LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
1. Trình bày nội dung của học thuyết về bàn tay hình của A. Smith. Học thuyết
này có vai trò như thế nào trong hệ thống học thuyết kinh tế tư sản hiện đại?
Học thuyết “bàn tay hình” một trong những đóng góp quan trọng nổi
bật nhất của Adam Smith nhà kinh tế học người Scotland, được trình bày trong
tác phẩm kinh điển “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations” xuất bản năm 1776. Trong học thuyết này, Adam Smith cho rằng mỗi
nhân khi theo đuổi lợi ích cá nhân của mình sẽ “vô tình” góp phần thúc đẩy lợi ích
của toàn xã hội, như thể được dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình”. Ông viết: “Mỗi cá
nhân luôn nỗ lực sử dụng vốn của mình để tạo ra giá trị lớn nhất… Trong khi chỉ
mưu cầu lợi ích cá nhân, người ấy lại vô tình được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình
để thúc đẩy lợi ích cộng đồng” (Smith, 1776, Quyển IV, Chương II). Theo đó, Smith
cho rằng nếu thị trường được vận hành trong môi trường tdo cạnh tranh, không bị
can thiệp mạnh mẽ từ chính phủ, thì các lực lượng cung cầu sẽ tự điều chỉnh đ
phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. Người sản xuất sẽ chạy theo lợi nhuận, nhưng để
làm được điều đó, họ buộc phải đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó lợi
ích chung sẽ được đảm bảo. Cơ chế thị trường khi đó sẽ trở thành một hệ thống t
điều chỉnh tối ưu mà không cần bàn tay kiểm soát trung ương.
Với vai trò nền tảng trong lịch sử tưởng kinh tế, học thuyết “bàn tay vô hình”
đã trở thành cơ sở lý luận quan trọng cho chủ nghĩa bản cổ điển tiếp tục ảnh
hưởng sâu rộng đến các trường phái kinh tế sản hiện đại. Trường phái kinh tế học
cổ điển, với các đại diện như David Ricardo và Jean-Baptiste Say, kế thừa và phát
triển tư tưởng tự do cạnh tranh và thị trường tự điều tiết của Adam Smith. Sau đó,
đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà kinh tế học thuộc trường
phái tân cổ điển nAlfred Marshall đã mở rộng thêm các mô hình cung – cầu, chi
phí cận biên dựa trên nền tảng tư tưởng về “bàn tay hình”. Đặc biệt, trong thế kỷ
XX, tư tưởng của Smith còn được phục hưng mạnh mẽ bởi các nhà tư tưởng tân tự
do như Friedrich Hayek và Milton Friedman. Hayek từng nhấn mạnh rằng: “Adam
Smith đã đúng khi tin rằng trật tự kinh tế thể phát sinh không cần thiết kế
trung tâm” (The Road to Serfdom, 1944). Những nguyên của học thuyết “bàn tay
hình” đã trở thành sở luận cho các chính sách tự do hóa thương mại,
nhân hóa, giảm thuế và thu hẹp vai trò nhà nước – đặc trưng của kinh tế học tân tự
do trong giai đoạn toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, nhiều hiện tượng
tiêu cực như độc quyền, khủng hoảng tài chính, ô nhiễm môi trường bất bình
đẳng thu nhập đã bộc lộ những giới hạn của cơ chế thị trường hoàn toàn tự do. Các
nhà kinh tế học như John Maynard Keynes đã chỉ ra rằng thị trường không phải lúc
nào cũng tự điều chỉnh hiệu quả, trong nhiều tình huống, nhà nước cần vai t
điều tiết vĩ để ổn định kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Từ đó, tư tưởng “bàn
tay vô hình” được tiếp cận lại theo hướng mềm dẻo hơn, kết hợp giữa thị trường
sự can thiệp hợp lý của nhà nước. Dù vậy, học thuyết của Adam Smith vẫn giữ một
vị trí đặc biệt trong lịch sử tưởng kinh tế, là nền tảng đhiểu bản chất và động
lực của nền kinh tế thị trường.
2. Phân tích thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo ý nghĩa thực tiễn của
thuyết này trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam hiện nay.
Lý thuyết lợi thế so sánh (comparative advantage) do David Ricardo xây dựng
trong tác phẩm “Principles of Political Economy and Taxation” (1817) một trong
những thuyết nền tảng của thương mại quốc tế. Khác với thuyết lợi thế tuyệt
đối của Adam Smith, Ricardo lập luận rằng ngay cả khi một quốc gia kém hiệu quả
hơn trong mọi lĩnh vực so với quốc gia khác, thì hai bên vẫn thể cùng lợi từ
thương mại nếu mỗi nước chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng mà họ có chi
phí hội thấp hơn, tức lợi thế so sánh. Trong dụ nổi tiếng của ông, Bồ
Đào Nha có thể sản xuất cả rượu vang vải hiệu quả hơn Anh, nhưng nếu Bồ Đào
Nha chuyên sản xuất rượu vang – nơi họ vượt trội hơn rõ rệt – Anh sản xuất vải,
thì cả hai sẽ hưởng lợi khi trao đổi hàng hóa. Ricardo chứng minh rằng thương mại
không cần sự vượt trội tuyệt đối, cần sự chênh lệch tương đối trong năng suất
chi phí. thuyết này hiện vẫn sở luận được giảng dạy rộng rãi trong
các giáo trình kinh tế quốc tế hiện đại như:
Paul Krugman & Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and
Policy, 10th edition, Pearson Education, 2014 chương 3: “Comparative
Advantage and the Gains from Trade”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, lý thuyết lợi
thế so sánh vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn, đặc biệt đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam. Việt Nam là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, chi phí thấp,
tài nguyên thiên nhiên phong phú, và do đó đã xây dựng được lợi thế so sánh trong
một số ngành sản xuất thâm dụng lao động tài nguyên, chẳng hạn như: dệt
may, da giày, thủy sản, gnông sản chế biến. Theo số liệu từ Tổng cục Hải
quan Việt Nam, trong năm 2023, xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 44 tỷ USD, trong
đó chủ yếu xuất sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản những quốc gia có chi phí
lao động cao ít sản xuất các mặt hàng này. Đây là minh chứng ràng cho việc
Việt Nam tận dụng lợi thế so sánh của mình để phục vụ thị trường toàn cầu.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cao từ
các nước phát triển như Đức, Nhật Bản Hàn Quốc nơi lợi thế so sánh về
công nghệ và kỹ thuật. Chính sự trao đổi này đã giúp Việt Nam tích hợp vào chuỗi
giá trị toàn cầu. Một dụ điển hình lĩnh vực điện tử: Việt Nam hiện một
trong những quốc gia xuất khẩu điện thoại di động lớn nhất thế giới, với sản phẩm
chủ lực là điện thoại Samsung – được lắp ráp tại Việt Nam, sử dụng linh kiện nhập
từ Hàn Quốc, Nhật Bản Trung Quốc. Điều này cho thấy mỗi quốc gia đang khai
thác lợi thế so sánh của mình trong chuỗi sản xuất toàn cầu, đúng với tinh thần
của Ricardo.
Không chỉ dừng lại xuất nhập khẩu hàng hóa, Việt Nam còn tham gia nhiều
hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA, RCEP, mở rộng không gian thị
trường tạo điều kiện cho các ngành lợi thế so sánh phát triển. Theo Báo cáo
từ Bộ Công Thương (2024), việc thực thi EVFTA đã giúp kim ngạch xuất khẩu
sang EU tăng 14,2% trong năm 2023, đặc biệt là các ngành nông thủy sản, dệt
may đồ gỗ. Tuy nhiên, trong dài hạn, lợi thế so sánh tĩnh (lao động rẻ, tài
nguyên) có thể suy giảm do chi phí tăng, cạnh tranh khu vực gay gắt và biến động
công nghệ. Vì vậy, Việt Nam cần hướng tới lợi thế so sánh động bằng cách đầu tư
vào giáo dục, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và cải thiện thể chế để tạo
ra giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Như vậy, có thể khẳng định rằng thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
không chỉ mang giá trị lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với Việt
Nam trong chiến lược thương mại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tận dụng
nâng cấp lợi thế so sánh sẽ giúp Việt Nam không chỉ xuất khẩu nhiều hơn,
còn tham gia vào những khâu có giá trị cao hơn trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
3. Trình bày nội dung “Chính sách kinh tế mới” của V. I. Lênin. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu lý thuyết đó đối với nước ta hiện nay?
Chính sách kinh tế mới (NEP) do Vladimir Ilyich Lênin khởi xướng được coi
một bước ngoặt chiến lược quan trọng trong lịch sphát triển kinh tế của nước
Nga viết sau Cách mạng Tháng Mười. Trong bối cảnh cuộc nội chiến (1918
1921) làm kiệt quệ nền kinh tế, và chính sách cộng sản thời chiến không còn phù
hợp, Lênin đã đề xuất NEP tại Đại hội lần thứ 10 của Đảng Cộng sản Nga (tháng
3/1921) như một biện pháp "rút lui chiến lược" để cứu vãn nền kinh tế quốc dân.
Theo tác phẩm của Lênin: “Về chính sách kinh tế mới và nhiệm vụ của các tổ
chức giáo dục chính trị” (1921), nội dung cơ bản của NEP bao gồm: khôi phục
phát triển kinh tế bằng cách kết hợp các thành phần kinh tế khác nhau, đặc
biệt là sự thừa nhận một mức độ nhất định của kinh tế thị trường bản
nhân trong phạm vi kiểm soát của nhà nước hội chủ nghĩa. Các điểm nổi bật
gồm:
Cho phép ng dân được tự do buôn bán giữ lại sản phẩm thừa sau
khi nộp thuế (thay cho trưng thu lương thực bắt buộc);
Phát triển thành phần kinh tế nhân trong thương nghiệp nhỏ công
nghiệp nhẹ;
Khôi phục hạch toán kinh tế, tiền tệ và ngân hàng;
Kết hợp giữa kế hoạch hóa các yếu tố thị trường, dưới sự kiểm soát của nhà
nước.
Lênin nhấn mạnh rằng đây không phải là sự từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là bước
đi chiến lược để “xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính những ng cụ của chủ
nghĩa tư bản” (Lênin, 1921). Ông gọi NEP"chính sách rút lui để tiến công",
khẳng định vai trò lãnh đạo kinh tế của nhà nước nhưng linh hoạt hơn trong phương
thức tổ chức sản xuất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu NEP đối với Việt Nam hiện nay
Việc nghiên cứu chính sách NEP của Lênin giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi mới kinh tế từ năm 1986 đến
nay. thể thấy những điểm tương đồng giữa NEP đường lối đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng tại Đại hội VI (1986), khi Việt Nam chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Cũng như Nga viết đầu những năm 1920, Việt Nam sau năm 1975 đối mặt
với khó khăn kinh tế nghiêm trọng: năng suất thấp, khan hiếm lương thực, hàng
hóa, và chế bao cấp kém hiệu quả. Đường lối đổi mới đã cho phép thừa nhận
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, mở rộng quyền tự chủ cho doanh
nghiệp, khuyến khích nhân hóa và đầu tư nước ngoài, tương tự như việc NEP
cho phép hoạt động của kinh tế cá thể và thị trường.
Sự thành công của công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo, phải
nhập khẩu lương thực, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới
(Tổng cục Thống kê, 2023), GDP bình quân đầu người năm 2023 đạt hơn 4.300
USD (World Bank), tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây chính
minh chứng sống động cho tính đúng đắn của chủ trương phát triển kinh tế
nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước điều mà NEP từng đặt nền
móng lý luận đầu tiên.
Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang hướng tới mục tiêu trở thành
nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, thì tinh thần của NEPtính linh
hoạt trong chính sách kinh tế, kết hợp giữa kế hoạch hóa thị trường, đảm
bảo vai trò chủ đạo của nhà nước nhưng không phủ nhận kinh tế nhân
vẫn có giá trị tham khảo to lớn. Ví dụ, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII (2022)
khẳng định “kinh tế tư nhân một động lực quan trọng của nền kinh tế”, đồng thời
tiếp tục khẳng định vai tcủa kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực then chốt như
năng lượng, tài chính, an ninh quốc phòng – cho thấy tư duy kế thừa NEP được vận
dụng sáng tạo tại Việt Nam.
