I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG
PHẢI "TÂN CỔ ĐIỂN*
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX những mâu thuẫn vốn có và những khó
khăn về kinh tế, thất nghiệp càng làm tăng thêm mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,.
`Một sự kiện lịch sử trọng đại tác động đến các tư tưởng kinh tế tự sản
trong thời kì này là sự xuất hiện học thuyết kinh tế của Marx.
Trước bối cánh đó, các học thuyết kinh tế của trường phái tư sản cổ điển
tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ CNTB, đòi hỏi phải có những học thuyết kinh tế
mới thay thế. Nhiều trường phái kinh tế chính trị tư sản xuất hiện. Trong đó,
trường phái "Tân cổ điển" đóng vai trò rất quan trọng.
Trường phái "Tân có điển" giữ vai trò thống trị vào những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cũng giống như trường phải cổ điển, các trường phái
"Tân cổ điển" ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào
kinh tế. Họ tin tưởng chắc chấn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đàm bảo cân
bằng cung - cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Trường phái "Tân cổ điển" dựa vào yếu tố tâm lí chủ quan để giải thích
các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội. Đối lập với trường phái tư sản cố
điển và với K. Marx, trường phái "Tân cổ điển" ủng hộ lí thuyết giá trị - chủ
quan.
Các nhà kinh tế học trường phái "Tân cổ điển" chuyển sự chú ý phân tích
kinh tế sang lĩnh vực trao đổi, lưu thông, cung cầu. Họ chủ trương từ sự phân
tích kinh tế trong các xí nghiệp này, rút ra những kết luận chung cho toàn xã hội.
Vì vậy, phương pháp phân tích của họ là phương pháp phân tích vi mô.
Trường phái "Tân cổ điển" muốn biến kinh tế chính trị thành khoa học
kinh tế thuần túý, không có mối liên hệ với các điều kiện chính trị, xã hội.
Các nhà kinh tế học trường phái "Tân cổ điển" tích cực áp dụng toán học
vào phân tích kinh tế, họ sử dụng các công cụ toán học như công thức, đô thị,
mô hìnhvào phân tích kinh tế.
Họ phối hợp các phạm trù toán học với các phạm trù kinh tế để ra các
khái niệm kinh tế mới như "ích lợi giới hạn" giới hạn", sản phẩm giới hạn"...
vậy, trường phái "Tân cổ điển" còn được mang tên là trường phái "giới hạn"
(Marginal),
Trường phái "Tân cổ điển" phát triển ở nhiều nước.
CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG PHÁI "GIỚI
HẠN" THÀNH VIÊN (ÁO)
1. Lí thuyết "ích lợi giới hạn"
Tiền bối của trường phái này là nhà kinh tế học người Đức Herman
Gossen, năm 1854 đã đưa ra tư tưởng về "ích lợi giới hạn" và quy luật nhu cầu.
Theo họ, ích lợi là đặc tính cụ thể của vật, có thể thóa mãn nhu cầu nào
đó của con người. Có ích lợi khách quan và ích lợi chủ quan, ích lợi trừu tượng
và ích lợi cụ thể.
Theo đà thỏả mãn nhu cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. H. Gossen cho
rằng, cùng với sự tăng lên của vật, để thỏả mãn nhu cầu "mức độ bão hoa" tăng
lên; còn "mức độ cấp thiết" của nhu cầu giảm xuống. Do vậy, vật sau để thoả
mãn nhu cầu sẽ có ích lợi nhỏ hơn vật trước đó. Với một số lượng vạt phẩm
nhất định, thì vật phẩm cuối cùng là "vật phẩm giới hạn". Ích lợi của nó là "ích
lợi giới hạn". Nó quyết định cho lợi ích chung của tất cả các vật khác.
Ví dụ, mỗi ngày dùng bốn thùng nước. Thùng thứ nhất để thỏả mãn nhu
cầu bức thiết nhất là để nấu ăn, nên ích lợi lớn nhất, chẳng hạn là 5. Thùng thứ
hai, để uống, ít cấp thiết hơn nên ích lợi là 4. Thùng thứ ba là để tắm giặt, ích lợi
là 3. Thùng thứ tư là ít cấp thiết nhất chẳng hạn để rửa tay chân nên ích lợi là 2
thì "lợi ích giới hạn" sẽ là ích lợi của thùng nước thứ 4. Nó có ích lợi là 2 và 2
sẽ là ích lợi chung cho cả 4 thùng nước (hình 7.1).
Các nhà kinh tế học "Tân cổ điển" cho rằng, số đơn vị sản phẩm càng ít
thì "lợi ích giới hạn" càng lớn. Khi số lượng sản phẩm tăng lên thì tổng ích lợi
tăng lên còn ích lợi giới hạn thì giảm xuống. Nếu sản phẩm tăng lên mãi thì "lợi
ích giới hạn" có thể dẫn tới 0. Họ giải thích là, vì nước có quá nhiều nên không
còn khan hiếm nữa nên nước chỉ có lợi ích trừu tượng, tức là ích lợi nói chung.
