biến thứ yếu.
- Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ phổ biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên ngoài.
- Mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận.
Việc phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối bởi vì các mối liên hệ
của các đối tượng rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi các mối liên hệ
khác. Các mối liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và
phát triển cụ thể của chúng
c. Nội dung
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chính là nguyên tắc lý luận để xem xét
sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ. Chúng ràng buộc
và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các mặt của một sự vật và hiện tượng trên thế giới. Và nguyên lý này
được biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ của 6 cặp phạm trù cơ bản nêu
trên.
d. Tính chất.
- Tính khách quan: Tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là
những dạng cụ thể của vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan ở bên
ngoài và độc lập với ý thức của con người. Thông qua các mối liên hệ, con
người có thể phát hiện ra quy luật, nguyên lý của thế giới khách quan.
- Tính phổ biến được thể hiện ở:
Thứ nhất, tất cả mọi sự vật đều có mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Thứ hai, mối liên hệ được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy
theo trình độ, kết cấu vật chất nhất định.
- Tính đa dạng, phong phú: có nhiều mối liên hệ cụ thể khác nhau với
những vai trò, vị trí khác nhau trong thế giới vật chất.
Các tính chất trên có liên hệ với nhau trong đó tính phổ biến đã bao hàm
trong nó tính khách quan và tính đa dạng. Vì vậy, ta gọi nguyên lý này là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
e.Ý nghĩa phương pháp luận.
- Quan điểm toàn diện: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải xem
xét các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa cácmặt của chính sự vật, hiện tượng và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện
tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng, chính xác về sự
vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình,
chiết trung, ngụy biện trong nhận thứcvà thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó.”
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời gian đó. Do
vậy, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét,
giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ đó đòi hỏi chúng ta khi nhận
thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàncảnh lịch
sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử triết học, khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta
cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó. Phải xét
đến những tính chất đặc thù, xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của đối
tượng đó trong mối liên hệ cụ thể, trong những tình huống cụ thể. Từ đó,
chúng ta mới có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn. Đồng thời, chống lại cách đánh giá sự vật, hiện
tượng một cách dàn trải, lệch lạc, coi mọi mối liên hệ là như nhau.
Phải thấy được một luận điểm khoa học nào đó có thể đúng trong điều
kiện này nhưng sẽ không còn đúng trong điều kiện khác; một nguyên tắc
nào đó chỉ vận dụng phù hợp ởnơi này, lúc này nhưng sẽ không phù hợp
khi vận dụng vào nơi khác, lúc khác.
f. Liên hệ thực tiễn.
Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất
Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người. các địa phương trong 1 nước liên
hệ nhau.
Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ
phát triển.
Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ
bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, trực tiếp, liên hệ cơ bản,
không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
5. *Nguyên lý về sự phát triển (khái niệm phát triển, nội dung, ý
nghĩa ppl (quan điểm phát triển), liên hệ tt).
a. Khái niệm phát triển
- Quan điểm siêu hình: Phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng, không quanh
co phức tạp.
- Quan điểm biện chứng: Phát triển là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ
sự tích lũy dần dần về lượng để có sự thay đổi về chất . Quá trình này diễn
ra theo hình xoáy ốc.
- Theo quan điểm CNDVBC, “phát triển là một hình thức của vận động,
nó khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”.
- Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
* Lưu ý, phát triển là vận động nhưng chỉ có vận động nào theo khuynh
hướng đi lên thì mới là phát triển
+ Trong giới vô cơ, sự phát triển thể hiện quá trình từ đơn giản đến phức
tạp.
+ Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng
thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực, trình độ chinh phục
TN, cải tạo XH, giải phóng con người.
- Tóm lại, sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người. Nếu xét trong từng trường hợp cụ thể, sự
vật có thể đi lên, thậm chí có thể đi xuống nhưng nếu xét cả một quá trình
với không gian rộng và thời gian dài thì khuynh hướng chung của sự vật là
đi lên.
b. Nội dung.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, phát triển không ngừng. Vận
động và phát triển không đồng nghĩa như nhau. Có những vận động diễn
ra theo khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Có những vận động lại thụt lùi, đi
xuống song nó là tiền đề, là điều kiện cho sự vận động đi lên. Có khuynh
hướng vận động theo vòng tròn, lặp lại như cũ.
* Tính chất của sự phát triển.
- Tính khách quan: sự phát triển xuất phát từ nguồn gốc bên trong của sự
vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Đó là quá trình thống nhất và đấu
tranh liên tục của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn của bản thân sự
vật. Quá trình phát triển như vậy diễn ra ở bên ngoài và không phụ thuộc
vào ý thức, ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phổ biến: sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực. Trong mọi quá trình
biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới.
- Tính kế thừa, sự vật,hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt
đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật,hiện
tượng cũ.
- Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung, nhưng từng
sự vật, hiện tượng quá trình phát triển diễn ra không giống nhau tuỳ thuộc
vào không gian, thời gian tồn tại của sự vật, hiện tượng đó.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải thấy tính phức tạp, quanh co của sv/ht trong quá trình phát triển của
nó để có cách thức giải quyết thích hợp.
- Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Trong cuộc sống chúng ta phải có cái nhìn: Toàn diện, Lịch sử - cụ thể
và Phát triển.
d. Liên hệ thực tiễn
Vận dụng nguyên lý của sự phát triển trong hoạt động học tập:
Học và luyện tập để nhằm mục đích có thêm các hiểu biết, để thông qua
đó sẽ có các kỹ năng, để chúng ta sẽ có thể gặt hái được tri thức cho bản
thân. Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi cũng được hiểu chính
là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và học tập cũng có thể liên
quan đến việc tổng hợp các thông tin khác nhau. Học và rèn luyện là nhằm
để có thể trang bị các kỹ năng và tri thức: kết quả học tập, siêng năng học
tập. Làm theo gương tốt: học tập lẫn nhau, học tập kinh nghiệm. Hay theo
các nhà tâm lý thì ta hiểu học tập là một sự thay đổi tương đối lâu dài về
hành vi, là kết quả của các trãi nghiệm. Học tập còn là để có thể hiểu sâu,
hiểu rộng hơn vấn đề, lĩnh vực mà ta muốn biết từ đó sẽ giúp ta trao đổi
kiến thức, kinh nghiệm, làm tăng sự sáng tạo và trí tuệ, để thông qua đó
chúng ta áp dụng được vào đời sống và xã hội.
Việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập có vai trò quan
trọng và nó cũng mang ý nghĩa rất to lớn trong đời sống, đặc biệt là với
các đối tượng sinh viên để từ đó sẽ có thể phát triển và hoàn thiện bản
thân.
6. *Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành (dẫn đến)
những thay đổi về chất và ngược lại. (khái quát quy luật là gì – ngắn
gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn; Vị trí Quy
luật lượng – chất trong PBCDV, khái niệm (CHẤT, LƯỢNG), nội
dung 2 chiều (1. , 2. ), vai trò (“PHƯƠNG THỨC, CÁCH THỨC
CHUNG NHẤT”), ý nghĩa ppl, liên hệ tt). Nhớ ca dao, tục ngữ
a. Khái quát quy luật.
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức
chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Theo quy luật này. phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất
yếu từ những sự thay đôi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại,
những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi
mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó
là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật:
+ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Quy luật phủ định của phủ định.
b. Vị trí:
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
c. Nội dung (2 chiều )
-Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
+ Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất
lại vừa vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và
ngược lại.
+ Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn
tới sự thay đổi vềchất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất
thay đổi được gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa
chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn
của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyểnhóa thành sự vật và
hiện tượng khác.)
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ
là 118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét
về mặt tuổi.
- Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn
đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi
về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây
chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với
nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn,
tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và
chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự
kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động,
phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước
nhảy nàylà do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C.
Các hình thức của bước nhảy:
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về
chấtnhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong
thờigian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất
cảcác mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số
bộphận của sự vật.
- Lượng tác động trở lại chất.
+ Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới
tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm
thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game online
thì sẽthu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm
cao hơn.
→ Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm
nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời,
chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của
sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ
bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
d. Vai trò
Quy luật này chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động, phát triển
e. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Vì sự vật, hiện tượng có sự thống nhất giữa chất và lượng, nên chúng ta
phải có cái nhìn toàn diện, không được tuyết đối hóa yếu tố nào.
- Vì phát triển có sự tích lũy về lượng, nên trong hoạt động thực tiễn cần
có sự chuẩn bị chu đáo. Không nên “dục tốc” vì sẽ “bất đạt”.
- Vì lượng tích lũy tới giới hạn sẽ có bước chuyển về chất, nên chúng ta
không nôn nóng nhưng đồng thời cũng không thụ động, chờ đợi, trái lại
phải biết tạo và chớp lấy thời cơ để đạt mục đích.
f. Liên hệ thực tiễn.
-Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết
luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh
viên như sau:
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học:
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn
học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều
ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một môn chỉ
kéo dài khoảng 8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên
đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn.
Chính vì thế sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích
nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức,
học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức.
Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ
yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,... Đây là cơ hội
cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên. Ở đây là sự khác nhau về
bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nới sự
chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ
lượng thành chất. Chính vì vậy mà người sinhviên cần phải thay đổi nếp
sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu
của ngành giáo dục Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy sinh viên mới
hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình học tập và nghiên
cứu của mình.
7. *Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (khái
quát quy luật là gì – ngắn gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật
gì? – ngắn gọn, Vị trí của quy luật mâu thuẫn, khái niệm, phân loại
mâu thuẫn, nội dung, vai trò (NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC; HẠT
NHÂN CỦA PBCDV), ý nghĩa ppl, liên hệ tt).
a. Khái quát quy luật.
- Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa những mặt đối lập của mỗi sv,ht hoặc giữa các sv,ht với
nhau.
-Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau nhưng đồng thời là điều kiện, tiền đề để tồn tại lẫn
nhau.
- Sự đấu tranh của hai mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy
có thể chia thành từng giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng.
Song không phải bất cứ hai mặt khác nhau nào cũng là mâu thuẫn, chỉ có
hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau và nằm trong một chỉnh thể
thống nhất có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau thì mới hình thành
mâu thuẫn. Khi các mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau,
nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật:
+ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Quy luật phủ định của phủ định.
b. Vị trí:
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
c. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài (diễn giải). Xét đến
cùng, mâu thuẫn bên trong là nhân tố quyết định và mâu thuẫn bên
ngoài chỉ ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của sự vật
Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản (diễn giải)
Mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu (diễn giải)
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng (diễn giải)
d. Nội dung
Tất cả các sự vật hiện tượng đều là một chỉnh thể thống nhất có cấu
trúc với nhiều mặt, yếu tố, thuộc tính, mối liên hệ. Mỗi mâu thuẫn là
một chỉnh thể thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập vừa
thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau. Khi mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật được chuyển đến sự vật khác. Mâu thuẫn mới được hình
thành và giải quyết. Vì vậy, một sự vật hiện tượng có vô vàn mâu
thuẫn.
e. Vai trò
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển. QUY LUẬT MÂU THUẪN LÀ HẠT NHÂN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT
f. Ý nghĩa phương pháp luận
- Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải
pháp đúng cho hoạt động thực tiễn, ta phải đi sâu nghiên cứu phát hiện
ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những
mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối
lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa những
mặt đối lập đó.
- Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Khi phân tích mâu thuẫn, ta phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn. Ta phải xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn
nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và
vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng.
Chỉ có như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu
đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu
thuẫn.
- Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn.
g. Liên hệ thực tiễn
trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải
vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho
việc tiêu dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm
tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu
dùng, đây không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối
tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết
định về phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho
tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là
chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu
dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống
nhất của hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên
hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng
chuyển hóa, cùng phát triển.
8. *Quy luật phủ định của phủ định (khái quát quy luật là gì – ngắn
gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn, Vị trí của
quy luật phủ định của phủ định, khái niệm, nội dung, vai trò
(KHUYNH HƯỚNG CHUNG), ý nghĩa ppl, liên hệ tt).
a. Khái quát quy luật:
- Quy luật phủ định của phủ định (hay còn gọi là quy luật phủ định kép) là
một quy luật trong triết học, cho rằng khi một cái gì đó bị phủ định, thì sự
phủ định đó sẽ bị phủ định và dẫn đến sự khẳng định lại của điều đó.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật : Quy luật phủ định
của phủ định là một trong những quy luật cơ bản của triết học dialektic -
materialist và được nghiên cứu trong lý thuyết triết học của Marx và
Engels.
b. Vị trí:
Vị trí của quy luật phủ định của phủ định: Quy luật phủ định của phủ định
được coi là một trong những quy luật cơ bản nhất của triết học Marx-
Lenin.
c. Khái niệm:
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.
- Phủ định biện chứng là những phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho sự
phát triển của sự vật.
- Tính chất của phủ định biện chứng:
+ Tính khách quan.
+ Tính kế thừa.
- Phủ định của phủ định: là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng
phát triển của sv/ht từ trình độ thấp đến trình độ cao, có tính chu kỳ theo
hình “xoáy ốc”.
d. Nội dung
Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung
tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung những thuộc tính mới làm cho
sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.
Quy luật phủ định của phủ định cho rằng sự phát triển của một vật thể,
một quá trình hoặc một hiện tượng là một quá trình đấu tranh giữa các yếu
tố đối lập. Khi một yếu tố bị phủ định, điều đó dẫn đến sự phát triển của
yếu tố mới, nhưng yếu tố mới này cũng sẽ bị phủ định và dẫn đến sự phát
triển của yếu tố mới hơn.
e. Vai trò:
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận
động, phát triển.
g. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì sự phát triển diễn ra phức tạp, nên chúng ta phải nắm vững các mối
liên hệ để có sự tác động phù hợp với sự vật, hiện tượng . Trong thực tế,
chúng ta phải thực hiện câu: “Thắng không kiêu, bại không nản”.
- Vì phát triển là xu hướng tất yếu, nên chúng ta phải có thái độ ủng hộ cái
mới, cái tiến bộ, cái vận động phù hợp với quy luật
- Vì sự phát triển bao giờ cũng có tính kế thừa, nên chúng ta không nên
phủ định sạch trơn cũng như không được bảo thủ trong họat động thực
tiễn.
g. Liên hệ thực tiễn:
Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bòi
dưỡng nhân tài và coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Mục tiêu của giáo
dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng
tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm
cho dân giàu nước mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là quyền
và nghĩa vụ của công dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học
phí để khuyến khích và giúp đỡ người học gặp hoàn cảnh khó khăn, đảm
bảo cho tất cả mọi người đều được đi học, trường học không có sự phân
biệt dân tộc, giàu – nghèo, tôn giáo, tín ngưỡng, nam – nữ, nguồn gốc gia
đình, địa vị xã hội… Mọi công dân đều được bình đẳng về cơ hội học tập,
để người giỏi được phát huy tài năng.
Sau đó, về cơ sở vật chất – Kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục xã hội hóa
sự nghiệp giáo dục là coi phát triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân. Kêu gọi và huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư vào
giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trường học và các hình thức giáo dục,
xây dựng xã hội học tập đáp ứng nhu cầu học thường xuyên, học suốt đời
của nhân dân.