4. Trình bày thuyết “giá cả thị trường” của A. Marshall. thuyết này thể hiện
đặc điểm phương pháp luận của trường phái Tân cổ điển như thế nào?
Alfred Marshall (1842–1924), nhà kinh tế học người Anh, người sáng lp
trường phái Tân cổ điển (Neoclassical Economics). Trong tác phẩm kinh điển
“Principles of Economics” (1890), Marshall đã phát triển một thuyết giá cả thị
trường mang tính hệ thống, kết hợp cả yếu tố cầu cung, được xem là bước ngoặt
trong duy kinh tế học hiện đại. Ông cho rằng gcả thị trường được hình thành
thông qua sự tương tác giữa cung và cầu, chứ không chỉ do chi phí sản xuất như
trường phái cổ điển (Ricardo, Smith) nhấn mạnh, hay chỉ do giá trị sử dụng như
trường phái chủ quan. Lý thuyết giá cả của Marshall vì vậy mang tính tổng hợp.
Theo Marshall, giá thị trường (market price) mức giá tạm thời được hình
thành tại điểm giao cắt giữa đường cungđường cầu. Đường cầu phản ánh mối
quan hệ giữa giá và lượng cầu, thường có dạng dốc xuống – tức là khi giá giảm thì
lượng cầu tăng. Trong khi đó, đường cung dốc lên, vì giá cao hơn sẽ khuyến khích
người sản xuất cung nhiều hơn. Điểm cân bằng giữa hai đường này chính là mức
giá cả thị trường, thể hiện sự “hòa giải” giữa người mua người bán. Marshall
đã dùng hình ảnh nổi tiếng:
"Cũng như hai lưỡi kéo cùng cắt giấy, cả cung cầu cùng quyết định giá,
việc hỏi yếu tố nào quan trọng hơn là vô nghĩa".
(Principles of Economics, Book V, Chapter III)
Điểm đặc biệt trong thuyết của Marshall ông phân biệt ngắn hạn dài
hạn trong việc hình thành giá. Trong ngắn hạn, cung thể bị giới hạn (ví dụ, số
lượng cửa hàng, máy móc cố định), nên giá chủ yếu do cầu quyết định. Trong dài
hạn, khi các yếu tố sản xuất có thể điều chỉnh linh hoạt, giá cả sẽ phản ánh chi phí
sản xuất. Đây là cách tiếp cận động, không tĩnh tại như kinh tế học cổ điển.
Phương pháp luận của trường phái Tân cổ điển trong thuyết của
Marshall
thuyết giá cả thị trường của Marshall thể hiện các đặc điểm phương pháp
luận tiêu biểu của trường phái Tân cổ điển, bao gồm:
duy cận biên (Marginalism): Trường phái Tân cổ điển, đặc biệt từ
thời Marshall trở đi, chú trọng tới phân tích cận biên – tức là xem xét sự thay đổi
nhỏ trong các yếu tố kinh tế sẽ ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng và nhà
sản xuất ra sao. Trong phân tích giá cả, Marshall sử dụng khái niệm lợi ích cận biên
giảm dần (diminishing marginal utility) để giải thích đường cầu chi phí cận
biên tăng dần (increasing marginal cost) để giải thích đường cung.
Phân tích cân bằng tĩnh (Partial Equilibrium): Marshall áp dụng phân
tích cân bằng từng phần, tức nghiên cứu một thị trường riêng ltrong điều kiện
các yếu tố khác không đổi (ceteris paribus). Đây là phương pháp tiếp cận đặc trưng
của Tân cổ điển, khác với phương pháp hệ thống tổng thể của trường phái cổ điển.
Tính trừu tượng hóa cao: Marshall xây dựng hình với các giả định
đơn giản như người tiêu dùng trí, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá linh hoạt,
nhằm rút ra quy luật tổng quát đặc điểm điển hình của phương pháp luận Tân
cổ điển.
Kết hợp giữa lý thuyết và thực nghiệm: Mặc dù chú trọng mô hình hóa,
Marshall vẫn nhấn mạnh rằng kinh tế học một ngành của khoa học ứng dụng”,
chứ không phải khoa học thuần túy. Ông kêu gọi kết hợp giữa logic lý thuyết và
thực tiễn đời sống – tinh thần rất gần với tư tưởng đổi mới của kinh tế học sau này.
5. Nội dung bản học thuyết định lượng tiền tệ của I. Fisher. Ý nghĩa thực
tiễn của học thuyết này?
Học thuyết định lượng tiền tệ của I. Fisher – Nội dung cơ bản
Irving Fisher (1867–1947), nhà kinh tế học người Mỹ, người đã phát triển học
thuyết định lượng tiền tệ dạng hiện đại nhất vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm
kinh điển “The Purchasing Power of Money” (1911), Fisher đưa ra phương trình
trao đổi (Equation of Exchange), tả mối quan hệ giữa lượng tiền trong nền kinh
tế và mức giá chung:
MV=PTMV = PTMV=PT
Trong đó:
M là lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế;
V là tốc độ lưu thông của tiền;
P là mức giá chung;
Ttổng sản lượng giao dịch (hoặc sản lượng hàng hóa dịch vụ giao dịch
trong nền kinh tế).
Học thuyết này lập luận rằng lượng tiền trong lưu thông là yếu tố quyết định
mức giá chung, giả định rằng tốc độ lưu thông tiền tệ (V) sản lượng giao dịch
(T) là ổn định trong ngắn hạn. Từ đó, Fisher kết luận rằng:
“Nếu lượng tiền trong nền kinh tế tăng gấp đôi, trong khi V và T không đổi, thì
mức giá chung sẽ tăng gấp đôi” nghĩa lạm phát tỷ lệ thuận với tăng cung tiền.
Điều này thể hiện tưởng cốt lõi của chủ nghĩa tiền tệ cđiển: chính sách tiền
tệ (cung tiền) có ảnh hưởng quyết định đến giá cả và ổn định vĩ mô.
Ý nghĩa thực tiễn của học thuyết định lượng tiền tệ
Học thuyết của Fisher có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng chính sách tiền tệ
ổn định, đặc biệt trong kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ quản
cung tiền. Trong thực tiễn, các ngân hàng trung ương trên thế giới bao gồm cả
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn dựa trên nền tảng lý luận này để
xây dựng chính sách tiền tệ kiểm soát cung tiền hợp lý.
Tại Việt Nam, trong giai đoạn trước Đổi mới (1986), do in tiền quá mức để tài
trợ cho thâm hụt ngân sách, nền kinh tế đã từng trải qua lạm phát siêu cao, lên tới
774% năm 1986 (theo Tổng cục Thống kê). Tình trạng này chính minh chứng
tiêu biểu cho thuyết của Fisher: cung tiền tăng mạnh không đi kèm tăng sản
lượng, dẫn đến giá cả tăng vọt. Sau đó, Nhà nước Việt Nam đã áp dụng chính sách
“thắt chặt tiền tệ”, kiểm soát phát hành tiền và chi tiêu công, giúp giảm lạm phát về
còn 67,4% năm 1989 tiếp tục ổn định dần sau đó – chính ứng dụng thực tiễn
của học thuyết định lượng tiền tệ.
Trong thời kỳ hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính
sách tiền ttheo hướng chặt chẽ, linh hoạt thận trọng, gắn với mục tiêu ổn
định lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và giữ vững giá trị tiền đồng. Ví dụ,
trong năm 2023, khi lạm phát toàn cầu gia tăng do giá năng lượng lương thực,
Việt Nam vẫn duy trì được lạm phát mức dưới 4%, nhờ kiểm soát tốt tăng trưởng
tín dụng (13–14%), điều chỉnh lãi suất điều hành phợp giữ ổn định tỷ giá
những chính sách thể hiện tinh thần của học thuyết Fisher trong điều hành hiện đại.
Tuy nhiên, học thuyết này cũng một số hạn chế: giả định V T ổn
định, điều không còn đúng trong nền kinh tế hiện đại biến động mạnh về công
nghệ, nhu cầu, tốc độ chu chuyển tiền. Do đó, các học thuyết mới như chủ nghĩa
tiền tệ hiện đại (New Monetarism) hoặc thuyết của Keynes đã bổ sung thêm
yếu tố cầu tiền vai trò kỳ vọng. vậy, về nguyên lý bản mối quan h
giữa cung tiền mức giá thì lý thuyết định lượng tiền tệ của Fisher vẫn giữ giá
trị tham khảo to lớn.
6. Phân tích thuyết Keynes về vai trò điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước
vào kinh tế.
Lý thuyết Keynes vvai trò điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước vào kinh tế
được John Maynard Keynes (1883–1946) – nhà kinh tế học người Anh – xây dựng
trong tác phẩm kinh điển “The General Theory of Employment, Interest and
Money” (1936), ra đời trong bối cảnh cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929
1933.
Khác với trường phái cổ điển vốn tin rằng thị trường luôn khả năng tự điều
chỉnh đđạt trạng thái toàn dụng lao động, Keynes lập luận rằng nền kinh tế thị
trường thể rơi vào tình trạng thiếu hụt tổng cầu kéo dài, dẫn đến thất nghiệp và
suy giảm sản lượng không thể tự phục hồi. Theo ông, nguyên nhân chủ yếu
tổng cầu (bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng) không
đủ lớn để hấp thụ toàn bộ sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
Từ đó, Keynes nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết
và can thiệp vào nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ.
Về chính sách tài khóa, ông đề xuất tăng chi tiêu công và/hoặc giảm thuế
nhằm kích thích tổng cầu, nhấn mạnh đến hiệu ứng lan tỏa (multiplier
effect)chi tiêu chính phủ có thể tạo ra để thúc đẩy tiêu dùng, sản xuất
việc làm. Keynes khẳng định:
“Chính phủ thtăng chi tiêu không cần chờ đợi niềm tin vào thị trường
phục hồi” (The General Theory, Ch.10).
Về chính sách tiền tệ, Keynes đề xuất hạ lãi suất để kích thích đầu tư, song
cũng cảnh báo về giới hạn của công cụ này trong tình huống “bẫy thanh
khoản”.
Bên cạnh đó, Keynes đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết chu k
kinh tế – mở rộng chi tiêu trong suy thoái và kiềm chế cầu trong lạm phát.
Lý thuyết của ông đã tạo nên cuộc cách mạng trong tư duy kinh tế hiện đại, đặt
nền tảng cho kinh tế học ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế của
các chính phủ. Trong thực tiễn, thuyết Keynes được áp dụng hiệu quả như tại Mỹ
trong thập niên 1930 với chính sách “New Deal” của Tổng thống Roosevelt nhằm
thoát khỏi khủng hoảng.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu chịu nhiều sốc (đại dịch
COVID-19, khủng hoảng tài chính, suy giảm tăng trưởng...), tư tưởng Keynes tiếp
tục là định hướng chủ đạo cho nhiều quốc gia. Cthể, gói kích thích tài khóa khổng
lồ của Mỹ trong các năm 2020–2021 trị giá hàng ngàn tỷ USD đã giúp duy trì tiêu
dùng và bảo vệ việc làm.
Tại Việt Nam, Chính phủ cũng vận dụng tưởng Keynes trong các gói hỗ trợ
tài khóa tiền tệ như Chương trình phục hồi phát triển kinh tế hội năm
2022–2023 với tổng quy 350.000 tỷ đồng, tập trung vào đầu công, hỗ trợ
doanh nghiệp và an sinh xã hội.
Những chính sách này cho thấy thuyết Keynes vẫn giữ nguyên giá trị thực
tiễn sâu sắc trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng
trong bối cảnh hiện đại.
7. Nêu đặc điểm phương pháp luận của trường phái Keynes. Trường phái
Keynes đã mâu thuẫn kế thừa đặc điểm phương pháp luận của trường
phái Tân cổ điển như thế nào?