2. Lí thuyết giá trị "giới hạn"
Trên cơ sở lí thuyết "ích lợi giới hạn" các nhà kinh tế học trường phái
thành Viene xây dựng lí thuyết giá trị "giới hạn". Lý thuyết này phủ nhận lý
thuyết giá trị lao động của trường phái "tư sản cổ điển" và của K. Max. Trong
lịch sử đã có các nhà kinh tế học ở thế kỉ XVIII quan niệm rằng, ích lợi quyết
định giá trị. Điểm mới là ở chỗ, các kinh tế gia trường phái thành Viene chợ
rằng "ích lợi giới hạn" tức là ích lợi của sản phẩm cuối cùng quyết định giá trị
của sản phẩm. Vì vậy, "giá trị giới hạn" chính là giá trị của "sản phẩm giới hạn".
Nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác.
Theo ví dụ trên, "ích lợi giới hạn" là 2.
Vậy, giá trị của mỗi thùng nước đều là 2.
Như vậy, khi sản phẩm tăng lên thì "giá trị giới hạn" sẽ giảm dần và do
vậy, tổng "giá trị giới hạn" cũng giảm dần. Vì thế, họ đi đến kết luận muốn có
nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.
......................................................................................................................................
V. TRƯỜNG PHÁI CAMBRIDGE (ANH)
Alfred Marshall (1842-1924)
Người đứng đầu trường phái Cambridge (Anh) Alfred Marshall (1842 1924).
Ông giáo trường Đại học tổng hợp Cambidge. thuyết của ông sự tổng hợp
các lý thuyết đã đầu thế kỷ XIX như lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu, năng suất
bất tương xứng, với thuyết mới của thế kỷ XIX như ích lợi giới hạn, năng suất giới
hạn... Do vậy, phương pháp của ôngtính tổng hợp. Theo ông, kinh tế học là một bộ
phận của chủ nghĩa tư bản sẽ nâng cao các điều kiện vật chất để cải thiện đời sống cộng
nhân, do vậy không cần thiết phải đấu tranh giai cấp. Tác phẩm nổi tiếng của ông
“Những nguyên lý của Kinh tế chính trị học” (1890).
1. Về đối tượng, phương pháp của Kinh tế chính trị học
Theo ông, Kinh tế chính trị học hay Kinh tế học xem xét bộ phận của đời sống
xã hội nhân, đặc biệt quan hệ với việc giành và sử dụng các vật chất cần thiết
cho đời sống hạnh phúc.
Về bản chất, “Kinh tế học một khoa học về đời sống gần gũi với sinh
học hơn là cơ khí học”.
Kinh tế học vừa một khoa học thuần tuý, vừa một khoa học ứng dụng.
nghiên cứu các mặt các điều kiện kinh tế của đời sống chính trị, hội nhân
của con người, n phải sử dụng tất cả các phương pháp như diễn dịch, quy nạp, sức
mạnh trừu tượng hoá, nghiên cứu các sự kiện gắn liền với các lý thuyết. Với đối tượng
phương pháp của nó nên sử dụng thuật ngữ “Kinh tế học” thì sẽ thích hợp hơn “Kinh
tế chính trị học”.
2. Lý thuyết về của cải và nhu cầu
Của cải gồm những vật thoả mãn nhu cầu một cách trực tiếp hay gián tiếp.
có thể là những của cải vật chất hay phi vật chất. Chúng có thể do người khác mang lại
hay do bản thân mình tạo ra. Chúng có thể được chuyển dịch, hoặc cho không, hoặc qua
trao đổi.
Của cải xã hội đối lập với của cải cá nhân. những của cải tập thể, những của
cải vật chất mà một cá nhân có chung với những người láng giềng. Của cải của một dân
tộc được hình thành từ những của cải cá nhân và của cải tập thể.
Nhu cầu về của cải giới hạn. Ông viết: “Các nhu cầu mong muốn của
con người thì nhiều và thuộc các loại rất khác nhau, nhưng chúng thường bị hạn chế và
có khả năng được thoả mãn”.
Thông thường tính ích lợi của sản phẩm giảm cùng với số lượng sẵn để thoả
mãn nhu cầu. Tổng ích lợi của tăng lên chậm hơn so với slượng của nó. Lúc đó,
nhu cầu mới được kích thích bởi những hoạt động mới sẽ thay thế.