9. Cặp phạm trù cái riêng – cái chung Khái niệm. Nội dung. Ý nghĩa
phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn
a. Khái niệm:
- CÁI RIÊNG là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình nhất định.
- CÁI CHUNG là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nữa.
- CÁI ĐƠN NHẤT là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc
điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó
b. Nội dung:
- Quan điểm các nhà Duy thực và Duy danh: khẳng định, cái chung tồn
tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng
- Quan điểm của CNDVBC:
+ Cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt
của cái riêng. Và chúng luôn gắn bó hữu cơ với nhau.
+ Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập cái đơn nhất và cái
chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của
mình, nó thể hiện là cái đơn nhất; nhưng thông qua những thuộc tính lặp
lại ở các đối tượng khác – nó lại thể hiện là cái chung.
+ Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung không
đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau và
+ Cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung
thì bất cứ cái riêng nào cũng còn có cái đơn nhất.
+ Trong cùng một lúc, cái riêng vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung vì
thông qua các đặc điểm riêng có của mình, cái riêng biểu hiện là cái đơn
nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại trong các sv, ht khác, nó lại biểu
hiện là cái chung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải nhận thức cái chung để tránh vấp phải những sai lầm, khi giải quyết
các vấn đề cụ thể
- Phải cụ thể hóa cái chung nhằm khắc phục bệnh giáo điều, máy móc
hoặc cục bộ địa phương.
- Vận dụng điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái chung và cái
đơn nhất
d. Liên hệ thực tiễn:
Mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã hội khiến
cho con người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả mọi
người với tư cách người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những
thuộc tính không lặp lại ở nhau như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,...
cụ thể khác nhau.
10. Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả. Khái niệm. Nội dung. Ý
nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn
a. Khái niệm:
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn sự biến đổi nhất định.
Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
b. Nội dung:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và
kết quả có mối liên hệ qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu
tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các
hiện tượng cũng đều biển hiểu hiện mối liên hệ nhân quả.
- Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên
bởi những nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng
khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm trí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân chủ quan
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích
cực trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân
thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
- Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra,
đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... Và
quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân
quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối
cùng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính chất khách quan và tính phổ biên,
nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại
không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận
thức ngay được nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là
phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên
nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng
tượng ra từ đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực.
- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân
của một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối
liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò
khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn của chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên
nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,... Đồng thời phải nắm bắt
được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến
hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu
cực.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực
tiến chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để
tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt
mục đích.
d. Liên hệ thực tiễn:
Đối với những mối liên hệ nhân - quả trong tự nhiên, con người
càng nghiên cứu được càng nhiều càng tốt. Nhờ biết được những
hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong tự
nhiên, con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng lượng
lớn đề phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu con người.
Ví dụ: Biết được về hiện tượng của thủy triều là sức hút của mặt
trăng tạo nên làm cho nước biển bị cuốn theo gây nên những đợt
thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra
nguồn điện.
Đồng thời người ta sử dụng mối quan hệ nhân - quả của các hiện
tượng tự nhiên để thấy được những tác hại mà các hiện tượng đó gây
ra.
Mối liên hệ nhân - quả ở trong lĩnh vực xã hội, tức là lĩnh vực hoạt
động của con người phức tạp hơn rất nhiều. Mối quan hệ nhân - quả
này có đặc điểm trước hết là nó chỉ xuất hiện khi có hoạt động của
con người. Đặc điểm này có thể đúng, không đúng ở trong những
lĩnh vực khác nhau. Có những hoạt động được coi là hoạt động có ý
thức của cá nhân, nhưng lại là hoạt động vô ý thức đối với cộng
đồng. Chủ thể hoạt động bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính
bản thân mình, nhưng tác động của nó tới đời sống xã hội còn tùy
thuộc vào những mối liên hệ và những hậu quả xã hội mà nó gây ra.
Ví dụ, lợi nhuận buôn bán ma túy là rất cao, cho nên những
người buôn bán ma túy không từ bỏ một hành vi nào thúc giục việc
buôn bán ma túy để kiếm lợi. Xét từ phía cộng đồng, đó là hành
động rất có hại, hành động đó có thể nói là một hành động tự sát.
Tuy nhiên, những tác động đó người ta không thể ngăn chặn một
sớm một chiều, nếu không nghiên cứu những quan hệ lợi ích tác
động vào quan hệ nhân - quả.
Do đó nghiên cứu mối quan hệ nhân - quả ở trong đời sống xã hội cũng
chính là nghiên cứu mối quan hệ tác ddoonhj về mặt lợi ích. Những lợi ích
nào được sinh ra từ những tác động nào, nó đưa lại những hậu quả nào, đó
chính là mục tiêu để nghiên cứu mối quan hệ nhân - quả trong đời sống
cộng đồng.
Tóm lại, mối quan hệ nhân - quả dược thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực.
Nhưng dù ở lĩnh vực nào thì con người cũng phải luôn tìm hiểu, nghiên
cứu khắc phục, tránh những hậu quả xấu do các tác động gây ra. Ngược
lại, cũng có thể lợi dụng mối quan hệ nhân - quả này để phục vụ cho cuộc
sống của mình.
11. Cặp phạm trù nội dung – hình thức; bản chất – hiện tượng. Khái
niệm. Nội dung. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn
a. Khái niệm:
- Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật,
hiện tượng.
- Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, và phát triển của sv, ht; là
hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội
dung của sv, ht...
b. Nội dung:
Sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài và hình thức bên trong.
Phép biện chứng chú ý đến hình thức bên trong của sự vật, tức là hệ thống
các mối liên hệ giữa các yếu tố của sự vật.(cơ cấu bên trong của nội dung)
Trong con người: nội dung là các bộ phận của cơ thể con người - cách sắp
xếp các bộ phận của Cơ thể là hình thức.
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau. Không có một hình
thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức nhất định.
- Nội dung giữ vai trò quyết định. Sự biến đổi và phát triển của SV bao
giờ cũng bắt đầu từ ND. Còn hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi
chậm hơn. Nội dung biến đổi buộc hình thức biến đổi theo cho phù hợp
với nó. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa
ND và HT.
- Nội dung thường xuyên biến đổi còn hình thức tương đối ổn định. Sự
biến đổi của nội dung quyết định làm cho hình thức phải biến đổi cho phù
hợp với nội dung.
- Hình thức tác động lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc
đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát
triển của nội dung
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong
nhận thức và thực tiễn, không được tách rời nội dung và hình thức.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng trước
hết phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước
hết phải thay đổi nội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tính tích cực của hình thức đối với nội
dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức đối với nội dung; mặt
khác phải thay đổi những hình thức không còn phù hợp, cản trở nội dung.
d. Liên hệ thực tiễn
12. Cặp phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực. Khái
niệm. Nội dung. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn
a. Khái niệm:
- Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ bản
bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải
xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
- Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân,
hoàn cảnh bên ngoài quy định nên có thể xuất hiện, có thể không...
b. Nội dung:
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại một cách khách quan, ở bên ngoài và độc
lập với ý thức của con người.
+ Dù con người có nhận thức được hay chưa, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn
tồn tại và phát huy vai trò của nó đối với sự phát triển của sự vật, hiện
tượng.
+ Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai
trò quan trọng:
Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
Cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật, có thể
làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.
Sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu
nhiên, kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ, ví dụ như cá tính của người lúc
đầu lãnh đạo phong trào cách mạng.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt thống nhất và đối lập.
Tuy cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không bao giờ
tồn tại biệt lập với nhau dưới dạng thuần túy, mà bao giờ cũng tồn tại
trong sự thống nhất hữu cơ.
Sự thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số
cái ngẫu nhiên.
+ Cái nghẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời bổ
sung cho cái tất nhiên.
Tức là, cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển.
Khuynh hướng ấy mỗi khi tự bộc lộ mình thì bao giờ cũng bộc lộ ra dưới
một hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.
Bản thân cái tất nhiên chỉ có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên.
Còn tất cả những gì ta thấy trong hiện thực và cho là ngẫu nhiên thì đều
không phải là ngẫu nhiên thuần túy, mà là những ngẫu nhiên đã bao hàm
cái tất nhiên, đã che giấu cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
+ Trong hiện thực, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở
trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, và trong những điều kiện nhất
định, chúng chuyển hóa lẫn nhau. Tức là, tất nhiên biến thành ngẫu
nhiên và ngược lại.
Ví dụ:
+ Trong xã hội công xã nguyên thủy, việc trao đổi vật này (áo…) lấy một
vật khác (gà…) là ngẫu nhiên. Vì khi ấy sức sản xuất của công xã chỉ đủ
riêng cho mình dùng.
+ Sau này, khi sự phân công lao động đã rộng rãi, năng lực sản xuất đã
lớn, có nhiều sản phẩm dư thừa. Khi đó, sự trao đổi sản phẩm tất yếu phải
diễn ra để làm cho cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn.
– Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. Thông qua
những mặt này, hay trong mối quan hệ này, thì biểu hiện là tất nhiên
nhiên, nhưng qua những mặt khác, mối quan hệ khác, thì lại là ngẫu nhiên;
và ngược lại.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp
phần xây dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại
cho chúng ta bài học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống
hàng ngày:
Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên
chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản
chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn
cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể
xảy ra, có thể không.
Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiênnagaaxuoong tách rời cái tất
nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái
tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu
nhiên
Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để
cản trỏe hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh,
phù hợp với mong muốn của chúng ta.
d. Liên hệ thực tiễn
Xét về khái niệm phạm trù tất nhiên, để chứng minh cho nó, ta thấy: ở ví
dụ đã nêu thì việc đỗ đại học là một điều“tất nhiên” với mỗi chúng ta bởi
lẽ: Một là, trong việc từ một học sinh trung học phổ thông mà muốn trở
thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội thì điều tất nhiên là ta phải
đỗ vào kì thi tuyển sinh đầu vào.
Việc đỗ Đại học này với mỗi chúng ta bắt buộc phải xảy ra vì nó là điều
kiện để ta thực hiện bước chuyển hóa của ta từ học sinh thành sinh viên.
Hai là, xét với mối quan hệ với những việc xảy ra trước đó thì việc đỗ vào
đại học luật Hà Nội là tất yếu vì: ta có một quá trình rèn luyện học tập tốt
từ thời THPT, bản thân ta là người có ý thức trong việc đưa ra quyết định
thi vào trường đại học luật Hà Nội …và có thể kể đến những yếu tố khác
như sức khỏe ,tâm lý ngày thi rất tốt .v.v.
Và như vậy, khi một thí sinh dự thi mà hội tụ được những điều cơ bản như
trên thì việc thí sinh đó trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội
là tất nhiên, nhất định không thể nào khác được.
Xét về khái niệm phạm trù ngẫu nhiên, ta có thể xem xé ví dụ, chẳng hạn
như việc xếp lớp, xếp nhóm và điển hình là 11 bạn trong nhóm A3 của lớp
18 này: Sau khi đỗ vào trường Đại học Luật Hà Nội thì với sự sắp xếp của
phòng Đào tạo nhà trường 11 bạn này sẽ được ngẫu nhiên ngồi chung một
lớp – lớp 18 và ngẫu nhiên họ lại được tập hợp thành 1 nhóm và được đặt
là A3.
Việc ngồi chung một lớp hay một nhóm này không phải do các bạn tự
quyết định, cũng không phải do sự sắp đặt sẵn của nhà trường: những bạn
có tên, có điểm, có khối thi…như thế này phải vào lớp này, nhóm này.
Điều này chính là do nhân tố bên ngoài quyết định. Ở đây nhân tố bên
ngoài chính là sự sắp xếp một cách ngẫu nhiên của hệ thống máy tính, của
phòng đào tạo đã tạo ra kết quả đó.
Tuy nhiên cũng có thể do sự sắp xếp ngẫu nhiên này mà 11 người này có
thể không ngồi cùng một lớp hoặc ngồi cùng 1 lớp nhưng khác nhóm
nhau. Điều đó rất có thể xảy ra bởi lẽ nhóm A3 hiện tại chỉ là một tập hợp
ngẫu nhiên một nhóm người, là một khả năng xảy ra, không có điều gì
chắc cắn cả.
Tóm lại việc chúng ta – những sinh viên đang học ở K3818 việc đỗ đại
học là điều tất nhiên, nhưng trước đó chúng ta cũng phải trải qua nhiều
việc ngẫu nhiên khác như chọn trường, may mắnv.v.v.. Và việc sau này
khi chúng ta được học chung một lớp liệu điều đó có phải là yếu tố “ngẫu
nhiên” nữa hay không hay đó cũng có thể là “tất nhiên”
13. *Vai trò thực tiễn đối với nhận thức (nhận thức là gì – ngắn gọn,
thực tiễn là gì (hoạt động vật chất cảm tính) …., các hình thức của
thực tiễn (3 hình thức, hình thức nào đóng vai trò quyết định, vì sao),
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức (thực tiễn là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý), ý
nghĩa ppl (lý luận phải gắn liền với thực tiễn), liên hệ tt).
a. Nhận thức là gì:
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra
những tri thức về thế giới khách quan đó.
Gồm có nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
b. Thực tiễn là gì:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động VẬT CHẤT có mục đích, mang tính lịch
sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
c. Các hình thức của thực tiễn
– Hoạt động sản xuất vật chất.
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công nhân trong
các nhà máy, xí nghiệp…
– Hoạt động chính trị – xã hội.
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh
niên trường học, Hội nghị công đoàn
– Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm
ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh
mới.
d. Vai trò:
- Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở cho nhận thức. Thông qua hoạt động thực
tiễn con người buộc thế giới bộc lộ những thuộc tính, cung cấp những tài
liệu... giúp con người biết được các quy luật vận động và phát triển của thế
giới.
Bởi vì con người quan hệ với thế giới, với xã hội không phải xuất phát từ
lý luận mà bắt đầu từ thực tiễn cuộc sống. Chính vì vậy, có thể nói, thực
tiễn đã cung cấp những tư liệu, thông tin của thế giới cho quá trình nhận
thức.
- Thứ 2, Thực tiễn là động lực của nhận thức
+ Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức.
Thực tiễn là động lực của nhận thức. Bởi vì qua hoạt động thực tiễn con
người không chỉ biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội mà biến đổi cả bản thân
mình về năng lực, phẩm chất. Nhờ năng lực đó, con người có điều kiện đi
sâu hơn vào thế giới, khám phá những bí mật của thế giới.
- Thứ 3, Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải biến thực tiễn phục vụ đời sống con người.
- Thứ tư, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa,
phát triển và hoàn thiện nhận thức
e. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn.
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành.
Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai
trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
f. Liên hệ thực tiễn.
– Trong học tập: Khi học một môn học, học sinh cần phải kết hợp kiến
thức teoretical với thực tiễn để hiểu rõ hơn về chủ đề đó.
– Trong giải quyết vấn đề: Khi giải quyết một vấn đề, người ta cần phải
kết hợp kiến thức với thực tiễn để tìm ra giải pháp tốt nhất.