Trường phái Keynes, do John Maynard Keynes sáng lập với tác phẩm tiêu biểu
“The General Theory of Employment, Interest and Money” (1936), đã đánh dấu
một bước ngoặt trong phương pháp luận nghiên cứu kinh tế mô. Phương pháp
luận của trường phái Keynes có ba đặc điểm nổi bật:
(1) lấy tổng cầu làm yếu tố quyết định trình trạng việc làm sản lượng trong
ngắn hạn;
(2) tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong điều kiện thiếu toàn dụng lao
động, thay vì giả định thị trường luôn vận hành ở trạng thái cân bằng;
(3) nhấn mạnh vai trò can thiệp của Nhà nước để điều tiết chu kỳ kinh tế
thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ.
Trái với lập luận của trường phái Tân cổ điển cho rằng thị trường có thể tự điều
chỉnh thông qua chế giá, Keynes cho rằng thị trường thrơi vào trạng thái
mất cân bằng kéo dài mà không có cơ chế tự phục hồi. Đây là một mâu thuẫn căn
bản trong tư duy phương pháp luận giữa hai trường phái.
Tuy nhiên, trường phái Keynes cũng kế thừa một số yếu tố của Tân cổ điển
trong cách tiếp cận phân tích. Keynes vẫn sdụng công cụ toán học, hình hóa
kinh tế và chấp nhận nhiều giả định về hành vi duy lý, song ông điều chỉnh lại các
giả định này cho phù hợp với thực tiễn – chẳng hạn như cho rằng kỳ vọng của con
người mang tính bất định, hoặc rằng tiền lương tính cứng nhắc trong ngắn
hạn. Keynes không phủ nhận vai trò của thị trường, thay vào đó cho rằng thị
trường cần được hướng dẫn, bổ trợ bởi chính sách nhà nước trong những thời điểm
khủng hoảng. Trong Chương 24 của The General Theory, Keynes khẳng định:
“Lý thuyết cổ điển trường hợp đặc biệt... hoàn toàn không áp dụng được
trong nền kinh tế thực tiễn.”
Các học giả hiện đại như Paul Samuelson cũng nhận định trong “Kinh tế học”
(NXB McGraw-Hill, bản dịch tiếng Việt NXB Tài chính): Keynes đã phát triển
một nền kinh tế học dựa trên các quan sát thực tiễn hơn tưởng a hình
như trường phái Tân cổ điển.
Tóm lại, phương pháp luận của trường phái Keynes vừa mâu thuẫn với
thuyết thị trường tự điều tiết của Tân cổ điển, vừa kế thừa một cách chọn lọc
các công cụ phân tích hiện đại để tạo nên nền tảng cho kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Tư tưởng này tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế của các quốc gia
cho đến ngày nay.
8. Trình bày lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang
Đức? Thành tựu và hạn chế của lý thuyết này?
thuyết về nền kinh tế thị trường hội (Soziale Marktwirtschaft)
hình kinh tế đặc trưng của Cộng hòa Liên bang Đức sau Thế chiến thứ hai, do nhà
kinh tế học chính trị gia Ludwig Erhard Bộ trưởng Kinh tế và sau nàyThủ
tướng Đức phát triển trên sở kết hợp giữa chế thị trường tự do chính
sách xã hội của Nhà nước. Lý thuyết này ra đời vào cuối thập niên 1940 và được
thể chế hóa trong Hiến pháp Đức (Luật bản năm 1949), với mục tiêu xây dựng
một nền kinh tế hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Theo giáo trình “Kinh tế học chính trị Mác - Lênin” (NXB Chính trị Quốc gia
Sự thật, 2019), nền kinh tế thị trường xã hội được xây dựng trên nền tảng các quy
luật thị trường, nhưng Nhà nước giữ vai trò bảo vệ cạnh tranh, kiểm soát độc
quyền, bảo đảm ổn định tiền tệ thực hiện các chính sách phúc lợi hội
nhằm hạn chế bất bình đẳng bảo vệ người lao động. hình này chịu ảnh hưởng
từ tư tưởng của trường phái Freiburg (Kinh tế học trật tự –
Ordoliberalism), trong đó nhấn mạnh rằng thị trường chỉ phát huy hiệu quả khi
được Nhà nước tạo lập khung pháp lý và giám sát cạnh tranh công bằng.
Thành tựu của lý thuyết này
Nền kinh tế thị trường hội đã mang lại “phép màu kinh tế Đức”
(Wirtschaftswunder) trong những thập niên 1950–1960. Dưới sự điều hành của
Ludwig Erhard, nước Đức Tây phát triển thần tốc, phục hồi mạnh mẽ sau chiến
tranh, duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao (trên 8%/năm vào đầu thập niên 1960),
đạt được mức sống cao cho người dân. Theo sách “Comparative Economic
Systems” của Gregory & Stuart (2014), hình này giúp Đức kết hợp được hiệu
quả của thị trường với phân phối thu nhập hợp thông qua các chính sách
phúc lợi hội toàn diện như bảo hiểm y tế, giáo dục miễn phí, hỗ trợ thất nghiệp
và hưu trí.
Ngoài ra, hình kinh tế thị trường xã hội còn được các quốc gia châu Âu khác
(như Áo, Thụy Điển, Lan) học tập và áp dụng, trở thành nền tảng cho nhà nước
phúc lợi kiểu châu Âu (European social welfare model).
Hạn chế của lý thuyết này
thành công trong thời kỳ hậu chiến, mô hình kinh tế thị trường hội cũng
bộc lmột số hạn chế. Thứ nhất, chi phí cho các chính sách phúc lợi ngày càng lớn
tạo áp lực lên ngân sách nhà nước hệ thống thuế. Thứ hai, khi toàn cầu hóa gia
tăng và cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn, hình này gặp khó khăn trong duy trì
hiệu quả nếu không cải cách linh hoạt. Trong những năm 1990–2000, Đức phải
thực hiện hàng loạt cải cách phúc lợi (Chương trình Hartz) để giảm gánh nặng chi
tiêu công và thúc đẩy lao động.
Theo Wolfgang Streeck nhà hội học chính trị Đức trong sách “Buying
Time: The Delayed Crisis of Democratic Capitalism” (2014), hình kinh tế thị
trường hội đang đối mặt với thách thức từ già hóa dân số, nợ công áp lực
cắt giảm phúc lợi, khiến các nguyên cốt lõi của thuyết này bị lung lay phần
nào trong thế kỷ XXI.
Tóm lại, thuyết về nền kinh tế thị trường hội một hình “lai ghép” độc
đáo giữa thị trường tự do và chính sách xã hội có điều tiết, phản ánh tư tưởng dung
hòa giữa chủ nghĩa bản tự do nhà nước phúc lợi. Mặc hình này mang
lại những thành tựu vượt bậc cho Đức trong thế kỷ XX, nhưng cũng cần điều chỉnh
để thích ứng với các thay đổi trong môi trường kinh tế toàn cầu hiện nay.
9. Phân tích nội dung bản của thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.
Samuelson. Liên hệ thực tế việc vận dụng thuyết này Việt Nam hiện
nay.
thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” (mixed economy) một nội dung quan trọng
trong tư tưởng kinh tế học hiện đại do Paul A. Samuelson nhà kinh tế học người
Mỹ, người đầu tiên giành giải Nobel Kinh tế (1970) – phát triển trong tác phẩm nổi
tiếng “Economics” (1958, nhiều lần tái bản được sử dụng rộng rãi Việt Nam
dưới tên “Kinh tế học” NXB Tài chính). Theo Samuelson, nền kinh tế hiện đại
không thể thuần túy là kinh tế thị trường tự do hay kế hoạch hóa tập trung, mà cần
phải kết hợp hai yếu tố này để tận dụng ưu thế của cả thị trường lẫn Nhà nước. Nền
kinh tế hỗn hợp là một mô hình trong đó các quyết định phân bổ tài nguyên được
thực hiện phần lớn bởi thị trường tự do, nhưng Nhà nước giữ vai trò chủ động
trong điều tiết, kiểm soát cung ứng hàng hóa công cộng nhằm khắc phục
những thất bại của thị trường nđộc quyền, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng
hội, và thiếu đầu tư cho các lĩnh vực phi lợi nhuận như giáo dục, y tế.
Trong “Kinh tế học”, Samuelson khẳng định rằng:
“Không có nền kinh tế hoàn toàn thị trường hay hoàn toàn kế hoạch nào có thể
vận hành hiệu quả trong thực tiễn. Chỉ skết hợp linh hoạt giữa hai khuynh
hướng này mới đảm bảo tăng trưởng đi kèm với ổn định và công bằng.”
Ông cho rằng vai trò của Nhà nước không chỉ là “người canh gác ban đêm” như
trong chủ nghĩa tự do cổ điển, còn “người kiến tạo thị trường” (market maker)
– thông qua chính sách tài khóa, tiền tệ, trợ cấp, kiểm soát giá, và quy định pháp lý.
hình kinh tế hỗn hợp vậy phản ánh sự tổng hợp giữa tưởng Keynes về
can thiệp của Nhà nước chế thị trường cạnh tranh của trường phái Tân
cổ điển.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Tại Việt Nam, quan điểm về nền kinh tế hỗn hợp được thể hiện rõ trong đường
lối phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Theo Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Việt Nam tiếp tục “phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế cùng phát triển”, đồng thời nhấn mạnh “vai trò quản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Thực tế cho thấy Việt Nam đã áp dụng thuyết nền kinh tế hỗn hợp một cách
linh hoạt:
- Khu vực nhân được thừa nhận động lực quan trọng của tăng trưởng
(Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020).
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt, như năng
lượng, tài chính, cơ sở hạ tầng.
- Chính phủ thực hiện nhiều chính sách điều tiết thị trường: trợ giá xăng
dầu, bình ổn giá lương thực, kiểm soát thị trường bất động sản, điều
hành chính sách tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước.
- Các chính sách an sinh xã hội nbảo hiểm y tế toàn dân, chương trình
mục tiêu giảm nghèo bền vững, và đầu tư vào giáo dục - y tế thể hiện vai
trò kiến tạo phát triển của Nhà nước.
Đặc biệt trong giai đoạn ứng phó với đại dịch COVID-19 (2020–2022), Việt
Nam đã cho thấy tính chất hỗn hợp của hình kinh tế: vừa duy trì hoạt động
thị trường, vừa tăng cường can thiệp nhà nước thông qua các gói hỗ trợ tài khóa,
miễn giảm thuế, bảo đảm an sinh xã hội và kiểm soát chuỗi cung ứng.
Tóm lại, thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Paul Samuelson phản ánh một
phương pháp tiếp cận cân bằng giữa thị trường và Nhà nước, giữa hiệu quả và công
bằng. hình này không chỉ ý nghĩa luận sâu sắc còn được vận dụng thực
tiễn hiệu quả trong quá trình cải cách, hội nhập và phát triển bền vững của Việt
Nam hiện nay.
10. Trình bày nội dung bản của thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất
sự lựa chọn” của P. Samuelson. Liên hệ thực tế bản thân anh (chị) để làm
rõ nội dung trên.
thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn” (Production
Possibility Frontier PPF) một trong những nội dung bản Paul A.
Samuelson trình bày trong tác phẩm nổi tiếng “Kinh tế học” (Economics, nhiều lần
tái bản, bản tiếng Việt: NXB Tài chính, 2010). Lý thuyết này minh họa mối quan h
giữa sự khan hiếm nguồn lực, chi phí cơ hội, và sự lựa chọn kinh tế mọi
nhân hay xã hội phải đối mặt.
Theo Samuelson, đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) biểu diễn tập hợp
các phương án sản xuất hiệu quả nhất của một nền kinh tế, với giả định rằng các
nguồn lực được sử dụng toàn bộ và hiệu quả. Nếu nền kinh tế muốn tăng sản lượng
của một loại hàng hóa thì buộc phải hy sinh sản lượng của loại hàng hóa khác,
do nguồn lực có hạn – đó chính chi phí cơ hội.