Nếu một sản phẩm thể phục vụ những việc khác nhau thì người vật đó sẽ
phân phối theo cách thu được ích lợi giới hạn như nhau trong mọi trường hợp. Việc sử
dụng thể cho hiện tại, hoặc cho tương lai. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến sự
không chắc chắn và tính đến tình hình là những ham thích hiện tại khác với những ham
thích ơng lai. Những người khác nhau không hy vọng dự tính tương lai theo cùng một
cách.
3. Lý thuyết về sản xuất và các yếu tố của sản xuất
Sản xuất, theo ông là việc chế tạo ra các ích lợi. Nó như là một sự thay đổi hình
thức hay thay đổi việc sử dụng vật chất. Ngược lại, tiêu dùng sẽ là sự sản xuất tiêu cực
về ích lợi.
Sự tăng lên của sản xuất dẫn đến tiết kiệm. Tiết kiệm bên ngoài được sinh ra từ
sự phát triển chung của công nghiệp kết quả của sự tích tụ. Những khoản tiết kiệm
bên trong sinh ra từ bản thân việc tiết kiệm các yếu tố sản xuất Các yếu tố sản xuất gồm
đất đai, lao động và tư bản.
Đất đai yếu tố thứ nhất của sản xuất. vận động theo quy luật hiệu suất
giảm dần. Tuy nhiên, không có được thước đo tuyệt đối về độ màu mỡ. Xu hướng tạm
thời có thể tạm thời bị ngăn chặn lại do tác động của khoa học kỹ thuật. Trật tự màu mỡ
đất đai có thể thay đổi theo sự thay đổi của chế độ trồng trọt.
Lao động yếu tố thứ hai của sản xuất. Đó là sự nhọc nhằn của con người để
chế biến tài vật. Sự vận động của yếu tố lao động cũng tuân theo “ích lợi giữ hạn”. Ông
viết: “Cũng như đối với tất cả mọi sự tăng số lượng hàng hoá, tính “ích lợi giới hạn”
của nó giảm và cũng như đối với tất cả mọi sự giảm tính ham muốn của nó thì sự giảm
giá cả đối với toàn bộ hàng hoá, không riêng đối với hàng hoá cuối cùng đem
bán. Điều này cũng đúng cho cung lao động”.
Nhân tố thứ ba của sản xuất bản. Đó bộ phận của | cải nhân tiết
kiệm từ số thu nhập của họ. Về mặt xã hội nó còn là toàn bộ những của cải mang lại thu
nhập. Nó còn gồm phần lớn những kiến thức và trình độ tổ chức quản lý.
Tiền tiết kiệm lại, tích lũy lại là do các gia đình bảo đảm “sự an toàn” và “sự trìu
mến” đối với tiền tệ. Nó được sinh ra từ những thu nhập cao, trung bình không chỉ
từ lợi nhuận của tư bản. Nó là kết quả của sự chờ đợi, của sự hy sinh tiêu dùng hiện tại,
tiền thưởng cho sự hy sinh này càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng mạnh.
Tổ chức quản lý công nghiệp là việc sử dụng tốt nhất người lao động vào những
công việc phù hợp với khả năng, năng khiếu kiến thức của họ. Theo nghĩa đó việc
lãnh đạo xí nghiệp được thực hiện bởi các nhà kinh doanh dám chấp nhận rủi ro, quyết
định tổ chức chung của mình, thực hiện nhiều chức năng quản lý. Khả năng của con
người do vậy bị hạn chế bởi quy mô của doanh nghiệp.
Những kiến thức năng khiếu, trí tuệ cũng có một giá cả cung ứng nhất định.
bao gồm 3 yếu tố:
- Giá cung tư bản
mức lãi suất các nhà đầu tư đòi hỏi để cung cấp bản cho một dự án hoặc
một doanh nghiệp. Giá cung tư bản phụ thuộc vào nhiều yếu tố như rủi ro, kỳ vọng, thời
gian, thuế, lạm phát…
Ví dụ: nếu một dự án đầu tư rủi ro cao, thì giá cung tư bản sẽ cao hơn so với
một dự án đầu có rủi ro thấp. Nếu một doanh nghiệp kỳ vọng lợi nhuận cao, thì
giá cung tư bản sẽ thấp hơn so với một doanh nghiệp có kỳ vọng lợi nhuận thấp
- Giá cung các năng khiếu và năng lực để thành đạt trong kinh doanh.
mức ền lương mà các nhà kinh doanh, quản, nhân viên chuyên môn đòi hỏi để
cung cấp các năng khiếu và năng lực của hcho một doanh nghiệp. Giá cung các năng khiếu
và năng lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cung cầu, đào tạo, kinh nghiệm, năng suất, cạnh
tranh…
Ví dụ: nếu một ngành nghề có cầu cao về các năng khiếu và năng lực nhất định, thì giá
cung các năng khiếu và năng lực sẽ cao hơn so với một ngành nghề có cầu thấp.