– Trong quản lý: Trong quản lý, nhà quản lý cần phải kết hợp thực tiễn với
kiến thức để quản lý công việc và nhân sự một cách hiệu quả.
Trong mọi trường hợp, thực tiễn cung cấp cho chúng ta một cách hiểu về
thế giới xung quanh chúng ta và giúp chúng ta thấu hiểu các ý tưởng và
quan điểm hơn.
c. Lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự
nhiên trong quá trình sản xuất, nó thể hiện năng lực chinh phục tự nhiên
của con người.
- Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố
thuộc về người lao động, (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao
động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công
cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các
nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.
-Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố người lao động là
nhân tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất
chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực
tế của các tư liệu sản xuất. phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng
tạo của người lao động.
- Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố
phản ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình
độ con người chinh phục giới tự nhiên.
- Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất
của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra
thiếu một trong hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng
chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực
được mà cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã
hội của quá trình sản xuất ấy.
d. Quan hệ sản xuất
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
- Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất.
- Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người.
- Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất (Quan hệ sở hữu), Quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất,
Quan hệ về phân phối sản phẩm (là sự thể hiện việc phân chia các lợi ích
kinh tế từ sản xuất cho đến người tham gia sản xuất.
- Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất
trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ
về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng hư các
quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do
quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy
nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan
hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
- Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích
thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
sản xuất phát triển.
e. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
f. Liên hệ thực tiễn.
Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt
với hiện đại hóa, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước
khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa và muốn thành công trên đất
nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao
động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là
nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm
năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao
động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất
nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số
vấn đề của đất nước về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết trên cơ sở
một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần
kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với
thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì dân giàu nước mạnh
công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc
thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn
hiện nay của nước ta.
17. *Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
(khái niệm CSHT (phân tích), KTTT (phân tích), nội dung (CSHT
quyết định KTTT; KTTT có sự tác động trở lại: phù hợp (tích cực) –
thúc đẩy; không phù hợp (tiêu cực) – kìm hãm), ý nghĩa ppl, liên hệ
tt. (nếu liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị).
a.Cơ sở hạ tầng:
Cở sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định”. CSHT ở đây là một phạm trù triết học, cần
phân biệt với thuật ngữ cơ sở hạ tầng trong ngành xây dựng (điện, đường,
trường, trạm)
·Về mặt kết cấu cơ sở hạ tầng gồm có: quan hệ sản xuất thống trị, những
quan hệ sản xuất tàn dư của thế hệ trước đó, những quan hệ sản xuất là
nền móng của xã hội sau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị
chi phối, có vai trò chủ đạo quyết định tính chất của một cơ sở hạ tầng
nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò
nhất định
·Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ
xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là
cơ sở hiện thực để con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng
b. Kiến trúc thượng tầng:
· Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội,
những tiết chế tương ứng, và những quan hệ nội tại của chúng được hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
·Về mặt kết cấu KTTT gồm: những quan điểm, tư tưởng của xã hội (về
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,…) và những thiết chế xã hội
tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội và những đoàn thể xã hội khác)
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận
động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có
quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị,
pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như
triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương
ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở
hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh
tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của
xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính
trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền,
triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ
tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất
hiện hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô
lệ,đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của
các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở
kinh tế xã hội (hay CSHT) của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản
chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng như quá
trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp
kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt
đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng
cho, bỏ đói hay giết chết.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thayđổi
theo. Quá trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổitừ hình
thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn
ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sựthay đổi cơ sở hạ
tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn rarất phức tạp. Trong
đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thayđổi nhanh chóng cùng
với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, phápluật.
VD: +) Thay đổi từ HT KT-XH này sang HT-KT XH khác: Nhà nước
phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành
của nhà nước là quan hệ sản xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ
chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa chủ phong kiến nắm trong
tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc
vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa thị
trường phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản
xuất và xã hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình
đẳng, hội họp kinh doanh và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong
kiến hà khắc đã không còn phù hợp với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo
của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản,
mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
+) Diễn ra ngay trong bản thân các HT KT-XH: Thời bao cấp, VN ta có
nền kinh tế nhà nước chỉ huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ.
Tuy nhiên dần dần cho tới hiện nay, VN đang phát triển kinh tế theo nền
kt thị trường, có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các
doanh nghiệp được tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi này diễn ra
ngay trong hình thái KT-XH XHCN
- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến
cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau,
cócách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quyluật
kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển;
nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãmphát
triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát
triểnkinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách
quancủa xã hội.
d.Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúcthượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính
trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất
của vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của
các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động
của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu
thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy Lenin
viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không thể
không chiếm vị trí hạng đầu so với kinh tế”.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố
nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Bởi:
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào
quan điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ,
bất chấp kỷ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò
củakinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy
giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
-Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Điều đó thể
hiện ở chỗ: trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi
mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổimới kinh tế là trung tâm,
đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những
hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn
định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN.
e.Liên hệ thực tiễn:
Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn vớiphát
triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị
tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp vànông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn vànông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với
cáchình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng
vớikinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm
tốtcác chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy
hoạch,kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
củathị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật,
giảmtối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh
nghiệp…+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại
thịtrường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trongnền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực
hiệnnhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi
vớixoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dântộc,
quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tưtưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối vớiNhà
nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm
sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính
giaicấp, tính dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về
nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền,
các ban ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến
bộmang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng
xã hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao
cảnhgiác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế
và lật đổ chế độ.
18.Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên. (Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Cấu trúc hình thái kinh
tế - xã hội. Sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh tế - xã hội? Chứng
minh sự chuyển tiếp ấy là một quá trình lịch sử - tự nhiên,…).
a. Hình thái kinh tế - xã hội:
là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa
duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó
chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức
tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng
và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
b. Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất: tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội, mang tính chất
quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội
+ Lực lượng sản xuất: được coi là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi
hình thái kinh tế – xã hội. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau sẽ có
lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là
nguồn gốc, là căn cứ có sự quyết định đến sự hình thành, phát triển và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội
+ Ngoài ra, còn có yếu tố khác tác động đến sự phát triển của hình thái
kinh tế – xã hội: Bên cạnh hai yếu tố trên là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, thì còn có các yếu tố sau ảnh hưởng như yếu tố về dân tộc; quan
hệ về gia đình; các quan hệ ngoài xã hội khác; bao gồm các yếu tố liên
quan đến lĩnh vực tư tưởng, văn hóa – xã hội, lĩnh vực chính trị. Về cơ
bản, mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế – xã hội vừa tồn tại một cách độc
lập vừa có sựa bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau.
c.Sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh tế - xã hội và chứng minh:
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ
thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái Kinh tế – Xã
hội. Sự vận động thay thế nối tiếp nhau của các Hình thái Kinh tế – Xã hội
trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan. C. Mác nhận
định rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên”. Bởi các lý do sau:
– Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát
triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguồn
gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
– Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, quá trình thay thế
lẫn nhau từ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản nguyên thủy đến hình thái
kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, tiếp theo đến hình thái kinh tế-xã hội
phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa có sự tác động từ các yếu tố chủ quan, nhưng suy xét
đến cùng căn bản nhất nguyên nhân giữ vai trò quyết định là sự tác động
của các yếu tố quy luật khách quan.
Trong đó các quy luật khách quan là chính bản thân cấu trúc hình thái kinh
tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học,…Tuy nhiên quan hệ sản xuất là cơ bản nhất,
đảm bảo cho sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển diễn ra bằng con đường phát
triển mang tính chất tuần tự. Trong quá trình tiến triển của các Hình thái
Kinh tế – Xã hội, hình thái mới sẽ không xóa bỏ mọi yếu tố của hình thái
cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ sẽ có sự bảo tồn và kế
thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra
bước phát triển.
19.*Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. (khái niệm
TTXH (phân tích), YTXH (phân tích), nội dung quy luật (TTXH
quyết định YTXH và YTXH có sự tác động trở lại), ý nghĩa ppl, liên
hệ tt (văn hóa).
a.Tồn tại xã hội
- Khái niệm:
+Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội
giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
+Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh
tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này
xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác
công cụ. Côngcụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ
thuật chế tác, có nhiềuloại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì
này con người nhận biết và tậndụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất
sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đóđiều kiện khí hậu thuận lợi cộng với
sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong
phú.
- Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
+ Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ:
phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
+ Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của
không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
+ Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, môhình tổ chức dân cư,...Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn
và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ
quyết định sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô
phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông
ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích
hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, cótính ổn
định bền vững,...
b.Ý thức xã hội:
- Khái niệm:
+ Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy
sinh từ tồntại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt
Namcó hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ,
nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo. Ta cần thấy rõ sự khác nhau
tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
+ Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ
thể. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ
khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân
không phải baogiờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến
của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
+ Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những
hình tháikhác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác
nhau.
+ Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện
chứng vớinhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
- Kết cấu của ý thức xã hội
+ Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con ngườihình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn
hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa,
khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, quy luật…
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sốnghàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ
ý thức thông thườngtuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh
nghiệm phong phú của nó là tiềnđề quan trọng cho sự hình thành các
lý thuyết khoa học.
+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
*Tâm lý xã hội
+ Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen,
tậpquán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
hìnhthành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó.
+Đặc điểm:
Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con
người.
Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề
ngoài củatồn tại xã hội.
Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các
mối quanhệ xã hội của con người.
Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận,
cònyếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm
+ Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm
lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội.
* Hệ tư tưởng:
+ Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được
hình thànhkhi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh
hoạt vật chất củamình.
+ Đặc điểm:
Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện
tượng
Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội.
Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp
nhất địnhvà truyền bá trong xã hội
Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ
thuật, tôn giáo…), kết quả của sự khái quát hóa những kinh
nghiệm xã hội.c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng.Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau
của ý thức xã hội, nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối
liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có chung nguồn gốc là
tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
+ Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự
hình thành, truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư
tưởng nhất định.
+ Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho
tâm lý xãhội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát
triển theo chiều hướngđúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã
hội- Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội,
không phải làsự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã
hội của giai cấp côngnhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai
cấp tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của
nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và
triết học vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. → Như vậy, hệ tư
tưởng liên hệ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội,
nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội..
- Tính giai cấp của ý thức xã hội:
+ Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt
vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp
quy định, nên ý thức xã hội của các giaicấp có nội dung và hình thức phát
triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
+ Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ
tư tưởng xã hội.
Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập
đoàn xã hội khác
Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện
sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng
có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: Tư tưởng của giai
cấp bóc lột và bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị
Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động
qua lại với nhau. Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng
của giai cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư
tưởng của giai cấp bị trị
+ Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng hạn như những điều kiện lịch sử,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.Vì vậy, trong ý thức xã hội,
ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâmlý dân
tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
c.Nội dung quy luật:
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện
là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó
được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể
tìm nguồn gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong
chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản
xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng
ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối
này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền
thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên
nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người; thường diễn ra với
tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp thời và trở nên
lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn
tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng tổ chứ chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội
đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm
thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với
sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào
tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
d.Ý nghĩa phương pháp luận.
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vây, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi
mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức
xã hội.
-Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay
đổi ý thức xã hội. -Quán triêt nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong
sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống xã hội
tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện
đại háo đất nước.
e. Liên hệ thực tiễn ( văn hóa ):
-Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hộinhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức
đan xen. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát
huy tác động tích cực củađời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát
triển kinh tế vào công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải
tránh tái phạm sai lầm chủ quan trong việc xâydựng văn hóa, con người
mới. Cụ thể, Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam,
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch
vụ.
- Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và đang làm chao đảo
nhiều giá trịtinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt,
một số giá trị đạo đứctốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng trong
hệ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị
mai một và bào mòn. Trong quá trình điều chỉnh theo cơ chế thị trường, dễ
dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu bằng mọi thủ đoạn, làm phá
vỡ những giá trị văn hóa.
VD: Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và
cũng hình thành nên tâm lí sính ngoại của người dân.
- Không chỉ vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là nhân tố đặc biệt quan
trọng, quyđịnh sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Đặc trưng
nổi bật của cách mạngcông nghiệp 4.0 là sự kết hợp công nghiệp trong các
lĩnh vực khác nhau, nhờ đó xóabỏ dần các ranh giới và có tác động sâu sắc
đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hộicùng rất nhiều những thành tựu.
- Nhưng bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất
hiện cảnhững hệ tư tưởng lệch lạc.
20.*Khái niệm con người và bản chất con người. (khái niệm con
người từ thời kỳ cổ đại, trung cận đại, triết học cổ điển Đức,… (sơ
lược) đến THM-L (phân tích), bản chất con người (phân tích) – nhớ
bàn luận: liệu rằng bản chất con người có thể thay đổi hay ko, nếu có
thì giải pháp (giáo dục – đào tạo, nâng cao nhận thức, xây dựng môi
trường sống tốt đẹp, lành mạnh,…) , ý nghĩa ppl, liên hệ tt.
a, Khái niệm con người:
* Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh
thần). Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được
giải thoát để trở thành bất diệt.
- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức
“nhân” là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh
hưởng của phong tục, tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải
thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.
- Tuân Tử: Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là các,
nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt
được.
- Đổng Trọng Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm
cực đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau
(Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên
mệnh”.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải
sống “vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con
người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...
Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố
duy tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối
quan hệ với tự nhiên và xã hội.
* Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn.
Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường
xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế.
Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối”, còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự
phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể
tách rời.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là
đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu
hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các
quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là
tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con
người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội
trong đời sống con người.
b. Bản chất con người:
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học với các giá trị mang đến nhận thức, đánh giá và phản ánh ở các giai
đoạn, các thời kỳ trước.
Đồng thời chỉ ra các điểm tiến bộ trong nghiên cứu, khẳng định con
người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
được sinh ra với sự độc lập mang tính cá thể, với các quan hệ huyết
thống và các đặc điểm kèm theo. Bên cạnh yếu tố xã hội ràng buộc, tạo
thành các mối quan hệ khác nhau, xác định trong xây dựng quan hệ
trong lao động sản xuất, trong hợp tác làm ăn, trong sinh hoạt hàng
ngày, điều đó mang đến đặc trưng thể hiện.
Sự thống nhất của yếu tố sinh học và xã hội mới làm nên con người.
Trong quá trình phát triển, nhận thức, tác động ngược trở lại thế giới.
Để tìm kiếm, khai thác các lợi ích trong nhu cầu ngày càng cao. Gắn
với ứng dụng các sự vật trong tự nhiên để tạo ra các giá trị mới cao
hơn, chất lượng và phục vụ đảm bảo các nhu cầu hơn.
+ Yếu tố sinh học:
Là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Nghiên cứu
với các cách thức tạo ra con người. Với sự tác động mang đến và củng
cố các nhận thức qua thời gian. Các kinh nghiệm, kiến thức phải được
tổng hợp để con người tạo ra giá trị của bản thân. Bản chất sinh học của
con người được thể hiện thông qua:
– Các đặc điểm sinh học.