Trong sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” (Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, NXB Lao động – Xã hội, 2016), lý thuyết này được xem là biểu tượng cho
duy lựa chọn trong kinh tế học hiện đại, giúp người học hình dung rằng không
có gì là miễn phí mọi quyết định đều đi kèm đánh đổi.
Ví dụ trong thực tiễn bản thân
Lý thuyết này có thể liên hệ rõ nét trong lựa chọn cá nhân. Chẳng hạn, bản thân
tôi khi đang sinh viên năm cuối phải đưa ra quyết định giữa việc dành toàn thời
gian cho học tập để đạt kết quả cao nhất, hay chấp nhận phân bổ thời gian để
đi làm thêm, ch lũy kinh nghiệm và thu nhập. Nếu tôi dành 100% thời gian cho
học tập, thể đạt được GPA xuất sắc, nhưng sẽ thiếu kỹ năng thực tiễn. Ngược lại,
nếu dành nhiều thời gian đi làm thêm, tôi có thêm trải nghiệm và tài chính, nhưng
GPA có thể bị ảnh hưởng.
Quyết định tối ưu của tôi phân bổ hợp thời gian học tập hiệu quả kết
hợp với một công việc bán thời gian phù hợp. Điều này giống như một điểm nằm
trên đường PPF, phản ánh sự cân bằng giữa hai mục tiêu: học tập và làm việc.
Tóm lại, thuyết về giới hạn khả năng sản xuất sự lựa chọn của P. Samuelson
giúp chúng ta hiểu rằng trong bối cảnh tài nguyên khan hiếm, mọi nhân quốc
gia đều phải lựa chọn giữa các phương án sử dụng nguồn lực khác nhau
mỗi sự lựa chọn luôn gắn liền với chi phí cơ hội. Việc nhận thức đúng đắn về điều
này giúp nâng cao khả năng ra quyết định kinh tế hợp lý và hiệu quả, không chỉ
ở cấp vĩ mô mà còn trong quản lý thời gian, tài chính và mục tiêu cá nhân.
11.Tại sao trong nền kinh tế vận động theo chế thị trường, nhà nước lại phải
can thiệp vào kinh tế?
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các quyết định sản xuất, tiêu
dùng phân phối tài nguyên chủ yếu được xác định bởi quan hệ cung – cầu và giá
cả. Tuy nhiên, thị trường không phải lúc nào cũng hoạt động một cách hoàn
hảo, thực tế cho thấy thường dẫn đến những thất bại thị trường (market
failures) nđộc quyền, ô nhiễm môi trường, thiếu hàng hóa công cộng, bất bình
đẳng xã hội và chu kỳ kinh tế bất ổn. Chính vì vậy, Nhà nước cần thiết phải can
thiệp vào nền kinh tế nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó bảo đảm phát
triển bền vững.
Theo sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
NXB Lao động – Xã hội, 2016), John Maynard Keynesngười đầu tiên lý luận
một cách hệ thống về sự cần thiết của vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Trong “The General Theory of Employment, Interest and Money” (1936),
ông cho rằng thị trường không tự điều tiết được để đạt toàn dụng lao động, nếu
để mặc, nó có thể rơi vào suy thoái kéo dài. Keynes nhấn mạnh:
“Thị trường thể không tự phục hồi; do đó, cần một bàn tay hữu hình Nhà
nước để can thiệp thông qua chi tiêu công và chính sách tài khóa.”
Các học thuyết kinh tế hiện đại tiếp tục phát triển quan điểm này. Paul
Samuelson trong sách “Economics” (NXB Tài chính, bản dịch tiếng Việt) cũng chỉ
ra rằng: Nhà nước cần can thiệp để ổn định kinh tế , phân phối lại thu nhập,
bảo vệ môi trường, hỗ trợ ngành yếu thế bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh.
Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
Tại Việt Nam, đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa, vai trò can thiệp của Nhà nước vẫn rất rõ rệt và cần thiết:
- Ổn định mô: Nhà nước thông qua Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chính sách tiền tệ thận trọng để kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá (đặc
biệt giai đoạn sau COVID-19 và trong khủng hoảng tài chính toàn cầu).
- An sinh xã hội: Nhà nước triển khai các chương trình bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, chương trình giảm nghèo bền vững và hỗ trợ vùng sâu vùng
xa – phản ánh vai trò phân phối lại thu nhập.
- Quản khủng hoảng: Trong đại dịch COVID-19 (2020–2022), N
nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (giãn thuế, miễn tiền
thuê đất, gói hỗ trợ tài khóa 350.000 tỷ đồng), can thiệp mạnh vào điều
phối sản xuất – lưu thông – tiêm chủng.
- Chống độc quyền điều tiết thị trường: Việt Nam Luật Cạnh tranh,
Luật Giá các chính sách bình ổn giá xăng dầu, thực phẩm, y tế cho
thấy vai trò quản lý thị trường của Nhà nước.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước là điều kiện
tất yếu để khắc phục thất bại thị trường, đảm bảo sự ổn định phát triển công bằng.
Cả lý luận kinh tế học từ Keynes đến Samuelson, thực tiễn tại Việt Nam đều
cho thấy vai trò tích cực, không thể thiếu của Nhà nước trong nền kinh tế hiện
đại.
12.Phân biệt tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế. Phân tích mối quan hệ
giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội?
Phân biệt tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
Trong sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
NXB Lao động – Xã hội, 2016), các nhà kinh tế học đã chỉ rõ tăng trưởng kinh tế
phát triển kinh tế tuy liên quan chặt chẽ với nhau nhưng hai khái niệm
không đồng nhất.
- Tăng trưởng kinh tếsự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh
tế trong một khoảng thời gian nhất định, thường được đo bằng tốc độ
tăng GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) hoặc GNP (Tổng sản phẩm quốc
dân). Đây là khái niệm định lượng, phản ánh kết quả hoạt động kinh tế
thuần túy. Ví dụ, nếu GDP năm sau cao hơn năm trước, ta nói nền kinh tế
có tăng trưởng.
- Phát triển kinh tế một quá trình tổng thể toàn diện, không chỉ
bao gồm tăng trưởng kinh tế còn đi kèm với những thay đổi ch cực
về mặt cơ cấu kinh tế, chất lượng sống, công bằng xã hội, giáo dục, y
tế, môi trường và phúc lợi con người. Nó là khái niệm định tính, phản
ánh chiều sâu và chất lượng phát triển.
Các nhà kinh tế học hiện đại như A. Sen và Todaro đều nhấn mạnh rằng:
“Tăng trưởng cần thiết nhưng không đủ cho phát triển” (trích: Michael
Todaro, Economic Development bản dịch Kinh tế Phát triển, NXB Đại học Kinh
tế Quốc dân, 2015).
Mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội
Từ góc nhìn của các học thuyết kinh tế hiện đại (Keynes, Samuelson, Sen), tăng
trưởng và phát triển là hai mặt của một quá trình, trong đó:
- Tăng trưởng nền tảng: Một quốc gia không thể phát triển bền vững
nếu không tăng trưởng kinh tế. Việc tăng thu nhập quốc dân giúp nâng
cao nguồn lực tài chính để đầu cho y tế, giáo dục, sở hạ tầng phúc
lợi xã hội.
- Phát triển là mục tiêu: Tăng trưởng chỉ ý nghĩa khi nó được phân bổ
hợp cải thiện chất lượng sống của người dân. Nếu tăng trưởng
không đi kèm phát triển (ví dụ, chỉ số GDP tăng nhưng ô nhiễm, chênh
lệch giàu nghèo, và tham nhũng cũng tăng), thì đó là sự phát triển không
bền vững.
- Tiến bộ hội kết quả tưởng nhất của quá trình phát triển**, thể
hiện ở việc đảm bảo công bằng, dân chủ, bình đẳng giới, nâng cao chỉ s
phát triển con người (HDI), bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Ví dụ thực tiễn từ Việt Nam
Việt Nam trong 30 năm Đổi mới đã đạt được ng trưởng kinh tế ấn tượng,
với GDP bình quân đầu người tăng mạnh (theo số liệu WB, từ dưới 100 USD năm
1986 lên hơn 4.300 USD năm 2023). Tuy nhiên, Nhà nước luôn xác định rõ: phát
triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, thể hiện qua:
- Chính sách phát triển giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, giảm nghèo đa
chiều.
- Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
- Cam kết quốc tế về phát triển bền vững (SDGs) và bảo vệ môi trường.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, nhưng phát triển kinh tế và tiến bộ
xã hội mới là mục tiêu tối thượng. Các học thuyết kinh tế hiện đại đều nhấn mạnh
vai ttích cực của Nhà nước trong việc hướng dòng tăng trưởng vào phục vụ
con người, đảm bảo phát triển toàn diện và bền vững.
13.Phân tích nội dung lý thuyết cất cánh của W. Rostow, thông qua đó hãy xác
định trình độ nền kinh tế nước ta đang giai đoạn nào? Giới thiệu về
thuyết cất cánh của W. W. Rostow
Walt Whitman Rostow là một nhà kinh tế học người Mỹ nổi tiếng với lý thuyết
về các giai đoạn phát triển kinh tế được trình bày trong tác phẩm “The Stages of
Economic Growth: A Non-Communist Manifesto” (1960). Ông cho rằng mọi quốc
gia, xuất phát điểm khác nhau, đều thể phát triển theo một chuỗi tiến hóa gồm
năm giai đoạn. Trong đó, giai đoạn “cất cánh” (take-off) trung tâm, đánh dấu sự
chuyển mình của nền kinh tế ttrạng thái trì trệ sang giai đoạn tăng trưởng mạnh
mẽ và bền vững.
Năm giai đoạn phát triển kinh tế theo Rostow
Rostow chia quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thành 5 giai đoạn cụ
thể:
- Giai đoạn 1 hội truyền thống: Nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông
nghiệp, sử dụng kỹ thuật thô sơ, năng suất lao động thấp, hội ít biến
động.
- Giai đoạn 2 Điều kiện tiền cất cánh: Xuất hiện các cải cách trong tổ
chức hội, tích lũy vốn ban đầu tăng, đầu vào sở hạ tầng giáo
dục được đẩy mạnh.
- Giai đoạn 3 – Cất cánh: Là giai đoạn bùng nổ tăng trưởng. Tỷ lệ đầu tư
đạt trên 10% GDP, công nghiệp phát triển nhanh, các thể chế hỗ trợ thị
trường được củng cố.
- Giai đoạn 4 – Tiến tới trưởng thành: Kinh tế công nghiệp hóa mạnh, cơ
cấu xuất khẩu đa dạng hóa, trình độ kỹ thuật – công nghệ nâng cao.
- Giai đoạn 5 – Thời kỳ tiêu dùng đại trà: Thu nhập cao, tầng lớp trung
lưu mở rộng, dịch vphát triển vượt bậc, đời sống vật chất tinh thần
phong phú.
Việt Nam đang ở giai đoạn nào trong lý thuyết của Rostow?
Dựa vào lý thuyết của Rostow và tình hình thực tế, có thể nhận định Việt Nam
đang trong giai đoạn cất cánh. Bắt đầu từ công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt
Nam đã thực hiện hàng loạt cải cách vthể chế, chính sách kinh tế mở cửa thị
trường. Những thay đổi này đã đưa Việt Nam từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đây chính bước chuyển từ giai đoạn
tiền cất cánh sang cất cánh.
Cơ sở xác định Việt Nam đang ở giai đoạn cất cánh
Nhiều bằng chứng thực tiễn cho thấy Việt Nam đã và đang ở trong giai đoạn cất
cánh:
- Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6–7%/năm trong hơn 20 năm qua.
- Tỷ lệ đầu toàn hội luôn mức cao, thường xuyên trên 30% GDP
(theo Tng cục Thống kê).
- Xuất khẩu công nghiệp, đặc biệt là điện tử, máy móc, dệt may tăng mạnh,
thay thế vai trò xuất khẩu tài nguyên.
- Quá trình chuyển dịch cấu kinh tế diễn ra rệt: giảm tỷ trọng nông
nghiệp, tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ.