- Giá cung của tổ chức hoặc là lợi tức, tiền lãi và tiền tô của giám đốc.
mức thu nhập c giám đốc đòi hỏi để cung cấp các kỹ ng tổ chức, quyết
định, lãnh đạo cho một doanh nghiệp. Giá cung của tổ chức phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như kích thước, hiệu quả, mức độ phức tạp, trách nhiệm, rủi ro… của doanh nghiệp.
Ví dụ: nếu một doanh nghiệp kích thước lớn, hiệu quả cao, mức độ phức tạp
cao, trách nhiệm nặng, rủi ro cao, thì giá cung của tổ chức sẽ cao hơn so với một doanh
nghiệp có kích thước nhỏ, hiệu quả thấp, mức độ phức tạp thấp, trách nhiệm nhẹ, rủi ro
thấp.
4. Lý thuyết giá c
Lý thuyết giá cả làlý thuyết nổi tiếng của Marshall. Theo ông, giá cả là
quan hệ số lượng mà trong đó hàng hoá và tiền tệ được trao đổi với nhau.
Lí luận giá cả của ông là sự tổng hợp các lý thuyết chi phí sản xuất, cung
cầu, “lợi ích giói hạn”.
Theo ông, thị trường là tổng thể những người có quan hệ mua bán, hay là
nơi gặp gỡ của cung và cầu. Khi nghiên cúu cơ chế thị trường Marshall cho
rằng, một mặt, trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn thì cung cầu phụ thuộc vào
giá cả. Mặt khác, cơ chế thị trường tác động làm cho giá cả phù hợp của cung
cầu.
Ông đưa ra khái niệm “giá cung” và “giá cầu”.
Ä Giá cung là giá cả mà người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất ở mức
đương thời. Giá cung được quyết định bỏi chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao
gồm: chi phí ban đầu và chi phí phụ thêm.
+ Chi phí ban đầu là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu bất kể có hay
không có sản lượng.
+ Chi phí phụ thêm bao gồm: chi phí về nguyên liệu, lương công nhân, nó
tăng thêm khi gia tăng sản lượng.
Ä Giá cầu là giá mà người mua có thể mua số lượng hàng hoá hiện tại.
Giá cầu được quyết định bởi lợi ích giới hạn. Nghĩa là giá cầu giảm dần khi số
lượng hàng hoá cung ứng tăng lên, trong điều kiện các nhân tố khác không thay
đổi.
Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay
giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp thì sẽ chấm dứt cả khuynh
hướng tăng lẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hoá sản xuất, thế cân bằng
được thiết lập”.
Marshall cho rằng, yếu tố thời gian có ảnh hưởng quan trọng đến cung,
cầu và giá cả cân bằng. Trong thời gian ngắn thì cung cầu có tác động với g
cả.
Ngoài ra, sự độc quyền cũng có tác động đến giá cả. Để có lợi nhuận cao,
các nhà độc quyền thường giảm sản lượng để nâng giá bán. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là độc quyền quyết định được tất cả, bởi vì trên thị trường còn
chịu sự tác động của sự co dãn của cầu.
Marshall đưa ra khái niệm “co dãn của cầu”. Co dãn của cầu chỉ sự ph
thuộc của cầu vào mức giá cả. mức linh hoạt của cầu trên thị trường phụ thuộc
vào tình trạng: khối lượng của cầu tăng lên ở mức độ nhất định, khi giá cả hàng
hoá này giảm xuống, hoặc ngược lại, khối lượng cầu giảm xuống, khi giá cả
hàng hoá này tăng lên.
∆Q
K =
Q
∆p
p
K : Hệ số co dãn của cầu
∆Q/Q : Sự biến đổi của cầu
∆p/p : Sự biến đổi của giá Hệ
số co giãn có 3 trường hợp:
Tài liệu được sưu tầm gồm 23 trang, giúp các bạn nắm vững
kiến thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được kết quả tốt trong học tập.
Mời các bạn đón xem!
K > 1: Là trường hợp một sự thay đổi nhỏ của giá làm cho cầu thay đổi
lớn hơn, goi là cầu co dãn.
K > 1: Là trường hợp một sự thay đổi lớn của giá chỉ làm cho cầu thay
đổi không đáng kể, gọi là cầu không co dãn.
K = 1: là tốc độ thay đổi của giá và của cầu như nhau, gọi là cầu co dãn
đơn vị.
Sự co dãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố như: mức giá cả, giá cả của
hàng hoá có liên quan, sức mua của dân cư và nhu cầu mua sắm của dân
cư.
Tóm lại: lý thuyết giá cả của Marshall là cơ sở lý luận của kinh tế học vi
mô hiện đại trong phân tích thị trường, cung cầu và giá cả.