– Quá trình tâm – sinh lý.
– Và các giai đoạn phát triển khác nhau.
+ Yếu tố xã hội:
Gắn với các xuất phát từ vấn đề lao động sản xuất. Mang đến đời sống
vật chất, nguồn thức ăn hay đồ vật sử dụng. Cũng như tham gia trong
trao đổi để hình thành tiền là phương tiện mang giá trị trung gian. Lao
động cũng mang đến hiệu quả của sản xuất, buôn bán. Từ đó mới giúp
con người giàu có, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con
người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng
sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ
thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật
chất của mình”.
Qua đó mà thấy được các ý nghĩa tìm thấy được. Đó là các giá trị,
mang đến các tác động làm thay đổi thể giới theo chiều hướng tích cực.
Trong nhu cầu tiếp cận hiệu quả hơn của con người: “Con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự
nhiên”.
Như vậy, việc tác động vào thế giới thông qua nhận thức, hành động có
chủ đích được thực hiện bởi con người. Trong nhu cầu làm thay đổi,
mang đến các giá trị từ tự nhiên để phục vụ cho con người.
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội:
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau:
– Quan hệ với tự nhiên.
– Quan hệ với xã hội.
– Quan hệ với chính bản thân con người.
Mang đến các tác động qua lại đối với xã hội. Các xây dựng mỗi quan
hệ giữa con người với con người thể hiện cho các mục đích và ý nghĩa
bao trùm.Từ đó tác động lên tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt
động trong chừng mực liên quan đến con người. Tổng hòa cho các lợi
ích, các tiếp cận. Và hướng đến cung cấp cho con người.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Với tư cách là thực thể xã
hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới
tự nhiên. Mang đến các tiếp cận ban đầu để hình thành lên nhận thức.
Cũng như sau đó có các kinh nghiệm, có sự học tập và phát triển nhu
cầu. Từ đó thực hiện các tác động với ý nghĩa mong muốn ngày càng
cao, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử, mang đến
các giai đoạn với đặc điểm tác động vào tự nhiên khác nhau của con
người. Thể hiện các giai đoạn và tiến trình lịch sử.
Trong khi thế giới loài vật dựa vào những điều kiện sẵn có của tự
nhiên, sử dụng không đi đôi với phục hồi, cải tạo hay xây dựng, phát
triển, thì con người lại thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú tự nhiên. Tác động và tái tạo lại tự nhiên theo mục đích của
mình. Đảm bảo cho các nhu cầu ngày càng cao, cũng như thể hiện khi
con người có thể làm chủ được toàn bộ.
Hoạt động lao động sản xuất là nguồn gốc đối với các phát triển đó.
Vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Phải làm, phải lao động
để có ăn, có trao đổi và chênh lệch lợi ích. Từ đó trở thành phương thức
để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Tác động và làm thay đổi
trong định hướng phục vụ cho con người.
* Bàn luận:
- Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
- Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua
đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp.
- Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định
tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của
bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn.
Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động
đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có
tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác
động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: Hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm
chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người
tới hoạt động vật chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì
không thể chỉ dơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà
điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã
hội của nó, từ những quuan hệ kinh tế - xã hội của nó.
- Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là
năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực
sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động
lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
- Ba là, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng
tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan
hệ kinh tế - xã hội.
d. Liên hệ thực tiễn.
Tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo
sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng
lực lao động, nâng cao tay nghề
Tạo ra môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng
người và lợi ích của cộng đồng.
Chủ đề 21: Vấn đề giai cấp (Định nghĩa, nguồn gốc, kết cấu của giai
cấp, đấu tranh giai cấp)
a. Định nghĩa:
V.I. Lênin định nghĩa về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập
đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã
hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
b. Nguồn gốc:
Giai cấp được hình thành từ sự phân hoá trong quá trình sản xuất. Sự phân
hoá này được gắn liền với việc phân chia lao động trong xã hội, từ đó tạo
ra các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
c. Kết cấu:
Kết cấu giai cấp bao gồm các tầng lớp khác nhau, từ tầng lớp tư sản đến
tầng lớp lao động. Tầng lớp tư sản là những người sở hữu các phương tiện
sản xuất, trong khi tầng lớp lao động là những người phải bán sức lao
động của mình để kiếm sống.
d. Đấu tranh giai cấp:
Theo triết học Mac-Lenin, đấu tranh giai cấp là quá trình các tầng lớp
trong xã hội đấu tranh để bảo vệ hoặc mở rộng quyền lợi của mình. Đấu
tranh giai cấp là cơ chế động lực cho sự phát triển của xã hội.
Chủ đề 22: Vấn đề dân tộc (các hình thức cộng đồng người trước khi
hình thành dân tộc, khái niệm dân tộc, …)
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc:
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những
cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời,
các hình thức cộng đồng người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc,
dân tộc.
- Thị tộc: là thiết chế xã hội đầu tiên, hình thức cộng đồng người sớm nhất
của loài người. Thị tộc có chung huyết thống, chung ngôn ngữ, tập quán,
tín ngưỡng, văn hóa. Mỗi thị tộc có khu vực cư trú, vùng săn bắt và tên gọi
riêng. Cơ sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu
sản xuất và tài sản. Họ cùng lao động và mọi sản phẩm được chia đều cho
tất cả các thành viên trong thị tộc. Tổ chức xã hội: Các thành viên của thị
tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công việc
chung của thị tộc.
- Bộ lạc: là cộng đồng bao gồm nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Đặc trưng của bộ lạc là có cùng
ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng chung sống
trên một vùng lãnh thổ. Cơ sở tồn tại về kinh tế của bộ lạc là chế độ công
hữu về đất đai và công cụ sản xuất. Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất
bằng kim loại đã được hình thành tạo nên hình thức phân công lao động xã
hội đầu tiên giữa trồng trọt và chăn nuôi, nông nghiệp với thủ công
nghiệp... Đây là tiền đề khách quan của sự xuất hiện sở hữu tư nhân. Tổ
chức xã hội: Đứng đầu bộ lạc là hội đồng tù trưởng của các thị tộc tham
gia bộ lạc và có một vị thủ lĩnh tối cao. Mọi vấn đề quan trọng của bộ lạc
đều được bàn bạc và thông qua trong hội đồng này.
- Bộ tộc: là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân
chia giai cấp. Bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc sống trên một lãnh thổ
nhất định có thể cùng hoặc khác huyết thống. Mỗi bộ tộc có tên gọi và có
những đặc điểm về kinh tế, văn hóa riêng. Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ
tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa
ngôn ngữ và văn hóa, trong đó, ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung
tâm của sự giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của
cả bộ tộc. Tổ chức xã hội: Nhà nước là người điều hành xã hội. Nhà nước
do giai cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị
trong xã hội.
- Dân tộc: là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử
trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền
kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với
một nhà nước và phát luật thống nhất. Tổ chức xã hội: Dân tộc là hình
thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính
trị và nhà nước. Dân tộc là một cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao,
ổn định và tương đối bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao.
Đặc điểm của dân tộc:
+ Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất.
+ Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
+ Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về kinh tế.
+ Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý và tính cách.
+ Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống
nhất.
b. Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một cộng đồng nhân dân có chung nguồn gốc, lịch sử, văn hóa,
ngôn ngữ, địa lý và tâm tình, và tồn tại như một thực thể độc lập trong xã
hội.
Chủ đề 23: Vấn đề nhà nước và cách mạng (khái niệm, bản chất, đặc
trưng, chức năng cơ bản, các kiểu và hình thức nhà nước; Nguồn gốc,
bản chất của cách mạng xã hội)
a. Khái niệm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm vè nhà nước. Có thể hiểu cơ bản: nhà
nước là tổ chức chính trị, xã hội; có giai cấp, có lãnh thổ, chính quyền và
dân cư độc lập. Nhà nước có quyền lực, luật pháp để thực hiện các chức
năng quản lý nhằm duy trì trật tự trong vùng lãnh thổ nhất định.
b. Bản chất:
Bản chất của nhà nước là những thứ bên trong nhà nước; thể hiện những
đặc tính, giá trị cốt lõi của nhà nước; gắn liền với quá trình hình thành và
phát triển của nó.
Bản chất của nhà nước được thể hiện qua các mặt sau đây:
Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt.
Nhà nước phân chia cư dân theo lãnh thổ.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia, lãnh thổ không phụ thuộc vào yếu tố
bên ngoài.
Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bằng pháp luật đối
với toàn xã hội.
c. Đặc trưng cơ bản:
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên như: hệ thống chính quyền từ trung
ương tới cơ sở, lực lượng vũ trang, cảnh sát, nhà tù... đó là “những công
cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước”1.
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền
d. Chức năng cơ bản:
Nhà nước, về bản chất là công cụ thống trị của giai cấp thống trị, song để
duy trì xã hội trong vòng “trật tự”, nhà nước đồng thời phải thực hiện
nhiều chức năng: chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng
xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng thống trị
chính trị của giai cấp chịu sự quy định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là
công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền
lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
Bộ máy quyền lực của nhà nước được tổ chức từ trung ương đến cơ sở,
nhân danh nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp mọi sự phản kháng của
giai cấp bị trị, các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ địa vị và quyền lợi
của giai cấp thống trị. Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở
chỗ, nhà nước nhân danh xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội,
điều hành các công việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế,
giáo dục, bảo vệ môi trường,... để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật
tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị. Chức năng đối nội của nhà nước
là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua các
công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa,
y tế, giáo dục,... Chức năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp ứng và giải
quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội. Chức năng đối nội được nhà
nước thực hiện một cách thường xuyên, liên tục thông qua lăng kính giai
cấp của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển
khai thực hiện chính sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm giải quyết
mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia -
dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục,... của mình.
e. Các kiểu và hình thức nhà nước:
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai
cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh
tế - xã hội nào. Trong lịch sử xã hội có giai cấp, chỉ có giai cấp chủ nô, địa
chủ phong kiến, tư sản và vô sản đã từng có nhà nước, lấy nhà nước làm
công cụ thống trị của giai cấp mình.
Như vậy, trong lịch sử có bốn kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô quý tộc,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà
nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức
nhà nước chịu sự quy định của bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tính
chất và trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, bởi cơ cấu giai cấp, tương
quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội, bởi đặc điểm lịch sử, văn
hóa - xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi quốc gia -
dân tộc.
Ví dụ: Trong nhà nước chủ nô quý tộc thời kỳ chiếm hữu nô lệ từng tồn tại
nhiều hình thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, nhà
nước cộng hòa dân chủ chủ nô,...
Trong kiểu nhà nước phong kiến, tồn tại hình thức nhà nước phong kiến
tập quyền và nhà nước phong kiến phân quyền. Trong kiểu nhà nước tư
bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: chế độ cộng hòa, chế độ cộng
hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa thủ tướng, chế
độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung,...
Trong kiểu nhà nước vô sản là kiểu nhà nước “đặc biệt”, là nhà nước của
số đông thống trị số ít thì tồn tại
hình thức nhà nước chuyên chính vô sản.
f. Nguồn gốc:
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp
ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất
yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì trật tự xã hội
trong vòng “trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị được
bảo đảm. Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, xuất
hiện chế độ tư hữu.
g. Bản chất của cách mạng xã hội:
Cách mạng xã hội là quá trình đấu tranh của các giai cấp trong xã hội để
thay đổi cơ cấu xã hội, loại bỏ sự bất công và đạt được sự cải tiến đáng kể
trong điều kiện sống của con người. Bản chất của cách mạng xã hội là sự
thay đổi của quyền lực chính trị và kinh tế, từ các giai cấp thống trị sang
các giai cấp tiến bộ.
| 1/80

Preview text:

ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2022 – 2023

Họ và tên: Phan Thị Ngọc Ánh MSSV: 22520073 STT: 69
1.Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. (Trước V.I.Lênin, các nhà triết học
quan niệm vật chất như thế nào, cuộc cách mạng KHTN, định nghĩa vật
chất của V.I.Lênin, ý nghĩa ppl (phải tôn trọng thực tại khách quan), liên hệ tt)
a. Quan niệm vật chất của các nhà triết học trước Mác
Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học duy vật như Talét cho rằng vật chất là
nước; Anaximen coi là không khí; Hêraclít coi làlửa; Anaximanđơrơ coi là
Apâyrôn. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyếtnguyên tử của Lơxíp và học trò của ông là Đêmôcrít .
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII, do cơ học phát
triển mạnh và chiếm ưu thế nên các quan niệm về thế giới (về vật chất)
cũng mang tính cơ học mà đại biểu Niuton.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ
quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụthể của vật chất hoặc với
thuộc tính của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ratia X là sóng điện từ có bước sóng rất
ngắn. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng sau khi bức xạ ra hạt
Anpha, nguyên tốUrani chuyển thành nguyên tố khác. Năm 1897, Tôm
xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một
trongnhững thành phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã phát
hiện khối lượng của điện tử biến động và kết quả các thựcnghiệm khoa
học cho thấy khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của điện tử tăng.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy
tâm trong quan niệm về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của
chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán(1909), V.I.Lênin, nêu định nghĩa “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
conngười trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” b. Cuộc cách mạng KHTN
Những phát hiện khoa học chứng tỏ rằng:
- Nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia.
- Không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất
c. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1 là) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
- Tính trừu tượng của vật chấtdùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất
- đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây
cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
- Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗchỉ có thể nhận biết được vật chất
bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất
thông qua việc nghiêncứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
2 là) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc
trưng cơ bản) là tồn tại không phụ thuộc vào ýthức. Dù con người có nhận
thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
3) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan.
4) ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng
các giác quan của mình, con người có thể trựctiếp hoặc gián tiếp nhận biết
được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhậnbiết biết chứ không thể không biết.
5 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng
giữa thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác(ý thức). Vật chất (cái thứ
nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy
định ý thức. ý thức (cái thứhai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức,
là nguyênnhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập
tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thànhsức mạnh
vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
d. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người phải xuất phát từ bản
thân sự vật, hiện thực khách quan mà phân tích, xem xét nó, đồng thời để
hiểu sâu sắc hơn về sự vật – hiện tượng ta phải đặt nó trong mối quan hệ
với các sự vật – hiện tượng có liên quan kể cả trực tiếp và gián tiếp, không
được chủ quan kết luận e. Liên hệ thực tiễn.
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Vì thế trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội hiện nay, chúng ta lấy thực
tế Việt Nam làm điểm xuất phát và lấy con người Việt Nam làm mục tiêu
của sự phát triển nhanh bền vững
2. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức. Ý nghĩa ppl
(phát huy tính năng động, chủ quan của ý thức; tạo điều kiện cho ý thức
được phát triển), liên hệ tt) a. Khái niệm
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là
toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm
những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy
vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản
phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả
của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được
quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý
thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con
người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao
gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất,
là phương thức tồn tại của ý thức. b. Nguồn gốc:
Ý thức ra đời từ hai nguồn gốc: Tự nhiên và Xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan.
+ Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người và là hình
thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người. - Nguồn gốc xã hội :
Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành
nguồn gốc xã hội của ý thức.
+ Lao động là một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với
giới tự nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong
quá trình lao động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để
bộc lộ những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra
những hiện tượng nhất định để con người quan sát được.
Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thông
qua hoạt động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và
thông qua bằng bộ não con người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những tri thức và ý thức. c. Bản chất
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở
khả năng hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng
tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lữu giữ thông tin
và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới
và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động,
sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người
tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, ... trong đời sống tinh
thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế
giới khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện nhưng
nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông
qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác thì ý thức chẳng qua
chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối
không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, do
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội
quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu của thực tiễn xã hội. d. Kết cấu
- Kết cấu của ý thức theo chiều ngang gồm có tri thức và tình cảm.
Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản cốt lõi.
- Cấu trúc theo chiều dọc:
+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.
+ Tiềm thức là những tỉ thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của của ý thức
chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tang.
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm,
chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện
tượng khác nhau và chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
e. Ý nghĩa phương pháp luận
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tạo điều kiện cung cấp các
dưỡng chất cần thiết cho bộ não hoạt động.
- Đồng thời trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải biết phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức để cải biến hiện thực khách quan hiện có,
bằng cách không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ thông qua tích lũy
kinh nghiệm trong lao động sản xuất và trong cuộc sống f. Liên hệ thực tiễn.
- Giá trị của sự lao động chân chính.
- Bức thư của Tổng thống Abraham Lincoln
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (khái quát vật chất là
gì, khái quát ý thức là gì, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
(vc quyết định yt và ý thức có sự tác động trở lại), Ý nghĩa ppl (tôn trọng
thực tại khách quan, phát huy tính năng động, chủ quan của ý thức), liên hệ tt) a. Khái quát vật chất
Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” b. Khái quát ý thức.
Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc
con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc. Ý thức có 2
nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội - Nguồn gốc tự nhiên:
• Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất.
• Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát
triển khác nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự
chuyển hóa của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội của loài người.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích
cực trở lại vật chất.
- Vật chất quyết định ý thức
+ Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có
trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào
trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
+ Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết
định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
+ Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan,
tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải
biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
+ Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật
chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về
nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống
đầy đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ,
đời sống vật chất phảiđược đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống
tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời
thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà
tác động trở lại thế giới vật chất.
+ Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm
biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
+ Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay
làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng
khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc
đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn,
nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
+ Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể
vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa
vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội
VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị
trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã
phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại
vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
d. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ
quan. Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề
vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý
chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo
thủ, trì trệ, thiếu tính sángtạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý
thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa
học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp
hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan. e. Liên hệ thực tiễn.
- “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”
- Với vai trò quan trọng của ý thức, việc “phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững”. Từ đó, nâng cao
trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước hiện nay.
4. *Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (khái niệm mối liên hệ, phân loại
mối liên hệ, nội dung, tính chất của mối liên hệ, ý nghĩa ppl (quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể), liên hệ tt).
a. Khái niệm mối liên hệ
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái
niệm chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình
trong thực tế đều tác động đến nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách
biệt hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác.
– Hiểu một cách khái quát thì:
+ “sự quy định” là sự lệ thuộc vào nhau giữa các sự vật (hay hiện tượng) A và B.
+ “tác động qua lại” là tác động hai chiều; A tác động vào B, đồng thời B cũng tác động vào A.
+ “chuyển hóa lẫn nhau” là A “biến” thành một phần hay toàn bộ B và ngược lại.
Ở trên, ta chỉ đề cập 02 sự vật (hay hiện tượng) A và B cho dễ hiểu. Trong
thực tế, “mối liên hệ phổ biến” bao quát A, B, C, D…, n, đến vô cùng.
Điều này cũng đúng với vô số các mặt trong mỗi sự vật, hiện tượng A, B, C, D…
b. Phân loại mối liên hệ
Tùy thuộc vào tính chất và vai trò của từng mối liên hệ, ta có thể phân loại
các mối liên hệ như sau:
- Mối liên hệ về mặt không gian và mối liên hệ về mặt thời gian giữa sự vật, hiện tượng.
- Mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới.
- Mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng cụ thể.
- Mối liên hệ phổ biến trực tiếp và mối liên hệ phổ biến gián tiếp
- Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối liên hệ phổ biến thứ yếu.
- Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ phổ biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên ngoài.
- Mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận.
Việc phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối bởi vì các mối liên hệ
của các đối tượng rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi các mối liên hệ
khác. Các mối liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và
phát triển cụ thể của chúng c. Nội dung
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chính là nguyên tắc lý luận để xem xét
sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ. Chúng ràng buộc
và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các mặt của một sự vật và hiện tượng trên thế giới. Và nguyên lý này
được biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ của 6 cặp phạm trù cơ bản nêu trên. d. Tính chất.
- Tính khách quan: Tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là
những dạng cụ thể của vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan ở bên
ngoài và độc lập với ý thức của con người. Thông qua các mối liên hệ, con
người có thể phát hiện ra quy luật, nguyên lý của thế giới khách quan.
- Tính phổ biến được thể hiện ở:
Thứ nhất, tất cả mọi sự vật đều có mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Thứ hai, mối liên hệ được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy
theo trình độ, kết cấu vật chất nhất định.
- Tính đa dạng, phong phú: có nhiều mối liên hệ cụ thể khác nhau với
những vai trò, vị trí khác nhau trong thế giới vật chất.
Các tính chất trên có liên hệ với nhau trong đó tính phổ biến đã bao hàm
trong nó tính khách quan và tính đa dạng. Vì vậy, ta gọi nguyên lý này là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
e.Ý nghĩa phương pháp luận.
- Quan điểm toàn diện: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải xem
xét các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa cácmặt của chính sự vật, hiện tượng và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện
tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng, chính xác về sự
vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của cuộc sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình,
chiết trung, ngụy biện trong nhận thứcvà thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó.”
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời gian đó. Do
vậy, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét,
giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ đó đòi hỏi chúng ta khi nhận
thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàncảnh lịch
sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử triết học, khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta
cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó. Phải xét
đến những tính chất đặc thù, xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của đối
tượng đó trong mối liên hệ cụ thể, trong những tình huống cụ thể. Từ đó,
chúng ta mới có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn. Đồng thời, chống lại cách đánh giá sự vật, hiện
tượng một cách dàn trải, lệch lạc, coi mọi mối liên hệ là như nhau.
Phải thấy được một luận điểm khoa học nào đó có thể đúng trong điều
kiện này nhưng sẽ không còn đúng trong điều kiện khác; một nguyên tắc
nào đó chỉ vận dụng phù hợp ởnơi này, lúc này nhưng sẽ không phù hợp
khi vận dụng vào nơi khác, lúc khác. f. Liên hệ thực tiễn.
Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất
Giữa các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người. các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển.
Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ
bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, trực tiếp, liên hệ cơ bản,
không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
5. *Nguyên lý về sự phát triển (khái niệm phát triển, nội dung, ý
nghĩa ppl (quan điểm phát triển), liên hệ tt). a. Khái niệm phát triển
- Quan điểm siêu hình: Phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng, không quanh co phức tạp.
- Quan điểm biện chứng: Phát triển là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ
sự tích lũy dần dần về lượng để có sự thay đổi về chất . Quá trình này diễn ra theo hình xoáy ốc.
- Theo quan điểm CNDVBC, “phát triển là một hình thức của vận động,
nó khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”.
- Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
* Lưu ý, phát triển là vận động nhưng chỉ có vận động nào theo khuynh
hướng đi lên thì mới là phát triển
+ Trong giới vô cơ, sự phát triển thể hiện quá trình từ đơn giản đến phức tạp.
+ Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng
thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực, trình độ chinh phục
TN, cải tạo XH, giải phóng con người.
- Tóm lại, sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người. Nếu xét trong từng trường hợp cụ thể, sự
vật có thể đi lên, thậm chí có thể đi xuống nhưng nếu xét cả một quá trình
với không gian rộng và thời gian dài thì khuynh hướng chung của sự vật là đi lên. b. Nội dung.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, phát triển không ngừng. Vận
động và phát triển không đồng nghĩa như nhau. Có những vận động diễn
ra theo khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Có những vận động lại thụt lùi, đi
xuống song nó là tiền đề, là điều kiện cho sự vận động đi lên. Có khuynh
hướng vận động theo vòng tròn, lặp lại như cũ.
* Tính chất của sự phát triển.
- Tính khách quan: sự phát triển xuất phát từ nguồn gốc bên trong của sự
vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Đó là quá trình thống nhất và đấu
tranh liên tục của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn của bản thân sự
vật. Quá trình phát triển như vậy diễn ra ở bên ngoài và không phụ thuộc
vào ý thức, ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phổ biến: sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực. Trong mọi quá trình
biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới.
- Tính kế thừa, sự vật,hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt
đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật,hiện tượng cũ.
- Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung, nhưng từng
sự vật, hiện tượng quá trình phát triển diễn ra không giống nhau tuỳ thuộc
vào không gian, thời gian tồn tại của sự vật, hiện tượng đó.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải thấy tính phức tạp, quanh co của sv/ht trong quá trình phát triển của
nó để có cách thức giải quyết thích hợp.
- Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Trong cuộc sống chúng ta phải có cái nhìn: Toàn diện, Lịch sử - cụ thể và Phát triển. d. Liên hệ thực tiễn
Vận dụng nguyên lý của sự phát triển trong hoạt động học tập:
Học và luyện tập để nhằm mục đích có thêm các hiểu biết, để thông qua
đó sẽ có các kỹ năng, để chúng ta sẽ có thể gặt hái được tri thức cho bản
thân. Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi cũng được hiểu chính
là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và học tập cũng có thể liên
quan đến việc tổng hợp các thông tin khác nhau. Học và rèn luyện là nhằm
để có thể trang bị các kỹ năng và tri thức: kết quả học tập, siêng năng học
tập. Làm theo gương tốt: học tập lẫn nhau, học tập kinh nghiệm. Hay theo
các nhà tâm lý thì ta hiểu học tập là một sự thay đổi tương đối lâu dài về
hành vi, là kết quả của các trãi nghiệm. Học tập còn là để có thể hiểu sâu,
hiểu rộng hơn vấn đề, lĩnh vực mà ta muốn biết từ đó sẽ giúp ta trao đổi
kiến thức, kinh nghiệm, làm tăng sự sáng tạo và trí tuệ, để thông qua đó
chúng ta áp dụng được vào đời sống và xã hội.
Việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập có vai trò quan
trọng và nó cũng mang ý nghĩa rất to lớn trong đời sống, đặc biệt là với
các đối tượng sinh viên để từ đó sẽ có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
6. *Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành (dẫn đến)
những thay đổi về chất và ngược lại. (khái quát quy luật là gì – ngắn
gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn; Vị trí Quy
luật lượng – chất trong PBCDV, khái niệm (CHẤT, LƯỢNG), nội
dung 2 chiều (1. , 2. ), vai trò (“PHƯƠNG THỨC, CÁCH THỨC
CHUNG NHẤT”), ý nghĩa ppl, liên hệ tt). Nhớ ca dao, tục ngữ a. Khái quát quy luật.
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức
chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Theo quy luật này. phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất
yếu từ những sự thay đôi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại,
những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi
mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó
là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật:
+ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Quy luật phủ định của phủ định. b. Vị trí:
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. c. Nội dung (2 chiều )
-Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
+ Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất
lại vừa vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
+ Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn
tới sự thay đổi vềchất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất
thay đổi được gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa
chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn
của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyểnhóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ
là 118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi.
- Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn
đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi
về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây
chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với
nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn,
tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và
chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự
kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động,
phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước
nhảy nàylà do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C.
Các hình thức của bước nhảy:
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về
chấtnhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thờigian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất
cảcác mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộphận của sự vật.
- Lượng tác động trở lại chất.
+ Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới
tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm
thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game online
thì sẽthu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn.
→ Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm
nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời,
chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của
sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ
bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. d. Vai trò
Quy luật này chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động, phát triển
e. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Vì sự vật, hiện tượng có sự thống nhất giữa chất và lượng, nên chúng ta
phải có cái nhìn toàn diện, không được tuyết đối hóa yếu tố nào.
- Vì phát triển có sự tích lũy về lượng, nên trong hoạt động thực tiễn cần
có sự chuẩn bị chu đáo. Không nên “dục tốc” vì sẽ “bất đạt”.
- Vì lượng tích lũy tới giới hạn sẽ có bước chuyển về chất, nên chúng ta
không nôn nóng nhưng đồng thời cũng không thụ động, chờ đợi, trái lại
phải biết tạo và chớp lấy thời cơ để đạt mục đích. f. Liên hệ thực tiễn.
-Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết
luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau:
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học:
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn
học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều
ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một môn chỉ
kéo dài khoảng 8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên
đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn.
Chính vì thế sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích
nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức,
học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức.
Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ
yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,... Đây là cơ hội
cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên. Ở đây là sự khác nhau về
bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nới sự
chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ
lượng thành chất. Chính vì vậy mà người sinhviên cần phải thay đổi nếp
sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu
của ngành giáo dục Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy sinh viên mới
hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
7. *Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (khái
quát quy luật là gì – ngắn gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật
gì? – ngắn gọn, Vị trí của quy luật mâu thuẫn, khái niệm, phân loại
mâu thuẫn, nội dung, vai trò (NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC; HẠT
NHÂN CỦA PBCDV), ý nghĩa ppl, liên hệ tt). a. Khái quát quy luật.
- Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa những mặt đối lập của mỗi sv,ht hoặc giữa các sv,ht với nhau.
-Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau nhưng đồng thời là điều kiện, tiền đề để tồn tại lẫn nhau.
- Sự đấu tranh của hai mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy
có thể chia thành từng giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng.
Song không phải bất cứ hai mặt khác nhau nào cũng là mâu thuẫn, chỉ có
hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau và nằm trong một chỉnh thể
thống nhất có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau thì mới hình thành
mâu thuẫn. Khi các mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau,
nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật:
+ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Quy luật phủ định của phủ định. b. Vị trí:
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. c. Phân loại mâu thuẫn
• Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài (diễn giải). Xét đến
cùng, mâu thuẫn bên trong là nhân tố quyết định và mâu thuẫn bên
ngoài chỉ ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của sự vật
• Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản (diễn giải)
• Mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu (diễn giải)
• Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng (diễn giải) d. Nội dung
Tất cả các sự vật hiện tượng đều là một chỉnh thể thống nhất có cấu
trúc với nhiều mặt, yếu tố, thuộc tính, mối liên hệ. Mỗi mâu thuẫn là
một chỉnh thể thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập vừa
thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau. Khi mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật được chuyển đến sự vật khác. Mâu thuẫn mới được hình
thành và giải quyết. Vì vậy, một sự vật hiện tượng có vô vàn mâu thuẫn. e. Vai trò
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển. QUY LUẬT MÂU THUẪN LÀ HẠT NHÂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
f. Ý nghĩa phương pháp luận
- Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải
pháp đúng cho hoạt động thực tiễn, ta phải đi sâu nghiên cứu phát hiện
ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những
mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối
lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa những mặt đối lập đó.
- Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Khi phân tích mâu thuẫn, ta phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn. Ta phải xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn
nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và
vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng.
Chỉ có như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu
đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
- Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. g. Liên hệ thực tiễn
trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải
vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho
việc tiêu dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm
tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu
dùng, đây không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối
tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết
định về phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho
tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là
chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu
dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống
nhất của hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên
hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng
chuyển hóa, cùng phát triển.
8. *Quy luật phủ định của phủ định (khái quát quy luật là gì – ngắn
gọn, PBCDV nghiên cứu những quy luật gì? – ngắn gọn, Vị trí của
quy luật phủ định của phủ định, khái niệm, nội dung, vai trò
(KHUYNH HƯỚNG CHUNG), ý nghĩa ppl, liên hệ tt). a. Khái quát quy luật:
- Quy luật phủ định của phủ định (hay còn gọi là quy luật phủ định kép) là
một quy luật trong triết học, cho rằng khi một cái gì đó bị phủ định, thì sự
phủ định đó sẽ bị phủ định và dẫn đến sự khẳng định lại của điều đó.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật : Quy luật phủ định
của phủ định là một trong những quy luật cơ bản của triết học dialektic -
materialist và được nghiên cứu trong lý thuyết triết học của Marx và Engels. b. Vị trí:
Vị trí của quy luật phủ định của phủ định: Quy luật phủ định của phủ định
được coi là một trong những quy luật cơ bản nhất của triết học Marx- Lenin. c. Khái niệm:
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng là những phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho sự
phát triển của sự vật.
- Tính chất của phủ định biện chứng: + Tính khách quan. + Tính kế thừa.
- Phủ định của phủ định: là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng
phát triển của sv/ht từ trình độ thấp đến trình độ cao, có tính chu kỳ theo hình “xoáy ốc”. d. Nội dung
Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung
tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung những thuộc tính mới làm cho
sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.
Quy luật phủ định của phủ định cho rằng sự phát triển của một vật thể,
một quá trình hoặc một hiện tượng là một quá trình đấu tranh giữa các yếu
tố đối lập. Khi một yếu tố bị phủ định, điều đó dẫn đến sự phát triển của
yếu tố mới, nhưng yếu tố mới này cũng sẽ bị phủ định và dẫn đến sự phát
triển của yếu tố mới hơn. e. Vai trò:
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận động, phát triển.
g. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì sự phát triển diễn ra phức tạp, nên chúng ta phải nắm vững các mối
liên hệ để có sự tác động phù hợp với sự vật, hiện tượng . Trong thực tế,
chúng ta phải thực hiện câu: “Thắng không kiêu, bại không nản”.
- Vì phát triển là xu hướng tất yếu, nên chúng ta phải có thái độ ủng hộ cái
mới, cái tiến bộ, cái vận động phù hợp với quy luật
- Vì sự phát triển bao giờ cũng có tính kế thừa, nên chúng ta không nên
phủ định sạch trơn cũng như không được bảo thủ trong họat động thực tiễn. g. Liên hệ thực tiễn:
Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bòi
dưỡng nhân tài và coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Mục tiêu của giáo
dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng
tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm
cho dân giàu nước mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là quyền
và nghĩa vụ của công dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học
phí để khuyến khích và giúp đỡ người học gặp hoàn cảnh khó khăn, đảm
bảo cho tất cả mọi người đều được đi học, trường học không có sự phân
biệt dân tộc, giàu – nghèo, tôn giáo, tín ngưỡng, nam – nữ, nguồn gốc gia
đình, địa vị xã hội… Mọi công dân đều được bình đẳng về cơ hội học tập,
để người giỏi được phát huy tài năng.
Sau đó, về cơ sở vật chất – Kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục xã hội hóa
sự nghiệp giáo dục là coi phát triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân. Kêu gọi và huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư vào
giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trường học và các hình thức giáo dục,
xây dựng xã hội học tập đáp ứng nhu cầu học thường xuyên, học suốt đời của nhân dân.
9. Cặp phạm trù cái riêng – cái chung Khái niệm. Nội dung. Ý nghĩa
phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn a. Khái niệm:
- CÁI RIÊNG là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình nhất định.
- CÁI CHUNG là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nữa.
- CÁI ĐƠN NHẤT là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc
điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó b. Nội dung:
- Quan điểm các nhà Duy thực và Duy danh: khẳng định, cái chung tồn
tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng - Quan điểm của CNDVBC:
+ Cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong cái riêng, như là các mặt
của cái riêng. Và chúng luôn gắn bó hữu cơ với nhau.
+ Mọi cái riêng đều là sự thống nhất các mặt đối lập cái đơn nhất và cái
chung. Thông qua những thuộc tính, những đặc điểm không lặp lại của
mình, nó thể hiện là cái đơn nhất; nhưng thông qua những thuộc tính lặp
lại ở các đối tượng khác – nó lại thể hiện là cái chung.
+ Trong khi là những mặt của cái riêng, cái đơn nhất và cái chung không
đơn giản tồn tại trong cái riêng, mà gắn bó hữu cơ với nhau và
+ Cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận bởi bên cạnh cái chung
thì bất cứ cái riêng nào cũng còn có cái đơn nhất.
+ Trong cùng một lúc, cái riêng vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung vì
thông qua các đặc điểm riêng có của mình, cái riêng biểu hiện là cái đơn
nhất, nhưng thông qua các mặt lặp lại trong các sv, ht khác, nó lại biểu hiện là cái chung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải nhận thức cái chung để tránh vấp phải những sai lầm, khi giải quyết các vấn đề cụ thể
- Phải cụ thể hóa cái chung nhằm khắc phục bệnh giáo điều, máy móc
hoặc cục bộ địa phương.
- Vận dụng điều kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái chung và cái đơn nhất d. Liên hệ thực tiễn:
Mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã hội khiến
cho con người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả mọi
người với tư cách người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những
thuộc tính không lặp lại ở nhau như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,... cụ thể khác nhau.
10. Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả. Khái niệm. Nội dung. Ý
nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn a. Khái niệm:
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn sự biến đổi nhất định.
Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau. b. Nội dung:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và
kết quả có mối liên hệ qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu
tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các
hiện tượng cũng đều biển hiểu hiện mối liên hệ nhân quả.
- Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên
bởi những nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng
khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm trí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân chủ quan
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích
cực trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân
thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
- Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra,
đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... Và
quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân
quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính chất khách quan và tính phổ biên,
nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại
không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận
thức ngay được nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là
phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên
nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng
tượng ra từ đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực.
- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân
của một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối
liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò
khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn của chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên
nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,... Đồng thời phải nắm bắt
được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến
hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực
tiến chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để
tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích. d. Liên hệ thực tiễn:
Đối với những mối liên hệ nhân - quả trong tự nhiên, con người
càng nghiên cứu được càng nhiều càng tốt. Nhờ biết được những
hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong tự
nhiên, con người ta có thể lợi dụng được những nguồn năng lượng
lớn đề phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu con người.
Ví dụ: Biết được về hiện tượng của thủy triều là sức hút của mặt
trăng tạo nên làm cho nước biển bị cuốn theo gây nên những đợt
thủy triều tràn vào đất liền, người ta có thể lợi dụng nó để tạo ra nguồn điện.
Đồng thời người ta sử dụng mối quan hệ nhân - quả của các hiện
tượng tự nhiên để thấy được những tác hại mà các hiện tượng đó gây ra.
Mối liên hệ nhân - quả ở trong lĩnh vực xã hội, tức là lĩnh vực hoạt
động của con người phức tạp hơn rất nhiều. Mối quan hệ nhân - quả
này có đặc điểm trước hết là nó chỉ xuất hiện khi có hoạt động của
con người. Đặc điểm này có thể đúng, không đúng ở trong những
lĩnh vực khác nhau. Có những hoạt động được coi là hoạt động có ý
thức của cá nhân, nhưng lại là hoạt động vô ý thức đối với cộng
đồng. Chủ thể hoạt động bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính
bản thân mình, nhưng tác động của nó tới đời sống xã hội còn tùy
thuộc vào những mối liên hệ và những hậu quả xã hội mà nó gây ra.
Ví dụ, lợi nhuận buôn bán ma túy là rất cao, cho nên những
người buôn bán ma túy không từ bỏ một hành vi nào thúc giục việc
buôn bán ma túy để kiếm lợi. Xét từ phía cộng đồng, đó là hành
động rất có hại, hành động đó có thể nói là một hành động tự sát.
Tuy nhiên, những tác động đó người ta không thể ngăn chặn một
sớm một chiều, nếu không nghiên cứu những quan hệ lợi ích tác
động vào quan hệ nhân - quả.
Do đó nghiên cứu mối quan hệ nhân - quả ở trong đời sống xã hội cũng
chính là nghiên cứu mối quan hệ tác ddoonhj về mặt lợi ích. Những lợi ích
nào được sinh ra từ những tác động nào, nó đưa lại những hậu quả nào, đó
chính là mục tiêu để nghiên cứu mối quan hệ nhân - quả trong đời sống cộng đồng.
Tóm lại, mối quan hệ nhân - quả dược thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực.
Nhưng dù ở lĩnh vực nào thì con người cũng phải luôn tìm hiểu, nghiên
cứu khắc phục, tránh những hậu quả xấu do các tác động gây ra. Ngược
lại, cũng có thể lợi dụng mối quan hệ nhân - quả này để phục vụ cho cuộc sống của mình.
11. Cặp phạm trù nội dung – hình thức; bản chất – hiện tượng. Khái
niệm. Nội dung. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn a. Khái niệm:
- Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, và phát triển của sv, ht; là
hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sv, ht... b. Nội dung:
Sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài và hình thức bên trong.
Phép biện chứng chú ý đến hình thức bên trong của sự vật, tức là hệ thống
các mối liên hệ giữa các yếu tố của sự vật.(cơ cấu bên trong của nội dung)
Trong con người: nội dung là các bộ phận của cơ thể con người - cách sắp
xếp các bộ phận của Cơ thể là hình thức.
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau. Không có một hình
thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức nhất định.
- Nội dung giữ vai trò quyết định. Sự biến đổi và phát triển của SV bao
giờ cũng bắt đầu từ ND. Còn hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi
chậm hơn. Nội dung biến đổi buộc hình thức biến đổi theo cho phù hợp
với nó. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa ND và HT.
- Nội dung thường xuyên biến đổi còn hình thức tương đối ổn định. Sự
biến đổi của nội dung quyết định làm cho hình thức phải biến đổi cho phù hợp với nội dung.
- Hình thức tác động lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc
đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong
nhận thức và thực tiễn, không được tách rời nội dung và hình thức.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng trước
hết phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước
hết phải thay đổi nội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tính tích cực của hình thức đối với nội
dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức đối với nội dung; mặt
khác phải thay đổi những hình thức không còn phù hợp, cản trở nội dung. d. Liên hệ thực tiễn
12. Cặp phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực. Khái
niệm. Nội dung. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn a. Khái niệm:
- Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ bản
bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải
xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
- Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân,
hoàn cảnh bên ngoài quy định nên có thể xuất hiện, có thể không... b. Nội dung:
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại một cách khách quan, ở bên ngoài và độc
lập với ý thức của con người.
+ Dù con người có nhận thức được hay chưa, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn
tồn tại và phát huy vai trò của nó đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng:
Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
Cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật, có thể
làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.
Sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu
nhiên, kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ, ví dụ như cá tính của người lúc
đầu lãnh đạo phong trào cách mạng.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt thống nhất và đối lập.
Tuy cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không bao giờ
tồn tại biệt lập với nhau dưới dạng thuần túy, mà bao giờ cũng tồn tại
trong sự thống nhất hữu cơ.
Sự thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
+ Cái nghẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
Tức là, cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển.
Khuynh hướng ấy mỗi khi tự bộc lộ mình thì bao giờ cũng bộc lộ ra dưới
một hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.
Bản thân cái tất nhiên chỉ có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên.
Còn tất cả những gì ta thấy trong hiện thực và cho là ngẫu nhiên thì đều
không phải là ngẫu nhiên thuần túy, mà là những ngẫu nhiên đã bao hàm
cái tất nhiên, đã che giấu cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
+ Trong hiện thực, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở
trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, và trong những điều kiện nhất
định, chúng chuyển hóa lẫn nhau. Tức là, tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngược lại. Ví dụ:
+ Trong xã hội công xã nguyên thủy, việc trao đổi vật này (áo…) lấy một
vật khác (gà…) là ngẫu nhiên. Vì khi ấy sức sản xuất của công xã chỉ đủ riêng cho mình dùng.
+ Sau này, khi sự phân công lao động đã rộng rãi, năng lực sản xuất đã
lớn, có nhiều sản phẩm dư thừa. Khi đó, sự trao đổi sản phẩm tất yếu phải
diễn ra để làm cho cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn.
– Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. Thông qua
những mặt này, hay trong mối quan hệ này, thì biểu hiện là tất nhiên
nhiên, nhưng qua những mặt khác, mối quan hệ khác, thì lại là ngẫu nhiên; và ngược lại.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp
phần xây dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại
cho chúng ta bài học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:
Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên
chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản
chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn
cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.
Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiênnagaaxuoong tách rời cái tất
nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái
tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên
Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để
cản trỏe hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh,
phù hợp với mong muốn của chúng ta. d. Liên hệ thực tiễn
Xét về khái niệm phạm trù tất nhiên, để chứng minh cho nó, ta thấy: ở ví
dụ đã nêu thì việc đỗ đại học là một điều“tất nhiên” với mỗi chúng ta bởi
lẽ: Một là, trong việc từ một học sinh trung học phổ thông mà muốn trở
thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội thì điều tất nhiên là ta phải
đỗ vào kì thi tuyển sinh đầu vào.
Việc đỗ Đại học này với mỗi chúng ta bắt buộc phải xảy ra vì nó là điều
kiện để ta thực hiện bước chuyển hóa của ta từ học sinh thành sinh viên.
Hai là, xét với mối quan hệ với những việc xảy ra trước đó thì việc đỗ vào
đại học luật Hà Nội là tất yếu vì: ta có một quá trình rèn luyện học tập tốt
từ thời THPT, bản thân ta là người có ý thức trong việc đưa ra quyết định
thi vào trường đại học luật Hà Nội …và có thể kể đến những yếu tố khác
như sức khỏe ,tâm lý ngày thi rất tốt .v.v.
Và như vậy, khi một thí sinh dự thi mà hội tụ được những điều cơ bản như
trên thì việc thí sinh đó trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội
là tất nhiên, nhất định không thể nào khác được.