- Môi trường đầu kinh doanh ngày càng minh bạch, chính phủ thúc
đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa đạt đến giai đoạn “trưởng thành”
có nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn còn nhiều yếu tố chưa đạt chuẩn của giai
đoạn “tiến tới trưởng thành”:
- Mức thu nhập bình quân đầu người còn ở nhóm trung bình thấp.
- Năng suất lao động và tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất còn thấp.
- Phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
- Hệ thống đổi mới công nghệ nội địa còn yếu, công nghiệp htrợ chưa
phát triển.
Kết luận
Lý thuyết “cất cánh” của W.W. Rostow giúp hình dung được lộ trình phát triển
kinh tế của một quốc gia. Qua phân tích thực tiễn, thể thấy Việt Nam đang trong
giai đoạn cất cánh, với tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực
và hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, để tiến tới giai đoạn “trưởng
thành”, Việt Nam cần tập trung hơn nữa vào chất lượng tăng trưởng, đổi mới sáng
tạo, nâng cao năng suất và cải thiện thể chế phát triển.
14.Phân tích thuyết về Vòng luẩn quẩn” huých từ bên ngoài” đối
với sự tăng trưởng kinh tế các nước đang phát triển. Việt Nam đã vận
dụng lý thuyết này như thế nào?
thuyết “vòng luẩn quẩn của đói nghèo” thuyết “vòng luẩn quẩn của
đói nghèo” được phát triển bởi các nhà kinh tế học như Ragnar Nurkse Paul
Rosenstein-Rodan. Họ cho rằng các nước nghèo thường bị mắc kẹt trong một chuỗi
các yếu tố kinh tế tiêu cực liên quan chặt chẽ với nhau, khiến quốc gia đó không thể
tự mình phát triển. Cụ thể, thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, năng
suất thấp, cuối cùng lại trở về thu nhập thấp tạo thành một vòng luẩn quẩn
không lối thoát. Cả từ phía cung (thiếu vốn, công nghệ) và phía cầu (sức mua yếu,
thị trường nhỏ), các quốc gia này đều gặp trở ngại trong việc phát triển.
thuyết “cú huých từ bên ngoài(Big Push Theory) Paul RosensteinRodan
cũng là người đưa ra lý thuyết “cú huých từ bên ngoài”, còn gọi là Big Push. Theo
thuyết này, các nước đang phát triển muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn phải một
lực đẩy mạnh mẽ từ bên ngoài hoặc từ cải cách nội bộ có tính hệ thống. “Cú huých”
này thể đầu lớn từ nhà nước hoặc nước ngoài, cải cách thể chế, hoặc các
chính sách tổng thể hỗ trợ công nghiệp hóa và phát triển hạ tầng. Ý tưởng cốt lõi là
phải thực hiện các thay đổi mang tính đồng bộ và quy lớn, vì nếu chỉ cải thiện
nhỏ lẻ thì sẽ không đủ để vượt qua rào cản phát triển.
Thực trạng vòng luẩn quẩn ở Việt Nam trước Đổi mới Trước năm 1986, nền
kinh tế Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của một quốc gia đang mắc kẹt trong vòng
luẩn quẩn”. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp, năng suất lao động
thấp, kỹ thuật lạc hậu. Chính sách bao cấp kìm hãm động lực sản xuất, người dân
thiếu vốn, không thể tích lũy để đầu tư, dẫn tới nền kinh tế ttrệ, đời sống k
khăn. Việt Nam không thể tự tạo ra đà phát triển chỉ loay hoay trong cơ chế tự
duy trì nghèo đói điển hình cho cái Nurkse gọi là vòng luẩn quẩn của đói
nghèo.
Đổi mới 1986 huých phá vỡ vòng luẩn quẩn Bước ngoặt lịch sử chính
sách Đổi mới năm 1986. Đây chính là “cú huých lớn” của Việt Nam, gồm cải cách
thể chế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước mở cửa thu hút đầu nước ngoài (FDI), đẩy mạnh xuất khẩu,
tiếp cận nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), cải tổ mạnh mẽ hệ thống
quản lý kinh tế. Bên cạnh đó, Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại tự do, hội
nhập sâu với khu vực thế giới tạo điều kiện cho dòng vốn, công nghệ thị
trường quốc tế chảy vào, kích thích tăng trưởng.
Kết quả và ý nghĩa thực tiễn Nhờ “cú huých” từ Đổi mới, Việt Nam đã thoát
ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế
giới, thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD vào cuối những năm 1980, đến
năm 2023 Việt Nam đã đạt mức trên 4.300 USD (theo WB). Tỷ lệ nghèo đói giảm
mạnh, cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng từ nông nghiệp sang công nghiệp
dịch vụ. Hạ tầng, giáo dục, y tế và công nghệ đều được cải thiện rệt. Thực tiễn
phát triển của Việt Nam minh chứng điển hình cho sự thành công khi vận dụng
đúng lý thuyết về “cú huých” để phá vỡ vòng luẩn quẩn kinh tế.
15.Từ nội dung lý thuyết về mô hình kinh tế nhị nguyên của Athur Lewis, hãy
liên hệ thực tiễn đối với những trở ngại về lao động, việc làm ở nước ta
đưa ra giải pháp khắc phục?
hình kinh tế nhị nguyên của Arthur Lewis, được trình bày trong công trình
kinh điển “Phát triển kinh tế với nguồn lao động hạn” (1954), là một thuyết
tầm ảnh hưởng lớn trong kinh tế học phát triển. Lewis cho rằng các quốc gia
đang phát triển thường tồn tại song song hai khu vực kinh tế: khu vực truyền thống
(nông nghiệp, nông thôn) với năng suất lao động thấp và tình trạng dư thừa lao
động; và khu vực hiện đại (công nghiệp, đô thị) có năng suất cao hơn và khả năng
tích lũy vốn mạnh hơn. Theo ông, động lực phát triển kinh tế nằm ở quá trình dịch
chuyển lao động từ khu vực truyền thống sang khu vực hiện đại, qua đó giúp nâng
cao năng suất toàn hội, tăng tích lũy thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Tuy nhiên,
quá trình này không diễn ra tự nhiên mà cần có sự dẫn dắt của chính sách ng, đầu
tư và phát triển hạ tầng đồng bộ.
Thực tiễn Việt Nam cho thấy mô hình của Lewis vẫn mang tính thời sự sâu sắc.
đã nhiều tiến bộ trong công nghiệp hóa, tính đến năm 2023, vẫn còn gần 30%
lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp – nhưng chỉ đóng
góp khoảng 11–13% GDP, phản ánh tình trạng năng suất thấp sử dụng lao
động chưa hiệu quả (Tổng cục Thống kê). Trong khi đó, khu vực công nghiệp
dịch vụ chưa đsức hấp thụ lực lượng lao động dư thừa do hạn chế vnăng lực đào
tạo, knăng lao động còn yếu, và thiếu sự kết nối giữa cung cầu lao động. Bên
cạnh đó, dòng di cư từ nông thôn ra đô thị phát triển nhanh nhưng thiếu quy hoạch,
khiến nhiều lao động rơi vào khu vực phi chính thức, không được bảo vệ bởi hệ
thống an sinh xã hội. Điều này không chỉ phản ánh nh chất “nhị nguyên” mà còn
cho thấy sự mất cân đối ngày càng lớn giữa hai khu vực.
Để tháo gỡ những rào cản trên, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa nông thôn không chỉ nhằm tạo ra việc làm
còn đđịnh hướng lại hình phát triển dựa trên năng suất. Việc phát triển các
cụm công nghiệp vệ tinh, đô thị hóa nông thôn và đầu tư vào kết nối hạ tầng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để dịch chuyển lao động tổ chức. Đng thời, cần đầu mạnh
mẽ vào giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng số và khởi nghiệp sáng tạo, nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. Về mặt thể
chế, cải cách thị trường lao động, mở rộng hệ thống bảo hiểm an sinh cho lao
động di cư là chìa khóa để bảo vệ lực lượng lao động yếu thế từ đó thúc đẩy quá
trình dịch chuyển lao động theo đúng logic của Lewis: hiệu quả, bền vững mang
lại thịnh vượng chung.
Tóm lại, mô hình kinh tế nhị nguyên của Arthur Lewis không chỉ cung cấp một
khung thuyết sắc bén để phân tích vấn đề lao động việc làm, còn gợi mở
các giải pháp thực tiễn cho Việt Nam trong tiến trình công nghiệp a, hiện đại hóa
phát triển kinh tế bao trùm. Việc vận dụng hiệu quả hình này sẽ góp phần
đưa Việt Nam thoát khỏi những điểm nghẽn cấu, nâng cao chất lượng ng trưởng
và tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao trong tương
lai.
16.Các nước đang phát triển có những đặc trưng cơ bản gì? Những đặc trưng
đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước này như
thế nào? Liên hệ với Việt Nam.
Trong Lịch sử các học thuyết kinh tế, các học giả phát triển luận điểm rằng các
nước đang phát triển (Developing Countries) những đặc trưng cấu trúc mang tính
hệ thống – không chỉ phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội thấp, còn góp

Preview text:

LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
1. Trình bày nội dung của học thuyết về bàn tay vô hình của A. Smith. Học thuyết
này có vai trò như thế nào trong hệ thống học thuyết kinh tế tư sản hiện đại?
Học thuyết “bàn tay vô hình” là một trong những đóng góp quan trọng và nổi
bật nhất của Adam Smith – nhà kinh tế học người Scotland, được trình bày trong
tác phẩm kinh điển “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations”
xuất bản năm 1776. Trong học thuyết này, Adam Smith cho rằng mỗi cá
nhân khi theo đuổi lợi ích cá nhân của mình sẽ “vô tình” góp phần thúc đẩy lợi ích
của toàn xã hội, như thể được dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình”. Ông viết: “Mỗi cá
nhân luôn nỗ lực sử dụng vốn của mình để tạo ra giá trị lớn nhất… Trong khi chỉ
mưu cầu lợi ích cá nhân, người ấy lại vô tình được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình
để thúc đẩy lợi ích cộng đồng” (Smith, 1776, Quyển IV, Chương II). Theo đó, Smith
cho rằng nếu thị trường được vận hành trong môi trường tự do cạnh tranh, không bị
can thiệp mạnh mẽ từ chính phủ, thì các lực lượng cung – cầu sẽ tự điều chỉnh để
phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. Người sản xuất sẽ chạy theo lợi nhuận, nhưng để
làm được điều đó, họ buộc phải đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó lợi
ích chung sẽ được đảm bảo. Cơ chế thị trường khi đó sẽ trở thành một hệ thống tự
điều chỉnh tối ưu mà không cần bàn tay kiểm soát trung ương.
Với vai trò nền tảng trong lịch sử tư tưởng kinh tế, học thuyết “bàn tay vô hình”
đã trở thành cơ sở lý luận quan trọng cho chủ nghĩa tư bản cổ điển và tiếp tục ảnh
hưởng sâu rộng đến các trường phái kinh tế tư sản hiện đại. Trường phái kinh tế học
cổ điển, với các đại diện như David Ricardo và Jean-Baptiste Say, kế thừa và phát
triển tư tưởng tự do cạnh tranh và thị trường tự điều tiết của Adam Smith. Sau đó,
đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nhà kinh tế học thuộc trường
phái tân cổ điển như Alfred Marshall đã mở rộng thêm các mô hình cung – cầu, chi
phí cận biên dựa trên nền tảng tư tưởng về “bàn tay vô hình”. Đặc biệt, trong thế kỷ
XX, tư tưởng của Smith còn được phục hưng mạnh mẽ bởi các nhà tư tưởng tân tự
do như Friedrich Hayek và Milton Friedman. Hayek từng nhấn mạnh rằng: “Adam
Smith đã đúng khi tin rằng trật tự kinh tế có thể phát sinh mà không cần thiết kế
trung tâm” (The Road to Serfdom, 1944). Những nguyên lý của học thuyết “bàn tay
vô hình” đã trở thành cơ sở lý luận cho các chính sách tự do hóa thương mại, tư
nhân hóa, giảm thuế và thu hẹp vai trò nhà nước – đặc trưng của kinh tế học tân tự
do trong giai đoạn toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, nhiều hiện tượng
tiêu cực như độc quyền, khủng hoảng tài chính, ô nhiễm môi trường và bất bình
đẳng thu nhập đã bộc lộ những giới hạn của cơ chế thị trường hoàn toàn tự do. Các
nhà kinh tế học như John Maynard Keynes đã chỉ ra rằng thị trường không phải lúc
nào cũng tự điều chỉnh hiệu quả, và trong nhiều tình huống, nhà nước cần có vai trò
điều tiết vĩ mô để ổn định kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Từ đó, tư tưởng “bàn
tay vô hình” được tiếp cận lại theo hướng mềm dẻo hơn, kết hợp giữa thị trường và
sự can thiệp hợp lý của nhà nước. Dù vậy, học thuyết của Adam Smith vẫn giữ một
vị trí đặc biệt trong lịch sử tư tưởng kinh tế, là nền tảng để hiểu rõ bản chất và động
lực của nền kinh tế thị trường.