Preview text:

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG PHẢI "TÂN CỔ ĐIỂN*
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX những mâu thuẫn vốn có và những khó
khăn về kinh tế, thất nghiệp càng làm tăng thêm mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,.
`Một sự kiện lịch sử trọng đại tác động đến các tư tưởng kinh tế tự sản
trong thời kì này là sự xuất hiện học thuyết kinh tế của Marx.
Trước bối cánh đó, các học thuyết kinh tế của trường phái tư sản cổ điển
tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ CNTB, đòi hỏi phải có những học thuyết kinh tế
mới thay thế. Nhiều trường phái kinh tế chính trị tư sản xuất hiện. Trong đó,
trường phái "Tân cổ điển" đóng vai trò rất quan trọng.
Trường phái "Tân có điển" giữ vai trò thống trị vào những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cũng giống như trường phải cổ điển, các trường phái
"Tân cổ điển" ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào
kinh tế. Họ tin tưởng chắc chấn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đàm bảo cân
bằng cung - cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Trường phái "Tân cổ điển" dựa vào yếu tố tâm lí chủ quan để giải thích
các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội. Đối lập với trường phái tư sản cố
điển và với K. Marx, trường phái "Tân cổ điển" ủng hộ lí thuyết giá trị - chủ quan.
Các nhà kinh tế học trường phái "Tân cổ điển" chuyển sự chú ý phân tích
kinh tế sang lĩnh vực trao đổi, lưu thông, cung cầu. Họ chủ trương từ sự phân
tích kinh tế trong các xí nghiệp này, rút ra những kết luận chung cho toàn xã hội.
Vì vậy, phương pháp phân tích của họ là phương pháp phân tích vi mô.
Trường phái "Tân cổ điển" muốn biến kinh tế chính trị thành khoa học
kinh tế thuần túý, không có mối liên hệ với các điều kiện chính trị, xã hội.
Các nhà kinh tế học trường phái "Tân cổ điển" tích cực áp dụng toán học
vào phân tích kinh tế, họ sử dụng các công cụ toán học như công thức, đô thị,
mô hìnhvào phân tích kinh tế.
Họ phối hợp các phạm trù toán học với các phạm trù kinh tế để ra các
khái niệm kinh tế mới như "ích lợi giới hạn" giới hạn", sản phẩm giới hạn"... Vì
vậy, trường phái "Tân cổ điển" còn được mang tên là trường phái "giới hạn" (Marginal),
Trường phái "Tân cổ điển" phát triển ở nhiều nước.
Ⅱ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG PHÁI "GIỚI HẠN" THÀNH VIÊN (ÁO)
1. Lí thuyết "ích lợi giới hạn"
Tiền bối của trường phái này là nhà kinh tế học người Đức Herman
Gossen, năm 1854 đã đưa ra tư tưởng về "ích lợi giới hạn" và quy luật nhu cầu.
Theo họ, ích lợi là đặc tính cụ thể của vật, có thể thóa mãn nhu cầu nào
đó của con người. Có ích lợi khách quan và ích lợi chủ quan, ích lợi trừu tượng và ích lợi cụ thể.
Theo đà thỏả mãn nhu cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. H. Gossen cho
rằng, cùng với sự tăng lên của vật, để thỏả mãn nhu cầu "mức độ bão hoa" tăng
lên; còn "mức độ cấp thiết" của nhu cầu giảm xuống. Do vậy, vật sau để thoả
mãn nhu cầu sẽ có ích lợi nhỏ hơn vật trước đó. Với một số lượng vạt phẩm
nhất định, thì vật phẩm cuối cùng là "vật phẩm giới hạn". Ích lợi của nó là "ích
lợi giới hạn". Nó quyết định cho lợi ích chung của tất cả các vật khác.
Ví dụ, mỗi ngày dùng bốn thùng nước. Thùng thứ nhất để thỏả mãn nhu
cầu bức thiết nhất là để nấu ăn, nên ích lợi lớn nhất, chẳng hạn là 5. Thùng thứ
hai, để uống, ít cấp thiết hơn nên ích lợi là 4. Thùng thứ ba là để tắm giặt, ích lợi
là 3. Thùng thứ tư là ít cấp thiết nhất chẳng hạn để rửa tay chân nên ích lợi là 2
thì "lợi ích giới hạn" sẽ là ích lợi của thùng nước thứ 4. Nó có ích lợi là 2 và 2
sẽ là ích lợi chung cho cả 4 thùng nước (hình 7.1).
Các nhà kinh tế học "Tân cổ điển" cho rằng, số đơn vị sản phẩm càng ít
thì "lợi ích giới hạn" càng lớn. Khi số lượng sản phẩm tăng lên thì tổng ích lợi
tăng lên còn ích lợi giới hạn thì giảm xuống. Nếu sản phẩm tăng lên mãi thì "lợi
ích giới hạn" có thể dẫn tới 0. Họ giải thích là, vì nước có quá nhiều nên không
còn khan hiếm nữa nên nước chỉ có lợi ích trừu tượng, tức là ích lợi nói chung.