Xét về khái niệm phạm trù ngẫu nhiên, ta có thể xem xé ví dụ, chẳng hạn
như việc xếp lớp, xếp nhóm và điển hình là 11 bạn trong nhóm A3 của lớp
18 này: Sau khi đỗ vào trường Đại học Luật Hà Nội thì với sự sắp xếp của
phòng Đào tạo nhà trường 11 bạn này sẽ được ngẫu nhiên ngồi chung một
lớp – lớp 18 và ngẫu nhiên họ lại được tập hợp thành 1 nhóm và được đặt là A3.
Việc ngồi chung một lớp hay một nhóm này không phải do các bạn tự
quyết định, cũng không phải do sự sắp đặt sẵn của nhà trường: những bạn
có tên, có điểm, có khối thi…như thế này phải vào lớp này, nhóm này.
Điều này chính là do nhân tố bên ngoài quyết định. Ở đây nhân tố bên
ngoài chính là sự sắp xếp một cách ngẫu nhiên của hệ thống máy tính, của
phòng đào tạo đã tạo ra kết quả đó.
Tuy nhiên cũng có thể do sự sắp xếp ngẫu nhiên này mà 11 người này có
thể không ngồi cùng một lớp hoặc ngồi cùng 1 lớp nhưng khác nhóm
nhau. Điều đó rất có thể xảy ra bởi lẽ nhóm A3 hiện tại chỉ là một tập hợp
ngẫu nhiên một nhóm người, là một khả năng xảy ra, không có điều gì chắc cắn cả.
Tóm lại việc chúng ta – những sinh viên đang học ở K3818 việc đỗ đại
học là điều tất nhiên, nhưng trước đó chúng ta cũng phải trải qua nhiều
việc ngẫu nhiên khác như chọn trường, may mắnv.v.v.. Và việc sau này
khi chúng ta được học chung một lớp liệu điều đó có phải là yếu tố “ngẫu
nhiên” nữa hay không hay đó cũng có thể là “tất nhiên”
13. *Vai trò thực tiễn đối với nhận thức (nhận thức là gì – ngắn gọn,
thực tiễn là gì (hoạt động vật chất cảm tính) …., các hình thức của
thực tiễn (3 hình thức, hình thức nào đóng vai trò quyết định, vì sao),
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức (thực tiễn là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý), ý
nghĩa ppl (lý luận phải gắn liền với thực tiễn), liên hệ tt). a. Nhận thức là gì:
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra
những tri thức về thế giới khách quan đó.
Gồm có nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. b. Thực tiễn là gì:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động VẬT CHẤT có mục đích, mang tính lịch
sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
c. Các hình thức của thực tiễn
– Hoạt động sản xuất vật chất.
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công nhân trong
các nhà máy, xí nghiệp…
– Hoạt động chính trị – xã hội.
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh
niên trường học, Hội nghị công đoàn
– Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm
ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới. d. Vai trò:
- Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở cho nhận thức. Thông qua hoạt động thực
tiễn con người buộc thế giới bộc lộ những thuộc tính, cung cấp những tài
liệu... giúp con người biết được các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Bởi vì con người quan hệ với thế giới, với xã hội không phải xuất phát từ
lý luận mà bắt đầu từ thực tiễn cuộc sống. Chính vì vậy, có thể nói, thực
tiễn đã cung cấp những tư liệu, thông tin của thế giới cho quá trình nhận thức.
- Thứ 2, Thực tiễn là động lực của nhận thức
+ Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức.
Thực tiễn là động lực của nhận thức. Bởi vì qua hoạt động thực tiễn con
người không chỉ biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội mà biến đổi cả bản thân
mình về năng lực, phẩm chất. Nhờ năng lực đó, con người có điều kiện đi
sâu hơn vào thế giới, khám phá những bí mật của thế giới.
- Thứ 3, Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải biến thực tiễn phục vụ đời sống con người.
- Thứ tư, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa,
phát triển và hoàn thiện nhận thức
e. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành.
Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai
trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng. f. Liên hệ thực tiễn.
– Trong học tập: Khi học một môn học, học sinh cần phải kết hợp kiến
thức teoretical với thực tiễn để hiểu rõ hơn về chủ đề đó.
– Trong giải quyết vấn đề: Khi giải quyết một vấn đề, người ta cần phải
kết hợp kiến thức với thực tiễn để tìm ra giải pháp tốt nhất.
– Trong quản lý: Trong quản lý, nhà quản lý cần phải kết hợp thực tiễn với
kiến thức để quản lý công việc và nhân sự một cách hiệu quả.
Trong mọi trường hợp, thực tiễn cung cấp cho chúng ta một cách hiểu về
thế giới xung quanh chúng ta và giúp chúng ta thấu hiểu các ý tưởng và quan điểm hơn.
c. Lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự
nhiên trong quá trình sản xuất, nó thể hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con người.
- Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố
thuộc về người lao động, (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao
động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công
cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các
nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.
-Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố người lao động là
nhân tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất
chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực
tế của các tư liệu sản xuất. phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng
tạo của người lao động.
- Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố
phản ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình
độ con người chinh phục giới tự nhiên.
- Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất
của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra
thiếu một trong hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng
chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực
được mà cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã
hội của quá trình sản xuất ấy. d. Quan hệ sản xuất
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
- Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất.
- Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất (Quan hệ sở hữu), Quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất,
Quan hệ về phân phối sản phẩm (là sự thể hiện việc phân chia các lợi ích
kinh tế từ sản xuất cho đến người tham gia sản xuất.
- Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất
trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ
về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng hư các quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do
quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy
nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan
hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
- Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích
thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
e. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. f. Liên hệ thực tiễn.
Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt
với hiện đại hóa, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước
khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa và muốn thành công trên đất
nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao
động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm
năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao
động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất
nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số
vấn đề của đất nước về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết trên cơ sở
một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần
kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với
thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì dân giàu nước mạnh
công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc
thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta. 17.
*Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
(khái niệm CSHT (phân tích), KTTT (phân tích), nội dung (CSHT
quyết định KTTT; KTTT có sự tác động trở lại: phù hợp (tích cực) –
thúc đẩy; không phù hợp (tiêu cực) – kìm hãm), ý nghĩa ppl, liên hệ
tt. (nếu liên hệ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị). a.Cơ sở hạ tầng:
Cở sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định”. CSHT ở đây là một phạm trù triết học, cần
phân biệt với thuật ngữ cơ sở hạ tầng trong ngành xây dựng (điện, đường, trường, trạm)
·Về mặt kết cấu cơ sở hạ tầng gồm có: quan hệ sản xuất thống trị, những
quan hệ sản xuất tàn dư của thế hệ trước đó, những quan hệ sản xuất là
nền móng của xã hội sau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị
chi phối, có vai trò chủ đạo quyết định tính chất của một cơ sở hạ tầng
nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại cũng có vai trò nhất định
·Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ
xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là
cơ sở hiện thực để con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng
b. Kiến trúc thượng tầng:
· Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội,
những tiết chế tương ứng, và những quan hệ nội tại của chúng được hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
·Về mặt kết cấu KTTT gồm: những quan điểm, tư tưởng của xã hội (về
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,…) và những thiết chế xã hội
tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội và những đoàn thể xã hội khác)
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận
động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có
quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị,
pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như
triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương
ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở
hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh
tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của
xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính
trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền,
triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ
tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất
hiện hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô
lệ,đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của
các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở
kinh tế xã hội (hay CSHT) của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản
chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng như quá
trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp
kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt
đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng
cho, bỏ đói hay giết chết.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thayđổi
theo. Quá trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổitừ hình
thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn
ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sựthay đổi cơ sở hạ
tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn rarất phức tạp. Trong
đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thayđổi nhanh chóng cùng
với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, phápluật.
VD: +) Thay đổi từ HT KT-XH này sang HT-KT XH khác: Nhà nước
phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành
của nhà nước là quan hệ sản xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ
chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa chủ phong kiến nắm trong
tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc
vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa thị
trường phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản
xuất và xã hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình
đẳng, hội họp kinh doanh và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong
kiến hà khắc đã không còn phù hợp với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo
của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản,
mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
+) Diễn ra ngay trong bản thân các HT KT-XH: Thời bao cấp, VN ta có
nền kinh tế nhà nước chỉ huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ.
Tuy nhiên dần dần cho tới hiện nay, VN đang phát triển kinh tế theo nền
kt thị trường, có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các
doanh nghiệp được tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi này diễn ra
ngay trong hình thái KT-XH XHCN
- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến
cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau,
cócách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quyluật
kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển;
nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãmphát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát
triểnkinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quancủa xã hội.
d.Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúcthượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính
trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất
của vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của
các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động
của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu
thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy Lenin
viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không thể
không chiếm vị trí hạng đầu so với kinh tế”.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố
nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Bởi:
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào
quan điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ,
bất chấp kỷ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò
củakinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy
giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
-Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Điều đó thể
hiện ở chỗ: trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi
mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổimới kinh tế là trung tâm,
đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những
hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn
định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN. e.Liên hệ thực tiễn: Về CSHT:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn vớiphát
triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị
tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp vànông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn vànông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với
cáchình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng
vớikinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm
tốtcác chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy
hoạch,kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
củathị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật,
giảmtối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh
nghiệp…+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại
thịtrường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trongnền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực
hiệnnhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi vớixoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dântộc,
quan hệ kinh tế với nước ngoài. Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tưtưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối vớiNhà
nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm
sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính
giaicấp, tính dân tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền,
các ban ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến
bộmang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao
cảnhgiác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.
18.Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên. (Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Cấu trúc hình thái kinh
tế - xã hội. Sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh tế - xã hội? Chứng
minh sự chuyển tiếp ấy là một quá trình lịch sử - tự nhiên,…).
a. Hình thái kinh tế - xã hội:
là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa
duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó
chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức
tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng
và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
b. Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất: tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội, mang tính chất
quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội
+ Lực lượng sản xuất: được coi là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi
hình thái kinh tế – xã hội. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau sẽ có
lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là
nguồn gốc, là căn cứ có sự quyết định đến sự hình thành, phát triển và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội
+ Ngoài ra, còn có yếu tố khác tác động đến sự phát triển của hình thái
kinh tế – xã hội: Bên cạnh hai yếu tố trên là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, thì còn có các yếu tố sau ảnh hưởng như yếu tố về dân tộc; quan
hệ về gia đình; các quan hệ ngoài xã hội khác; bao gồm các yếu tố liên
quan đến lĩnh vực tư tưởng, văn hóa – xã hội, lĩnh vực chính trị. Về cơ
bản, mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế – xã hội vừa tồn tại một cách độc
lập vừa có sựa bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau.
c.Sự chuyển tiếp giữa các hình thái kinh tế - xã hội và chứng minh:
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ
thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái Kinh tế – Xã
hội. Sự vận động thay thế nối tiếp nhau của các Hình thái Kinh tế – Xã hội
trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan. C. Mác nhận
định rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên”. Bởi các lý do sau:
– Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát
triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguồn
gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
– Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, quá trình thay thế
lẫn nhau từ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản nguyên thủy đến hình thái
kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, tiếp theo đến hình thái kinh tế-xã hội
phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa có sự tác động từ các yếu tố chủ quan, nhưng suy xét
đến cùng căn bản nhất nguyên nhân giữ vai trò quyết định là sự tác động
của các yếu tố quy luật khách quan.
Trong đó các quy luật khách quan là chính bản thân cấu trúc hình thái kinh
tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học,…Tuy nhiên quan hệ sản xuất là cơ bản nhất,
đảm bảo cho sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển diễn ra bằng con đường phát
triển mang tính chất tuần tự. Trong quá trình tiến triển của các Hình thái
Kinh tế – Xã hội, hình thái mới sẽ không xóa bỏ mọi yếu tố của hình thái
cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ sẽ có sự bảo tồn và kế
thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra bước phát triển.
19.*Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. (khái niệm
TTXH (phân tích), YTXH (phân tích), nội dung quy luật (TTXH
quyết định YTXH và YTXH có sự tác động trở lại), ý nghĩa ppl, liên hệ tt (văn hóa). a.Tồn tại xã hội - Khái niệm:
+Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội
giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
+Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh
tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này
xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác
công cụ. Côngcụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ
thuật chế tác, có nhiềuloại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì
này con người nhận biết và tậndụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất
sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đóđiều kiện khí hậu thuận lợi cộng với
sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
- Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
+ Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ:
phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
+ Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của
không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
+ Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, môhình tổ chức dân cư,...Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn
và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ
quyết định sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô
phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông
ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích
hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, cótính ổn định bền vững,... b.Ý thức xã hội: - Khái niệm:
+ Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy
sinh từ tồntại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt
Namcó hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ,
nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo. Ta cần thấy rõ sự khác nhau
tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
+ Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ
thể. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ
khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân
không phải baogiờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến
của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
+ Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những
hình tháikhác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau.
+ Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện
chứng vớinhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
- Kết cấu của ý thức xã hội
+ Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con ngườihình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn
hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa,
khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, quy luật…
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sốnghàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ
ý thức thông thườngtuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh
nghiệm phong phú của nó là tiềnđề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.
+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng *Tâm lý xã hội
+ Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen,
tậpquán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
hìnhthành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó. +Đặc điểm:
Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề
ngoài củatồn tại xã hội.
Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các
mối quanhệ xã hội của con người.
Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận,
cònyếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm
+ Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm
lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội. * Hệ tư tưởng:
+ Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được
hình thànhkhi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh
hoạt vật chất củamình. + Đặc điểm:
Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội.
Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp
nhất địnhvà truyền bá trong xã hội
Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ
thuật, tôn giáo…), kết quả của sự khái quát hóa những kinh
nghiệm xã hội.c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng.Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau
của ý thức xã hội, nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối
liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có chung nguồn gốc là
tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
+ Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự
hình thành, truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
+ Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho
tâm lý xãhội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát
triển theo chiều hướngđúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã
hội- Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội,
không phải làsự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã
hội của giai cấp côngnhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai
cấp tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của
nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và
triết học vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. → Như vậy, hệ tư
tưởng liên hệ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội,
nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội..
- Tính giai cấp của ý thức xã hội:
+ Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt
vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp
quy định, nên ý thức xã hội của các giaicấp có nội dung và hình thức phát
triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
+ Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói
quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác
Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện
sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng
có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: Tư tưởng của giai
cấp bóc lột và bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị
Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động
qua lại với nhau. Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng
của giai cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư
tưởng của giai cấp bị trị
+ Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng hạn như những điều kiện lịch sử,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.Vì vậy, trong ý thức xã hội,
ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâmlý dân
tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc. c.Nội dung quy luật:
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện
là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó
được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể
tìm nguồn gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong
chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản
xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng
ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối
này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền
thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người; thường diễn ra với
tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp thời và trở nên
lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn
tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng tổ chứ chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm
thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với
sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào
tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
d.Ý nghĩa phương pháp luận.