2. Phân tích lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo và ý nghĩa thực tiễn của lý
thuyết này trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam hiện nay.
Lý thuyết lợi thế so sánh (comparative advantage) do David Ricardo xây dựng
trong tác phẩm “Principles of Political Economy and Taxation” (1817) là một trong
những lý thuyết nền tảng của thương mại quốc tế. Khác với lý thuyết lợi thế tuyệt
đối của Adam Smith, Ricardo lập luận rằng ngay cả khi một quốc gia kém hiệu quả
hơn trong mọi lĩnh vực so với quốc gia khác, thì hai bên vẫn có thể cùng có lợi từ
thương mại nếu mỗi nước chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng mà họ có chi
phí cơ hội thấp hơn
, tức là có lợi thế so sánh. Trong ví dụ nổi tiếng của ông, Bồ
Đào Nha có thể sản xuất cả rượu vang và vải hiệu quả hơn Anh, nhưng nếu Bồ Đào
Nha chuyên sản xuất rượu vang – nơi họ vượt trội hơn rõ rệt – và Anh sản xuất vải,
thì cả hai sẽ hưởng lợi khi trao đổi hàng hóa. Ricardo chứng minh rằng thương mại
không cần sự vượt trội tuyệt đối, mà cần sự chênh lệch tương đối trong năng suất
và chi phí. Lý thuyết này hiện vẫn là cơ sở lý luận được giảng dạy rộng rãi trong
các giáo trình kinh tế quốc tế hiện đại như:
Paul Krugman & Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and
Policy, 10th edition, Pearson Education, 2014 – chương 3: “Comparative
Advantage and the Gains from Trade”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, lý thuyết lợi
thế so sánh vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn, đặc biệt đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam. Việt Nam là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, chi phí thấp,
tài nguyên thiên nhiên phong phú, và do đó đã xây dựng được lợi thế so sánh trong
một số ngành sản xuất thâm dụng lao động và tài nguyên, chẳng hạn như: dệt
may, da giày, thủy sản, gỗ và nông sản chế biến
. Theo số liệu từ Tổng cục Hải
quan Việt Nam, trong năm 2023, xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 44 tỷ USD, trong
đó chủ yếu xuất sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản – những quốc gia có chi phí
lao động cao và ít sản xuất các mặt hàng này. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc
Việt Nam tận dụng lợi thế so sánh của mình để phục vụ thị trường toàn cầu.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cao từ
các nước phát triển như Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc – nơi có lợi thế so sánh về
công nghệ và kỹ thuật. Chính sự trao đổi này đã giúp Việt Nam tích hợp vào chuỗi
giá trị toàn cầu
. Một ví dụ điển hình là lĩnh vực điện tử: Việt Nam hiện là một
trong những quốc gia xuất khẩu điện thoại di động lớn nhất thế giới, với sản phẩm
chủ lực là điện thoại Samsung – được lắp ráp tại Việt Nam, sử dụng linh kiện nhập
từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Điều này cho thấy mỗi quốc gia đang khai
thác lợi thế so sánh của mình trong chuỗi sản xuất toàn cầu
, đúng với tinh thần của Ricardo.
Không chỉ dừng lại ở xuất nhập khẩu hàng hóa, Việt Nam còn tham gia nhiều
hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA, RCEP, mở rộng không gian thị
trường và tạo điều kiện cho các ngành có lợi thế so sánh phát triển. Theo Báo cáo
từ Bộ Công Thương (2024), việc thực thi EVFTA đã giúp kim ngạch xuất khẩu
sang EU tăng 14,2% trong năm 2023
, đặc biệt là các ngành nông – thủy sản, dệt
may và đồ gỗ. Tuy nhiên, trong dài hạn, lợi thế so sánh tĩnh (lao động rẻ, tài
nguyên) có thể suy giảm do chi phí tăng, cạnh tranh khu vực gay gắt và biến động
công nghệ. Vì vậy, Việt Nam cần hướng tới lợi thế so sánh động bằng cách đầu tư
vào giáo dục, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và cải thiện thể chế – để tạo
ra giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Như vậy, có thể khẳng định rằng lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
không chỉ mang giá trị lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với Việt
Nam trong chiến lược thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tận dụng
và nâng cấp lợi thế so sánh sẽ giúp Việt Nam không chỉ xuất khẩu nhiều hơn, mà
còn tham gia vào những khâu có giá trị cao hơn trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
3. Trình bày nội dung “Chính sách kinh tế mới” của V. I. Lênin. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu lý thuyết đó đối với nước ta hiện nay?
Chính sách kinh tế mới (NEP) do Vladimir Ilyich Lênin khởi xướng được coi
là một bước ngoặt chiến lược quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế của nước
Nga Xô viết sau Cách mạng Tháng Mười. Trong bối cảnh cuộc nội chiến (1918–
1921) làm kiệt quệ nền kinh tế, và chính sách cộng sản thời chiến không còn phù
hợp, Lênin đã đề xuất NEP tại Đại hội lần thứ 10 của Đảng Cộng sản Nga (tháng
3/1921) như một biện pháp "rút lui chiến lược" để cứu vãn nền kinh tế quốc dân.
Theo tác phẩm của Lênin: “Về chính sách kinh tế mới và nhiệm vụ của các tổ
chức giáo dục chính trị” (1921), nội dung cơ bản của NEP bao gồm: khôi phục và
phát triển kinh tế bằng cách kết hợp các thành phần kinh tế khác nhau, đặc
biệt là sự thừa nhận một mức độ nhất định của kinh tế thị trường và tư bản tư
nhân trong phạm vi kiểm soát của nhà nước xã hội chủ nghĩa
. Các điểm nổi bật gồm:
Cho phép nông dân được tự do buôn bán và giữ lại sản phẩm dư thừa sau
khi nộp thuế (thay cho trưng thu lương thực bắt buộc);
Phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thương nghiệp nhỏ và công nghiệp nhẹ;
Khôi phục hạch toán kinh tế, tiền tệ và ngân hàng;
Kết hợp giữa kế hoạch hóa và các yếu tố thị trường, dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Lênin nhấn mạnh rằng đây không phải là sự từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là bước
đi chiến lược để “xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính những công cụ của chủ
nghĩa tư bản”
(Lênin, 1921). Ông gọi NEP là "chính sách rút lui để tiến công",
khẳng định vai trò lãnh đạo kinh tế của nhà nước nhưng linh hoạt hơn trong phương
thức tổ chức sản xuất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu NEP đối với Việt Nam hiện nay
Việc nghiên cứu chính sách NEP của Lênin có giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi mới kinh tế từ năm 1986 đến
nay. Có thể thấy rõ những điểm tương đồng giữa NEP và đường lối đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng tại Đại hội VI (1986)
, khi Việt Nam chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cũng như Nga Xô viết đầu những năm 1920, Việt Nam sau năm 1975 đối mặt
với khó khăn kinh tế nghiêm trọng: năng suất thấp, khan hiếm lương thực, hàng
hóa, và cơ chế bao cấp kém hiệu quả. Đường lối đổi mới đã cho phép thừa nhận
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế
, mở rộng quyền tự chủ cho doanh
nghiệp
, khuyến khích tư nhân hóa và đầu tư nước ngoài, tương tự như việc NEP
cho phép hoạt động của kinh tế cá thể và thị trường.
Sự thành công của công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo, phải
nhập khẩu lương thực, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới
(Tổng cục Thống kê, 2023), GDP bình quân đầu người năm 2023 đạt hơn 4.300
USD
(World Bank), và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây chính
là minh chứng sống động cho tính đúng đắn của chủ trương phát triển kinh tế
nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước – điều mà NEP từng đặt nền
móng lý luận đầu tiên
.
Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang hướng tới mục tiêu trở thành
nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, thì tinh thần của NEP – tính linh
hoạt trong chính sách kinh tế, kết hợp giữa kế hoạch hóa và thị trường, đảm
bảo vai trò chủ đạo của nhà nước nhưng không phủ nhận kinh tế tư nhân

vẫn có giá trị tham khảo to lớn. Ví dụ, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII (2022)
khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”, đồng thời
tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực then chốt như
năng lượng, tài chính, an ninh quốc phòng – cho thấy tư duy kế thừa NEP được vận
dụng sáng tạo tại Việt Nam.
4. Trình bày lý thuyết “giá cả thị trường” của A. Marshall. Lý thuyết này thể hiện
đặc điểm phương pháp luận của trường phái Tân cổ điển như thế nào?
Alfred Marshall (1842–1924), nhà kinh tế học người Anh, là người sáng lập
trường phái Tân cổ điển (Neoclassical Economics). Trong tác phẩm kinh điển
“Principles of Economics” (1890), Marshall đã phát triển một lý thuyết giá cả thị
trường mang tính hệ thống, kết hợp cả yếu tố cầu và cung, được xem là bước ngoặt
trong tư duy kinh tế học hiện đại. Ông cho rằng giá cả thị trường được hình thành
thông qua sự tương tác giữa cung và cầu
, chứ không chỉ do chi phí sản xuất như
trường phái cổ điển (Ricardo, Smith) nhấn mạnh, hay chỉ do giá trị sử dụng như
trường phái chủ quan. Lý thuyết giá cả của Marshall vì vậy mang tính tổng hợp.
Theo Marshall, giá thị trường (market price) là mức giá tạm thời được hình
thành tại điểm giao cắt giữa đường cungđường cầu. Đường cầu phản ánh mối
quan hệ giữa giá và lượng cầu, thường có dạng dốc xuống – tức là khi giá giảm thì
lượng cầu tăng. Trong khi đó, đường cung dốc lên, vì giá cao hơn sẽ khuyến khích
người sản xuất cung nhiều hơn. Điểm cân bằng giữa hai đường này chính là mức
giá cả thị trường, thể hiện sự “hòa giải” giữa người mua và người bán. Marshall
đã dùng hình ảnh nổi tiếng:
"Cũng như hai lưỡi kéo cùng cắt giấy, cả cung và cầu cùng quyết định giá, và
việc hỏi yếu tố nào quan trọng hơn là vô nghĩa".
(Principles of Economics, Book V, Chapter III)
Điểm đặc biệt trong lý thuyết của Marshall là ông phân biệt ngắn hạn và dài
hạn trong việc hình thành giá. Trong ngắn hạn, cung có thể bị giới hạn (ví dụ, số
lượng cửa hàng, máy móc cố định), nên giá chủ yếu do cầu quyết định. Trong dài
hạn
, khi các yếu tố sản xuất có thể điều chỉnh linh hoạt, giá cả sẽ phản ánh chi phí
sản xuất. Đây là cách tiếp cận động, không tĩnh tại như kinh tế học cổ điển.
Phương pháp luận của trường phái Tân cổ điển trong lý thuyết của Marshall
Lý thuyết giá cả thị trường của Marshall thể hiện rõ các đặc điểm phương pháp
luận tiêu biểu của trường phái Tân cổ điển, bao gồm:
Tư duy cận biên (Marginalism): Trường phái Tân cổ điển, đặc biệt từ
thời Marshall trở đi, chú trọng tới phân tích cận biên – tức là xem xét sự thay đổi
nhỏ trong các yếu tố kinh tế sẽ ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng và nhà
sản xuất ra sao. Trong phân tích giá cả, Marshall sử dụng khái niệm lợi ích cận biên
giảm dần
(diminishing marginal utility) để giải thích đường cầu và chi phí cận
biên tăng dần
(increasing marginal cost) để giải thích đường cung.