2. Lí thuyết giá trị "giới hạn"
Trên cơ sở lí thuyết "ích lợi giới hạn" các nhà kinh tế học trường phái
thành Viene xây dựng lí thuyết giá trị "giới hạn". Lý thuyết này phủ nhận lý
thuyết giá trị lao động của trường phái "tư sản cổ điển" và của K. Max. Trong
lịch sử đã có các nhà kinh tế học ở thế kỉ XVIII quan niệm rằng, ích lợi quyết
định giá trị. Điểm mới là ở chỗ, các kinh tế gia trường phái thành Viene chợ
rằng "ích lợi giới hạn" tức là ích lợi của sản phẩm cuối cùng quyết định giá trị
của sản phẩm. Vì vậy, "giá trị giới hạn" chính là giá trị của "sản phẩm giới hạn".
Nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác.
Theo ví dụ trên, "ích lợi giới hạn" là 2.
Vậy, giá trị của mỗi thùng nước đều là 2.
Như vậy, khi sản phẩm tăng lên thì "giá trị giới hạn" sẽ giảm dần và do
vậy, tổng "giá trị giới hạn" cũng giảm dần. Vì thế, họ đi đến kết luận muốn có
nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.
......................................................................................................................................
V. TRƯỜNG PHÁI CAMBRIDGE (ANH) Alfred Marshall (1842-1924)
Người đứng đầu trường phái Cambridge (Anh) là Alfred Marshall (1842 1924).
Ông là giáo sư trường Đại học tổng hợp Cambidge. Lí thuyết của ông là sự tổng hợp
các lý thuyết đã có đầu thế kỷ XIX như lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu, năng suất
bất tương xứng, với lý thuyết mới của thế kỷ XIX như ích lợi giới hạn, năng suất giới
hạn... Do vậy, phương pháp của ông có tính tổng hợp. Theo ông, kinh tế học là một bộ
phận của chủ nghĩa tư bản sẽ nâng cao các điều kiện vật chất để cải thiện đời sống cộng
nhân, do vậy không cần thiết phải đấu tranh giai cấp. Tác phẩm nổi tiếng của ông là
“Những nguyên lý của Kinh tế chính trị học” (1890).
1. Về đối tượng, phương pháp của Kinh tế chính trị học
Theo ông, Kinh tế chính trị học hay Kinh tế học xem xét bộ phận của đời sống
xã hội và cá nhân, đặc biệt có quan hệ với việc giành và sử dụng các vật chất cần thiết
cho đời sống hạnh phúc.
Về bản chất, “Kinh tế học là một khoa học về đời sống và nó gần gũi với sinh
học hơn là cơ khí học”.
Kinh tế học vừa là một khoa học thuần tuý, vừa là một khoa học ứng dụng. Nó
nghiên cứu các mặt và các điều kiện kinh tế của đời sống chính trị, xã hội và cá nhân
của con người, nên phải sử dụng tất cả các phương pháp như diễn dịch, quy nạp, sức
mạnh trừu tượng hoá, nghiên cứu các sự kiện gắn liền với các lý thuyết. Với đối tượng
và phương pháp của nó nên sử dụng thuật ngữ “Kinh tế học” thì sẽ thích hợp hơn “Kinh tế chính trị học”.
2. Lý thuyết về của cải và nhu cầu
Của cải gồm những vật thoả mãn nhu cầu một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nó
có thể là những của cải vật chất hay phi vật chất. Chúng có thể do người khác mang lại
hay do bản thân mình tạo ra. Chúng có thể được chuyển dịch, hoặc cho không, hoặc qua trao đổi.
Của cải xã hội đối lập với của cải cá nhân. Có những của cải tập thể, những của
cải vật chất mà một cá nhân có chung với những người láng giềng. Của cải của một dân
tộc được hình thành từ những của cải cá nhân và của cải tập thể.
Nhu cầu về của cải là có giới hạn. Ông viết: “Các nhu cầu và mong muốn của
con người thì nhiều và thuộc các loại rất khác nhau, nhưng chúng thường bị hạn chế và
có khả năng được thoả mãn”.
Thông thường tính ích lợi của sản phẩm giảm cùng với số lượng có sẵn để thoả
mãn nhu cầu. Tổng ích lợi của nó tăng lên chậm hơn so với số lượng của nó. Lúc đó,
nhu cầu mới được kích thích bởi những hoạt động mới sẽ thay thế.