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vây, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi
mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
-Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay
đổi ý thức xã hội. -Quán triêt nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong
sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống xã hội
tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
e. Liên hệ thực tiễn ( văn hóa ):
-Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hộinhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức
đan xen. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát
huy tác động tích cực củađời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát
triển kinh tế vào công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải
tránh tái phạm sai lầm chủ quan trong việc xâydựng văn hóa, con người
mới. Cụ thể, Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam,
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
- Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và đang làm chao đảo
nhiều giá trịtinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt,
một số giá trị đạo đứctốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng trong
hệ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị
mai một và bào mòn. Trong quá trình điều chỉnh theo cơ chế thị trường, dễ
dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu bằng mọi thủ đoạn, làm phá
vỡ những giá trị văn hóa.
VD: Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và
cũng hình thành nên tâm lí sính ngoại của người dân.
- Không chỉ vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là nhân tố đặc biệt quan
trọng, quyđịnh sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Đặc trưng
nổi bật của cách mạngcông nghiệp 4.0 là sự kết hợp công nghiệp trong các
lĩnh vực khác nhau, nhờ đó xóabỏ dần các ranh giới và có tác động sâu sắc
đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hộicùng rất nhiều những thành tựu.
- Nhưng bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất
hiện cảnhững hệ tư tưởng lệch lạc.
20.*Khái niệm con người và bản chất con người. (khái niệm con
người từ thời kỳ cổ đại, trung cận đại, triết học cổ điển Đức,… (sơ
lược) đến THM-L (phân tích), bản chất con người (phân tích) – nhớ
bàn luận: liệu rằng bản chất con người có thể thay đổi hay ko, nếu có
thì giải pháp (giáo dục – đào tạo, nâng cao nhận thức, xây dựng môi
trường sống tốt đẹp, lành mạnh,…) , ý nghĩa ppl, liên hệ tt. a, Khái niệm con người:
* Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh
thần). Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được
giải thoát để trở thành bất diệt.
- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức
“nhân” là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh
hưởng của phong tục, tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải
thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.
- Tuân Tử: Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là các,
nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được.
- Đổng Trọng Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm
cực đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau
(Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải
sống “vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con
người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...
Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố
duy tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối
quan hệ với tự nhiên và xã hội.
* Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn.
Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường
xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế.
Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm
tuyệt đối”, còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự
phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là
đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu
hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các
quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là
tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con
người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội
trong đời sống con người. b. Bản chất con người:
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học với các giá trị mang đến nhận thức, đánh giá và phản ánh ở các giai
đoạn, các thời kỳ trước.
Đồng thời chỉ ra các điểm tiến bộ trong nghiên cứu, khẳng định con
người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
được sinh ra với sự độc lập mang tính cá thể, với các quan hệ huyết
thống và các đặc điểm kèm theo. Bên cạnh yếu tố xã hội ràng buộc, tạo
thành các mối quan hệ khác nhau, xác định trong xây dựng quan hệ
trong lao động sản xuất, trong hợp tác làm ăn, trong sinh hoạt hàng
ngày, điều đó mang đến đặc trưng thể hiện.
Sự thống nhất của yếu tố sinh học và xã hội mới làm nên con người.
Trong quá trình phát triển, nhận thức, tác động ngược trở lại thế giới.
Để tìm kiếm, khai thác các lợi ích trong nhu cầu ngày càng cao. Gắn
với ứng dụng các sự vật trong tự nhiên để tạo ra các giá trị mới cao
hơn, chất lượng và phục vụ đảm bảo các nhu cầu hơn. + Yếu tố sinh học:
Là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Nghiên cứu
với các cách thức tạo ra con người. Với sự tác động mang đến và củng
cố các nhận thức qua thời gian. Các kinh nghiệm, kiến thức phải được
tổng hợp để con người tạo ra giá trị của bản thân. Bản chất sinh học của
con người được thể hiện thông qua:
– Các đặc điểm sinh học.
– Quá trình tâm – sinh lý.
– Và các giai đoạn phát triển khác nhau. + Yếu tố xã hội:
Gắn với các xuất phát từ vấn đề lao động sản xuất. Mang đến đời sống
vật chất, nguồn thức ăn hay đồ vật sử dụng. Cũng như tham gia trong
trao đổi để hình thành tiền là phương tiện mang giá trị trung gian. Lao
động cũng mang đến hiệu quả của sản xuất, buôn bán. Từ đó mới giúp
con người giàu có, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng
sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ
thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Qua đó mà thấy được các ý nghĩa tìm thấy được. Đó là các giá trị,
mang đến các tác động làm thay đổi thể giới theo chiều hướng tích cực.
Trong nhu cầu tiếp cận hiệu quả hơn của con người: “Con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Như vậy, việc tác động vào thế giới thông qua nhận thức, hành động có
chủ đích được thực hiện bởi con người. Trong nhu cầu làm thay đổi,
mang đến các giá trị từ tự nhiên để phục vụ cho con người.
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội:
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau:
– Quan hệ với tự nhiên. – Quan hệ với xã hội.
– Quan hệ với chính bản thân con người.
Mang đến các tác động qua lại đối với xã hội. Các xây dựng mỗi quan
hệ giữa con người với con người thể hiện cho các mục đích và ý nghĩa
bao trùm.Từ đó tác động lên tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt
động trong chừng mực liên quan đến con người. Tổng hòa cho các lợi
ích, các tiếp cận. Và hướng đến cung cấp cho con người.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Với tư cách là thực thể xã
hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới
tự nhiên. Mang đến các tiếp cận ban đầu để hình thành lên nhận thức.
Cũng như sau đó có các kinh nghiệm, có sự học tập và phát triển nhu
cầu. Từ đó thực hiện các tác động với ý nghĩa mong muốn ngày càng
cao, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử, mang đến
các giai đoạn với đặc điểm tác động vào tự nhiên khác nhau của con
người. Thể hiện các giai đoạn và tiến trình lịch sử.
Trong khi thế giới loài vật dựa vào những điều kiện sẵn có của tự
nhiên, sử dụng không đi đôi với phục hồi, cải tạo hay xây dựng, phát
triển, thì con người lại thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú tự nhiên. Tác động và tái tạo lại tự nhiên theo mục đích của
mình. Đảm bảo cho các nhu cầu ngày càng cao, cũng như thể hiện khi
con người có thể làm chủ được toàn bộ.
Hoạt động lao động sản xuất là nguồn gốc đối với các phát triển đó.
Vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Phải làm, phải lao động
để có ăn, có trao đổi và chênh lệch lợi ích. Từ đó trở thành phương thức
để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Tác động và làm thay đổi
trong định hướng phục vụ cho con người. * Bàn luận:
- Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
- Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua
đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp.
- Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định
tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn.
Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động
đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có
tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác
động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: Hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm
chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người
tới hoạt động vật chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì
không thể chỉ dơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà
điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã
hội của nó, từ những quuan hệ kinh tế - xã hội của nó.
- Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là
năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực
sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động
lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
- Ba là, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng
tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. d. Liên hệ thực tiễn.
Tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo
sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng
lực lao động, nâng cao tay nghề
Tạo ra môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng
người và lợi ích của cộng đồng.
Chủ đề 21: Vấn đề giai cấp (Định nghĩa, nguồn gốc, kết cấu của giai
cấp, đấu tranh giai cấp) a. Định nghĩa:
V.I. Lênin định nghĩa về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập
đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã
hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” b. Nguồn gốc:
Giai cấp được hình thành từ sự phân hoá trong quá trình sản xuất. Sự phân
hoá này được gắn liền với việc phân chia lao động trong xã hội, từ đó tạo
ra các tầng lớp khác nhau trong xã hội. c. Kết cấu:
Kết cấu giai cấp bao gồm các tầng lớp khác nhau, từ tầng lớp tư sản đến
tầng lớp lao động. Tầng lớp tư sản là những người sở hữu các phương tiện
sản xuất, trong khi tầng lớp lao động là những người phải bán sức lao
động của mình để kiếm sống. d. Đấu tranh giai cấp:
Theo triết học Mac-Lenin, đấu tranh giai cấp là quá trình các tầng lớp
trong xã hội đấu tranh để bảo vệ hoặc mở rộng quyền lợi của mình. Đấu
tranh giai cấp là cơ chế động lực cho sự phát triển của xã hội.
Chủ đề 22: Vấn đề dân tộc (các hình thức cộng đồng người trước khi
hình thành dân tộc, khái niệm dân tộc, …)
a. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc:
Để tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những
cộng đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, trước khi dân tộc ra đời,
các hình thức cộng đồng người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.
- Thị tộc: là thiết chế xã hội đầu tiên, hình thức cộng đồng người sớm nhất
của loài người. Thị tộc có chung huyết thống, chung ngôn ngữ, tập quán,
tín ngưỡng, văn hóa. Mỗi thị tộc có khu vực cư trú, vùng săn bắt và tên gọi
riêng. Cơ sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu
sản xuất và tài sản. Họ cùng lao động và mọi sản phẩm được chia đều cho
tất cả các thành viên trong thị tộc. Tổ chức xã hội: Các thành viên của thị
tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công việc chung của thị tộc.
- Bộ lạc: là cộng đồng bao gồm nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Đặc trưng của bộ lạc là có cùng
ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng chung sống
trên một vùng lãnh thổ. Cơ sở tồn tại về kinh tế của bộ lạc là chế độ công
hữu về đất đai và công cụ sản xuất. Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất
bằng kim loại đã được hình thành tạo nên hình thức phân công lao động xã
hội đầu tiên giữa trồng trọt và chăn nuôi, nông nghiệp với thủ công
nghiệp... Đây là tiền đề khách quan của sự xuất hiện sở hữu tư nhân. Tổ
chức xã hội: Đứng đầu bộ lạc là hội đồng tù trưởng của các thị tộc tham
gia bộ lạc và có một vị thủ lĩnh tối cao. Mọi vấn đề quan trọng của bộ lạc
đều được bàn bạc và thông qua trong hội đồng này.
- Bộ tộc: là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân
chia giai cấp. Bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc sống trên một lãnh thổ
nhất định có thể cùng hoặc khác huyết thống. Mỗi bộ tộc có tên gọi và có
những đặc điểm về kinh tế, văn hóa riêng. Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ
tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa
ngôn ngữ và văn hóa, trong đó, ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung
tâm của sự giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của
cả bộ tộc. Tổ chức xã hội: Nhà nước là người điều hành xã hội. Nhà nước
do giai cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã hội.
- Dân tộc: là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử
trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền
kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý, tính cách thống nhất, với
một nhà nước và phát luật thống nhất. Tổ chức xã hội: Dân tộc là hình
thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính
trị và nhà nước. Dân tộc là một cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao,
ổn định và tương đối bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao.
Đặc điểm của dân tộc:
+ Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất.
+ Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
+ Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về kinh tế.
+ Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý và tính cách.
+ Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất. b. Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một cộng đồng nhân dân có chung nguồn gốc, lịch sử, văn hóa,
ngôn ngữ, địa lý và tâm tình, và tồn tại như một thực thể độc lập trong xã hội.
Chủ đề 23: Vấn đề nhà nước và cách mạng (khái niệm, bản chất, đặc
trưng, chức năng cơ bản, các kiểu và hình thức nhà nước; Nguồn gốc,
bản chất của cách mạng xã hội) a. Khái niệm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm vè nhà nước. Có thể hiểu cơ bản: nhà
nước là tổ chức chính trị, xã hội; có giai cấp, có lãnh thổ, chính quyền và
dân cư độc lập. Nhà nước có quyền lực, luật pháp để thực hiện các chức
năng quản lý nhằm duy trì trật tự trong vùng lãnh thổ nhất định. b. Bản chất:
Bản chất của nhà nước là những thứ bên trong nhà nước; thể hiện những
đặc tính, giá trị cốt lõi của nhà nước; gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của nó.
Bản chất của nhà nước được thể hiện qua các mặt sau đây:
Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt.
Nhà nước phân chia cư dân theo lãnh thổ.
Nhà nước có chủ quyền quốc gia, lãnh thổ không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài.
Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bằng pháp luật đối với toàn xã hội. c. Đặc trưng cơ bản:
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên như: hệ thống chính quyền từ trung
ương tới cơ sở, lực lượng vũ trang, cảnh sát, nhà tù... đó là “những công
cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước”1.
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền d. Chức năng cơ bản:
Nhà nước, về bản chất là công cụ thống trị của giai cấp thống trị, song để
duy trì xã hội trong vòng “trật tự”, nhà nước đồng thời phải thực hiện
nhiều chức năng: chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng
xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng thống trị
chính trị của giai cấp chịu sự quy định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là
công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền
lực để duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
Bộ máy quyền lực của nhà nước được tổ chức từ trung ương đến cơ sở,
nhân danh nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp mọi sự phản kháng của
giai cấp bị trị, các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ địa vị và quyền lợi
của giai cấp thống trị. Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở
chỗ, nhà nước nhân danh xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội,
điều hành các công việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế,
giáo dục, bảo vệ môi trường,... để duy trì sự ổn định của xã hội trong “trật
tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị. Chức năng đối nội của nhà nước
là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua các
công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa,
y tế, giáo dục,... Chức năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp ứng và giải
quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội. Chức năng đối nội được nhà
nước thực hiện một cách thường xuyên, liên tục thông qua lăng kính giai
cấp của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển
khai thực hiện chính sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm giải quyết
mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia -
dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục,... của mình.
e. Các kiểu và hình thức nhà nước:
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai
cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh
tế - xã hội nào. Trong lịch sử xã hội có giai cấp, chỉ có giai cấp chủ nô, địa
chủ phong kiến, tư sản và vô sản đã từng có nhà nước, lấy nhà nước làm
công cụ thống trị của giai cấp mình.
Như vậy, trong lịch sử có bốn kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô quý tộc,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà
nước thực chất là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức
nhà nước chịu sự quy định của bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tính
chất và trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, bởi cơ cấu giai cấp, tương
quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội, bởi đặc điểm lịch sử, văn
hóa - xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi quốc gia - dân tộc.
Ví dụ: Trong nhà nước chủ nô quý tộc thời kỳ chiếm hữu nô lệ từng tồn tại
nhiều hình thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, nhà
nước cộng hòa dân chủ chủ nô,...
Trong kiểu nhà nước phong kiến, tồn tại hình thức nhà nước phong kiến
tập quyền và nhà nước phong kiến phân quyền. Trong kiểu nhà nước tư
bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: chế độ cộng hòa, chế độ cộng
hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa thủ tướng, chế
độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung,...
Trong kiểu nhà nước vô sản là kiểu nhà nước “đặc biệt”, là nhà nước của
số đông thống trị số ít thì tồn tại
hình thức nhà nước chuyên chính vô sản. f. Nguồn gốc:
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp
ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất
yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, để duy trì trật tự xã hội
trong vòng “trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị được
bảo đảm. Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu.
g. Bản chất của cách mạng xã hội:
Cách mạng xã hội là quá trình đấu tranh của các giai cấp trong xã hội để
thay đổi cơ cấu xã hội, loại bỏ sự bất công và đạt được sự cải tiến đáng kể
trong điều kiện sống của con người. Bản chất của cách mạng xã hội là sự
thay đổi của quyền lực chính trị và kinh tế, từ các giai cấp thống trị sang các giai cấp tiến bộ.