Phân tích cân bằng tĩnh (Partial Equilibrium): Marshall áp dụng phân
tích cân bằng từng phần, tức là nghiên cứu một thị trường riêng lẻ trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi (ceteris paribus). Đây là phương pháp tiếp cận đặc trưng
của Tân cổ điển, khác với phương pháp hệ thống tổng thể của trường phái cổ điển.
Tính trừu tượng hóa cao: Marshall xây dựng mô hình với các giả định
đơn giản như người tiêu dùng lý trí, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá linh hoạt,
nhằm rút ra quy luật tổng quát – đặc điểm điển hình của phương pháp lý luận Tân cổ điển.
Kết hợp giữa lý thuyết và thực nghiệm: Mặc dù chú trọng mô hình hóa,
Marshall vẫn nhấn mạnh rằng kinh tế học là “một ngành của khoa học ứng dụng”,
chứ không phải khoa học thuần túy
. Ông kêu gọi kết hợp giữa logic lý thuyết và
thực tiễn đời sống – tinh thần rất gần với tư tưởng đổi mới của kinh tế học sau này.
5. Nội dung cơ bản học thuyết định lượng tiền tệ của I. Fisher. Ý nghĩa thực
tiễn của học thuyết này?
Học thuyết định lượng tiền tệ của I. Fisher – Nội dung cơ bản
Irving Fisher (1867–1947), nhà kinh tế học người Mỹ, là người đã phát triển học
thuyết định lượng tiền tệ ở dạng hiện đại nhất vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm
kinh điển “The Purchasing Power of Money” (1911), Fisher đưa ra phương trình
trao đổi
(Equation of Exchange), mô tả mối quan hệ giữa lượng tiền trong nền kinh tế và mức giá chung: MV=PTMV = PTMV=PT Trong đó: •
M là lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế; •
V là tốc độ lưu thông của tiền; •
P là mức giá chung; •
T là tổng sản lượng giao dịch (hoặc sản lượng hàng hóa và dịch vụ giao dịch trong nền kinh tế).
Học thuyết này lập luận rằng lượng tiền trong lưu thông là yếu tố quyết định
mức giá chung, giả định rằng tốc độ lưu thông tiền tệ (V) và sản lượng giao dịch
(T)
là ổn định trong ngắn hạn. Từ đó, Fisher kết luận rằng:
“Nếu lượng tiền trong nền kinh tế tăng gấp đôi, trong khi V và T không đổi, thì
mức giá chung sẽ tăng gấp đôi” – nghĩa là lạm phát tỷ lệ thuận với tăng cung tiền.
Điều này thể hiện tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa tiền tệ cổ điển: chính sách tiền
tệ (cung tiền) có ảnh hưởng quyết định đến giá cả và ổn định vĩ mô.
Ý nghĩa thực tiễn của học thuyết định lượng tiền tệ
Học thuyết của Fisher có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng chính sách tiền tệ
ổn định, đặc biệt là trong kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị tiền tệquản lý
cung tiền
. Trong thực tiễn, các ngân hàng trung ương trên thế giới – bao gồm cả
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) – vẫn dựa trên nền tảng lý luận này để
xây dựng chính sách tiền tệ kiểm soát cung tiền hợp lý.
Tại Việt Nam, trong giai đoạn trước Đổi mới (1986), do in tiền quá mức để tài
trợ cho thâm hụt ngân sách, nền kinh tế đã từng trải qua lạm phát siêu cao, lên tới
774% năm 1986 (theo Tổng cục Thống kê). Tình trạng này chính là minh chứng
tiêu biểu cho lý thuyết của Fisher: cung tiền tăng mạnh không đi kèm tăng sản
lượng, dẫn đến giá cả tăng vọt
. Sau đó, Nhà nước Việt Nam đã áp dụng chính sách
“thắt chặt tiền tệ”, kiểm soát phát hành tiền và chi tiêu công, giúp giảm lạm phát về
còn 67,4% năm 1989 và tiếp tục ổn định dần sau đó – chính là ứng dụng thực tiễn
của học thuyết định lượng tiền tệ
.
Trong thời kỳ hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng chặt chẽ, linh hoạt và thận trọng, gắn với mục tiêu ổn
định lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và giữ vững giá trị tiền đồng
. Ví dụ,
trong năm 2023, khi lạm phát toàn cầu gia tăng do giá năng lượng và lương thực,
Việt Nam vẫn duy trì được lạm phát ở mức dưới 4%, nhờ kiểm soát tốt tăng trưởng
tín dụng (13–14%), điều chỉnh lãi suất điều hành phù hợp và giữ ổn định tỷ giá –
những chính sách thể hiện tinh thần của học thuyết Fisher trong điều hành hiện đại.
Tuy nhiên, học thuyết này cũng có một số hạn chế: nó giả định V và T là ổn
định, điều không còn đúng trong nền kinh tế hiện đại có biến động mạnh về công
nghệ, nhu cầu, tốc độ chu chuyển tiền. Do đó, các học thuyết mới như chủ nghĩa
tiền tệ hiện đại (New Monetarism)
hoặc lý thuyết của Keynes đã bổ sung thêm
yếu tố cầu tiềnvai trò kỳ vọng. Dù vậy, về nguyên lý cơ bản – mối quan hệ
giữa cung tiền và mức giá – thì lý thuyết định lượng tiền tệ của Fisher vẫn giữ giá trị tham khảo to lớn.
6. Phân tích lý thuyết Keynes về vai trò điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.
Lý thuyết Keynes về vai trò điều chỉnh, can thiệp của Nhà nước vào kinh tế
được John Maynard Keynes (1883–1946) – nhà kinh tế học người Anh – xây dựng
trong tác phẩm kinh điển “The General Theory of Employment, Interest and
Money”
(1936), ra đời trong bối cảnh cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929– 1933.
Khác với trường phái cổ điển vốn tin rằng thị trường luôn có khả năng tự điều
chỉnh để đạt trạng thái toàn dụng lao động, Keynes lập luận rằng nền kinh tế thị
trường có thể rơi vào tình trạng thiếu hụt tổng cầu kéo dài, dẫn đến thất nghiệp và
suy giảm sản lượng mà không thể tự phục hồi. Theo ông, nguyên nhân chủ yếu là
tổng cầu (bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng) không
đủ lớn để hấp thụ toàn bộ sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
Từ đó, Keynes nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết
và can thiệp vào nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ.
Về chính sách tài khóa, ông đề xuất tăng chi tiêu công và/hoặc giảm thuế
nhằm kích thích tổng cầu, nhấn mạnh đến hiệu ứng lan tỏa (multiplier
effect)
mà chi tiêu chính phủ có thể tạo ra để thúc đẩy tiêu dùng, sản xuất và
việc làm. Keynes khẳng định:
“Chính phủ có thể tăng chi tiêu mà không cần chờ đợi niềm tin vào thị trường
phục hồi” (The General Theory, Ch.10).
Về chính sách tiền tệ, Keynes đề xuất hạ lãi suất để kích thích đầu tư, song
cũng cảnh báo về giới hạn của công cụ này trong tình huống “bẫy thanh khoản”.
Bên cạnh đó, Keynes đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết chu kỳ
kinh tế – mở rộng chi tiêu trong suy thoái và kiềm chế cầu trong lạm phát.
Lý thuyết của ông đã tạo nên cuộc cách mạng trong tư duy kinh tế hiện đại, đặt
nền tảng cho kinh tế học vĩ mô và ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế của
các chính phủ. Trong thực tiễn, lý thuyết Keynes được áp dụng hiệu quả như tại Mỹ
trong thập niên 1930 với chính sách “New Deal” của Tổng thống Roosevelt nhằm
thoát khỏi khủng hoảng.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu chịu nhiều cú sốc (đại dịch
COVID-19, khủng hoảng tài chính, suy giảm tăng trưởng...), tư tưởng Keynes tiếp
tục là định hướng chủ đạo cho nhiều quốc gia. Cụ thể, gói kích thích tài khóa khổng
lồ của Mỹ trong các năm 2020–2021 trị giá hàng ngàn tỷ USD đã giúp duy trì tiêu
dùng và bảo vệ việc làm.
Tại Việt Nam, Chính phủ cũng vận dụng tư tưởng Keynes trong các gói hỗ trợ
tài khóa và tiền tệ như Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội năm
2022–2023
với tổng quy mô 350.000 tỷ đồng, tập trung vào đầu tư công, hỗ trợ
doanh nghiệp và an sinh xã hội
.
Những chính sách này cho thấy lý thuyết Keynes vẫn giữ nguyên giá trị thực
tiễn sâu sắc trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng
trong bối cảnh hiện đại.
7. Nêu đặc điểm phương pháp luận của trường phái Keynes. Trường phái
Keynes đã mâu thuẫn và kế thừa đặc điểm phương pháp luận của trường
phái Tân cổ điển như thế nào?

Trường phái Keynes, do John Maynard Keynes sáng lập với tác phẩm tiêu biểu
“The General Theory of Employment, Interest and Money” (1936), đã đánh dấu
một bước ngoặt trong phương pháp luận nghiên cứu kinh tế vĩ mô. Phương pháp
luận của trường phái Keynes
có ba đặc điểm nổi bật:
(1) lấy tổng cầu làm yếu tố quyết định trình trạng việc làm và sản lượng trong ngắn hạn;
(2) tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong điều kiện thiếu toàn dụng lao
động, thay vì giả định thị trường luôn vận hành ở trạng thái cân bằng;
(3) nhấn mạnh vai trò can thiệp của Nhà nước để điều tiết chu kỳ kinh tế
thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ.
Trái với lập luận của trường phái Tân cổ điển cho rằng thị trường có thể tự điều
chỉnh thông qua cơ chế giá, Keynes cho rằng thị trường có thể rơi vào trạng thái
mất cân bằng kéo dài mà không có cơ chế tự phục hồi. Đây là một mâu thuẫn căn
bản trong tư duy phương pháp luận
giữa hai trường phái.
Tuy nhiên, trường phái Keynes cũng kế thừa một số yếu tố của Tân cổ điển
trong cách tiếp cận phân tích. Keynes vẫn sử dụng công cụ toán học, mô hình hóa
kinh tế
và chấp nhận nhiều giả định về hành vi duy lý, song ông điều chỉnh lại các
giả định này cho phù hợp với thực tiễn – chẳng hạn như cho rằng kỳ vọng của con
người mang tính bất định
, hoặc rằng tiền lương có tính cứng nhắc trong ngắn
hạn
. Keynes không phủ nhận vai trò của thị trường, mà thay vào đó cho rằng thị
trường cần được hướng dẫn, bổ trợ bởi chính sách nhà nước trong những thời điểm
khủng hoảng. Trong Chương 24 của The General Theory, Keynes khẳng định:
“Lý thuyết cổ điển là trường hợp đặc biệt... hoàn toàn không áp dụng được
trong nền kinh tế thực tiễn.”
Các học giả hiện đại như Paul Samuelson cũng nhận định trong “Kinh tế học”
(NXB McGraw-Hill, bản dịch tiếng Việt – NXB Tài chính): Keynes đã phát triển
một nền kinh tế học dựa trên các quan sát thực tiễn hơn là lý tưởng hóa mô hình
như trường phái Tân cổ điển.
Tóm lại, phương pháp luận của trường phái Keynes vừa mâu thuẫn với lý
thuyết thị trường tự điều tiết của Tân cổ điển, vừa kế thừa một cách chọn lọc
các công cụ phân tích hiện đại
để tạo nên nền tảng cho kinh tế học vĩ mô hiện đại.
Tư tưởng này tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế của các quốc gia cho đến ngày nay.
8. Trình bày lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang
Đức? Thành tựu và hạn chế của lý thuyết này?