Nếu một sản phẩm có thể phục vụ những việc khác nhau thì người có vật đó sẽ
phân phối theo cách thu được ích lợi giới hạn như nhau trong mọi trường hợp. Việc sử
dụng nó có thể là cho hiện tại, hoặc cho tương lai. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến sự
không chắc chắn và tính đến tình hình là những ham thích hiện tại khác với những ham
thích tương lai. Những người khác nhau không hy vọng dự tính tương lai theo cùng một cách.
3. Lý thuyết về sản xuất và các yếu tố của sản xuất
Sản xuất, theo ông là việc chế tạo ra các ích lợi. Nó như là một sự thay đổi hình
thức hay thay đổi việc sử dụng vật chất. Ngược lại, tiêu dùng sẽ là sự sản xuất tiêu cực về ích lợi.
Sự tăng lên của sản xuất dẫn đến tiết kiệm. Tiết kiệm bên ngoài được sinh ra từ
sự phát triển chung của công nghiệp và là kết quả của sự tích tụ. Những khoản tiết kiệm
bên trong sinh ra từ bản thân việc tiết kiệm các yếu tố sản xuất Các yếu tố sản xuất gồm
đất đai, lao động và tư bản.

Đất đai là yếu tố thứ nhất của sản xuất. Nó vận động theo quy luật hiệu suất
giảm dần. Tuy nhiên, không có được thước đo tuyệt đối về độ màu mỡ. Xu hướng tạm
thời có thể tạm thời bị ngăn chặn lại do tác động của khoa học kỹ thuật. Trật tự màu mỡ
đất đai có thể thay đổi theo sự thay đổi của chế độ trồng trọt.
Lao động là yếu tố thứ hai của sản xuất. Đó là sự nhọc nhằn của con người để
chế biến tài vật. Sự vận động của yếu tố lao động cũng tuân theo “ích lợi giữ hạn”. Ông
viết: “Cũng như đối với tất cả mọi sự tăng số lượng hàng hoá, tính “ích lợi giới hạn”
của nó giảm và cũng như đối với tất cả mọi sự giảm tính ham muốn của nó thì sự giảm
giá cả đối với toàn bộ hàng hoá, mà không riêng gì đối với hàng hoá cuối cùng đem
bán. Điều này cũng đúng cho cung lao động”.
Nhân tố thứ ba của sản xuất là tư bản. Đó là bộ phận của | cải mà cá nhân tiết
kiệm từ số thu nhập của họ. Về mặt xã hội nó còn là toàn bộ những của cải mang lại thu
nhập. Nó còn gồm phần lớn những kiến thức và trình độ tổ chức quản lý.
Tiền tiết kiệm lại, tích lũy lại là do các gia đình bảo đảm “sự an toàn” và “sự trìu
mến” đối với tiền tệ. Nó được sinh ra từ những thu nhập cao, trung bình và không chỉ
từ lợi nhuận của tư bản. Nó là kết quả của sự chờ đợi, của sự hy sinh tiêu dùng hiện tại,
tiền thưởng cho sự hy sinh này càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng mạnh.
Tổ chức quản lý công nghiệp là việc sử dụng tốt nhất người lao động vào những
công việc phù hợp với khả năng, năng khiếu và kiến thức của họ. Theo nghĩa đó việc
lãnh đạo xí nghiệp được thực hiện bởi các nhà kinh doanh dám chấp nhận rủi ro, quyết
định tổ chức chung của mình, thực hiện nhiều chức năng quản lý. Khả năng của con
người do vậy bị hạn chế bởi quy mô của doanh nghiệp.
Những kiến thức năng khiếu, trí tuệ cũng có một giá cả cung ứng nhất định. Nó bao gồm 3 yếu tố:
- Giá cung tư bản
Là mức lãi suất mà các nhà đầu tư đòi hỏi để cung cấp tư bản cho một dự án hoặc
một doanh nghiệp. Giá cung tư bản phụ thuộc vào nhiều yếu tố như rủi ro, kỳ vọng, thời gian, thuế, lạm phát…
Ví dụ: nếu một dự án đầu tư có rủi ro cao, thì giá cung tư bản sẽ cao hơn so với
một dự án đầu tư có rủi ro thấp. Nếu một doanh nghiệp có kỳ vọng lợi nhuận cao, thì
giá cung tư bản sẽ thấp hơn so với một doanh nghiệp có kỳ vọng lợi nhuận thấp
- Giá cung các năng khiếu và năng lực để thành đạt trong kinh doanh.
Là mức tiền lương mà các nhà kinh doanh, quản lý, nhân viên chuyên môn đòi hỏi để
cung cấp các năng khiếu và năng lực của họ cho một doanh nghiệp. Giá cung các năng khiếu
và năng lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cung cầu, đào tạo, kinh nghiệm, năng suất, cạnh tranh…
Ví dụ: nếu một ngành nghề có cầu cao về các năng khiếu và năng lực nhất định, thì giá
cung các năng khiếu và năng lực sẽ cao hơn so với một ngành nghề có cầu thấp.
- Giá cung của tổ chức hoặc là lợi tức, tiền lãi và tiền tô của giám đốc.
Là mức thu nhập mà các giám đốc đòi hỏi để cung cấp các kỹ năng tổ chức, quyết
định, lãnh đạo cho một doanh nghiệp. Giá cung của tổ chức phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như kích thước, hiệu quả, mức độ phức tạp, trách nhiệm, rủi ro… của doanh nghiệp.
Ví dụ: nếu một doanh nghiệp có kích thước lớn, hiệu quả cao, mức độ phức tạp
cao, trách nhiệm nặng, rủi ro cao, thì giá cung của tổ chức sẽ cao hơn so với một doanh
nghiệp có kích thước nhỏ, hiệu quả thấp, mức độ phức tạp thấp, trách nhiệm nhẹ, rủi ro thấp.
4. Lý thuyết giá cả
Lý thuyết giá cả làlý thuyết nổi tiếng của Marshall. Theo ông, giá cả là
quan hệ số lượng mà trong đó hàng hoá và tiền tệ được trao đổi với nhau.
Lí luận giá cả của ông là sự tổng hợp các lý thuyết chi phí sản xuất, cung
cầu, “lợi ích giói hạn”.
Theo ông, thị trường là tổng thể những người có quan hệ mua bán, hay là
nơi gặp gỡ của cung và cầu. Khi nghiên cúu cơ chế thị trường Marshall cho
rằng, một mặt, trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn thì cung cầu phụ thuộc vào
giá cả. Mặt khác, cơ chế thị trường tác động làm cho giá cả phù hợp của cung cầu.
Ông đưa ra khái niệm “giá cung” và “giá cầu”.
Ä Giá cung là giá cả mà người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất ở mức
đương thời. Giá cung được quyết định bỏi chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao
gồm: chi phí ban đầu và chi phí phụ thêm.
+ Chi phí ban đầu là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu bất kể có hay không có sản lượng.
+ Chi phí phụ thêm bao gồm: chi phí về nguyên liệu, lương công nhân, nó
tăng thêm khi gia tăng sản lượng.
Ä Giá cầu là giá mà người mua có thể mua số lượng hàng hoá hiện tại.
Giá cầu được quyết định bởi lợi ích giới hạn. Nghĩa là giá cầu giảm dần khi số
lượng hàng hoá cung ứng tăng lên, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi.
Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay
giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp thì sẽ chấm dứt cả khuynh
hướng tăng lẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hoá sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.
Marshall cho rằng, yếu tố thời gian có ảnh hưởng quan trọng đến cung,
cầu và giá cả cân bằng. Trong thời gian ngắn thì cung cầu có tác động với giá cả.
Ngoài ra, sự độc quyền cũng có tác động đến giá cả. Để có lợi nhuận cao,
các nhà độc quyền thường giảm sản lượng để nâng giá bán. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là độc quyền quyết định được tất cả, bởi vì trên thị trường còn
chịu sự tác động của sự co dãn của cầu.
Marshall đưa ra khái niệm “co dãn của cầu”. Co dãn của cầu chỉ sự phụ
thuộc của cầu vào mức giá cả. mức linh hoạt của cầu trên thị trường phụ thuộc
vào tình trạng: khối lượng của cầu tăng lên ở mức độ nhất định, khi giá cả hàng
hoá này giảm xuống, hoặc ngược lại, khối lượng cầu giảm xuống, khi giá cả hàng hoá này tăng lên. ∆Q K = Q ∆p p
K : Hệ số co dãn của cầu
∆Q/Q : Sự biến đổi của cầu
∆p/p : Sự biến đổi của giá Hệ
số co giãn có 3 trường hợp:
Tài liệu được sưu tầm gồm 23 trang, giúp các bạn nắm vững
kiến thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được kết quả tốt trong học tập. Mời các bạn đón xem!
K > 1: Là trường hợp một sự thay đổi nhỏ của giá làm cho cầu thay đổi
lớn hơn, goi là cầu co dãn.
K > 1: Là trường hợp một sự thay đổi lớn của giá chỉ làm cho cầu thay
đổi không đáng kể, gọi là cầu không co dãn.
K = 1: là tốc độ thay đổi của giá và của cầu như nhau, gọi là cầu co dãn đơn vị.
Sự co dãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố như: mức giá cả, giá cả của
hàng hoá có liên quan, sức mua của dân cư và nhu cầu mua sắm của dân cư.
Tóm lại: lý thuyết giá cả của Marshall là cơ sở lý luận của kinh tế học vi
mô hiện đại trong phân tích thị trường, cung cầu và giá cả.