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội (Soziale Marktwirtschaft) là mô
hình kinh tế đặc trưng của Cộng hòa Liên bang Đức sau Thế chiến thứ hai, do nhà
kinh tế học và chính trị gia Ludwig Erhard – Bộ trưởng Kinh tế và sau này là Thủ
tướng Đức – phát triển trên cơ sở kết hợp giữa cơ chế thị trường tự do chính
sách xã hội của Nhà nước
. Lý thuyết này ra đời vào cuối thập niên 1940 và được
thể chế hóa trong Hiến pháp Đức (Luật Cơ bản năm 1949), với mục tiêu xây dựng
một nền kinh tế hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Theo giáo trình “Kinh tế học chính trị Mác - Lênin” (NXB Chính trị Quốc gia
Sự thật, 2019), nền kinh tế thị trường xã hội được xây dựng trên nền tảng các quy
luật thị trường
, nhưng Nhà nước giữ vai trò bảo vệ cạnh tranh, kiểm soát độc
quyền, bảo đảm ổn định tiền tệ và thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội

nhằm hạn chế bất bình đẳng và bảo vệ người lao động. Mô hình này chịu ảnh hưởng
từ tư tưởng của trường phái Freiburg (Kinh tế học trật tự –
Ordoliberalism), trong đó nhấn mạnh rằng thị trường chỉ phát huy hiệu quả khi
được Nhà nước tạo lập khung pháp lý và giám sát cạnh tranh công bằng
.
Thành tựu của lý thuyết này
Nền kinh tế thị trường xã hội đã mang lại “phép màu kinh tế Đức”
(Wirtschaftswunder) trong những thập niên 1950–1960. Dưới sự điều hành của
Ludwig Erhard, nước Đức Tây phát triển thần tốc, phục hồi mạnh mẽ sau chiến
tranh, duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao (trên 8%/năm vào đầu thập niên 1960),
và đạt được mức sống cao cho người dân. Theo sách “Comparative Economic
Systems”
của Gregory & Stuart (2014), mô hình này giúp Đức kết hợp được hiệu
quả của thị trường
với phân phối thu nhập hợp lý thông qua các chính sách
phúc lợi xã hội toàn diện
như bảo hiểm y tế, giáo dục miễn phí, hỗ trợ thất nghiệp và hưu trí.
Ngoài ra, mô hình kinh tế thị trường xã hội còn được các quốc gia châu Âu khác
(như Áo, Thụy Điển, Hà Lan) học tập và áp dụng, trở thành nền tảng cho nhà nước
phúc lợi kiểu châu Âu
(European social welfare model).
Hạn chế của lý thuyết này
Dù thành công trong thời kỳ hậu chiến, mô hình kinh tế thị trường xã hội cũng
bộc lộ một số hạn chế. Thứ nhất, chi phí cho các chính sách phúc lợi ngày càng lớn
tạo áp lực lên ngân sách nhà nước và hệ thống thuế. Thứ hai, khi toàn cầu hóa gia
tăng và cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn, mô hình này gặp khó khăn trong duy trì
hiệu quả
nếu không cải cách linh hoạt. Trong những năm 1990–2000, Đức phải
thực hiện hàng loạt cải cách phúc lợi (Chương trình Hartz) để giảm gánh nặng chi
tiêu công và thúc đẩy lao động.
Theo Wolfgang Streeck – nhà xã hội học chính trị Đức – trong sách “Buying
Time: The Delayed Crisis of Democratic Capitalism” (2014), mô hình kinh tế thị
trường xã hội đang đối mặt với thách thức từ già hóa dân số, nợ công và áp lực
cắt giảm phúc lợi
, khiến các nguyên lý cốt lõi của lý thuyết này bị lung lay phần nào trong thế kỷ XXI.
Tóm lại, lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội là một mô hình “lai ghép” độc
đáo giữa thị trường tự do và chính sách xã hội có điều tiết, phản ánh tư tưởng dung
hòa giữa chủ nghĩa tư bản tự donhà nước phúc lợi. Mặc dù mô hình này mang
lại những thành tựu vượt bậc cho Đức trong thế kỷ XX, nhưng cũng cần điều chỉnh
để thích ứng với các thay đổi trong môi trường kinh tế toàn cầu hiện nay.
9. Phân tích nội dung cơ bản của lý thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.
Samuelson. Liên hệ thực tế việc vận dụng lý thuyết này ở Việt Nam hiện nay.
Lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” (mixed economy) là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng kinh tế học hiện đại do Paul A. Samuelson – nhà kinh tế học người
Mỹ, người đầu tiên giành giải Nobel Kinh tế (1970) – phát triển trong tác phẩm nổi
tiếng “Economics” (1958, nhiều lần tái bản và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam
dưới tên “Kinh tế học” – NXB Tài chính). Theo Samuelson, nền kinh tế hiện đại
không thể thuần túy là kinh tế thị trường tự do hay kế hoạch hóa tập trung, mà cần
phải kết hợp hai yếu tố này để tận dụng ưu thế của cả thị trường lẫn Nhà nước. Nền
kinh tế hỗn hợp
là một mô hình trong đó các quyết định phân bổ tài nguyên được
thực hiện phần lớn bởi thị trường tự do, nhưng Nhà nước giữ vai trò chủ động
trong điều tiết, kiểm soát và cung ứng hàng hóa công cộng
nhằm khắc phục
những thất bại của thị trường như độc quyền, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã
hội, và thiếu đầu tư cho các lĩnh vực phi lợi nhuận như giáo dục, y tế.
Trong “Kinh tế học”, Samuelson khẳng định rằng:
“Không có nền kinh tế hoàn toàn thị trường hay hoàn toàn kế hoạch nào có thể
vận hành hiệu quả trong thực tiễn. Chỉ có sự kết hợp linh hoạt giữa hai khuynh
hướng này mới đảm bảo tăng trưởng đi kèm với ổn định và công bằng.”
Ông cho rằng vai trò của Nhà nước không chỉ là “người canh gác ban đêm” như
trong chủ nghĩa tự do cổ điển, mà còn là “người kiến tạo thị trường” (market maker)
– thông qua chính sách tài khóa, tiền tệ, trợ cấp, kiểm soát giá, và quy định pháp lý.
Mô hình kinh tế hỗn hợp vì vậy phản ánh sự tổng hợp giữa tư tưởng Keynes về
can thiệp của Nhà nước
cơ chế thị trường cạnh tranh của trường phái Tân cổ điển.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Tại Việt Nam, quan điểm về nền kinh tế hỗn hợp được thể hiện rõ trong đường
lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Việt Nam tiếp tục “phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế
cùng phát triển”, đồng thời nhấn mạnh “vai trò quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Thực tế cho thấy Việt Nam đã áp dụng lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp một cách linh hoạt:
- Khu vực tư nhân được thừa nhận là động lực quan trọng của tăng trưởng
(Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020).
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt, như năng
lượng, tài chính, cơ sở hạ tầng.
- Chính phủ thực hiện nhiều chính sách điều tiết thị trường: trợ giá xăng
dầu, bình ổn giá lương thực, kiểm soát thị trường bất động sản, và điều
hành chính sách tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước.
- Các chính sách an sinh xã hội như bảo hiểm y tế toàn dân, chương trình
mục tiêu giảm nghèo bền vững, và đầu tư vào giáo dục - y tế thể hiện vai
trò kiến tạo phát triển của Nhà nước.
Đặc biệt trong giai đoạn ứng phó với đại dịch COVID-19 (2020–2022), Việt
Nam đã cho thấy rõ tính chất hỗn hợp của mô hình kinh tế: vừa duy trì hoạt động
thị trường, vừa tăng cường can thiệp nhà nước thông qua các gói hỗ trợ tài khóa,
miễn giảm thuế, bảo đảm an sinh xã hội và kiểm soát chuỗi cung ứng.
Tóm lại, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Paul Samuelson phản ánh một
phương pháp tiếp cận cân bằng giữa thị trường và Nhà nước, giữa hiệu quả và công
bằng. Mô hình này không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc mà còn được vận dụng thực
tiễn hiệu quả trong quá trình cải cách, hội nhập và phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay.
10. Trình bày nội dung cơ bản của lý thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất và
sự lựa chọn” của P. Samuelson. Liên hệ thực tế bản thân anh (chị) để làm rõ nội dung trên.
Lý thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn” (Production
Possibility Frontier – PPF) là một trong những nội dung cơ bản mà Paul A.
Samuelson trình bày trong tác phẩm nổi tiếng “Kinh tế học” (Economics, nhiều lần
tái bản, bản tiếng Việt: NXB Tài chính, 2010). Lý thuyết này minh họa mối quan hệ
giữa sự khan hiếm nguồn lực, chi phí cơ hội, và sự lựa chọn kinh tế mà mọi cá
nhân hay xã hội phải đối mặt.
Theo Samuelson, đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) biểu diễn tập hợp
các phương án sản xuất hiệu quả nhất của một nền kinh tế, với giả định rằng các
nguồn lực được sử dụng toàn bộ và hiệu quả. Nếu nền kinh tế muốn tăng sản lượng
của một loại hàng hóa thì buộc phải hy sinh sản lượng của loại hàng hóa khác,
do nguồn lực có hạn – đó chính là chi phí cơ hội.
Trong sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” (Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, NXB Lao động – Xã hội, 2016), lý thuyết này được xem là biểu tượng cho
duy lựa chọn trong kinh tế học hiện đại
, giúp người học hình dung rằng không
có gì là miễn phí
mọi quyết định đều đi kèm đánh đổi.
Ví dụ trong thực tiễn bản thân
Lý thuyết này có thể liên hệ rõ nét trong lựa chọn cá nhân. Chẳng hạn, bản thân
tôi khi đang là sinh viên năm cuối phải đưa ra quyết định giữa việc dành toàn thời
gian cho học tập để đạt kết quả cao nhất
, hay chấp nhận phân bổ thời gian để
đi làm thêm, tích lũy kinh nghiệm và thu nhập
. Nếu tôi dành 100% thời gian cho
học tập, có thể đạt được GPA xuất sắc, nhưng sẽ thiếu kỹ năng thực tiễn. Ngược lại,
nếu dành nhiều thời gian đi làm thêm, tôi có thêm trải nghiệm và tài chính, nhưng
GPA có thể bị ảnh hưởng.
Quyết định tối ưu của tôi là phân bổ hợp lý thời gian – học tập hiệu quả kết
hợp với một công việc bán thời gian phù hợp. Điều này giống như một điểm nằm
trên đường PPF
, phản ánh sự cân bằng giữa hai mục tiêu: học tập và làm việc.
Tóm lại, lý thuyết về giới hạn khả năng sản xuất và sự lựa chọn của P. Samuelson
giúp chúng ta hiểu rằng trong bối cảnh tài nguyên khan hiếm, mọi cá nhân và quốc
gia đều phải lựa chọn giữa các phương án sử dụng nguồn lực khác nhau
– và
mỗi sự lựa chọn luôn gắn liền với chi phí cơ hội. Việc nhận thức đúng đắn về điều
này giúp nâng cao khả năng ra quyết định kinh tế hợp lý và hiệu quả, không chỉ
ở cấp vĩ mô mà còn trong quản lý thời gian, tài chính và mục tiêu cá nhân.
11.Tại sao trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, nhà nước lại phải
can thiệp vào kinh tế?
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các quyết định sản xuất, tiêu
dùng và phân phối tài nguyên chủ yếu được xác định bởi quan hệ cung – cầu và giá
cả. Tuy nhiên, thị trường không phải lúc nào cũng hoạt động một cách hoàn
hảo
, và thực tế cho thấy nó thường dẫn đến những thất bại thị trường (market
failures
) như độc quyền, ô nhiễm môi trường, thiếu hàng hóa công cộng, bất bình
đẳng xã hội và chu kỳ kinh tế bất ổn. Chính vì vậy, Nhà nước cần thiết phải can
thiệp vào nền kinh tế
nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó và bảo đảm phát triển bền vững.
Theo sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
NXB Lao động – Xã hội, 2016), John Maynard Keynes là người đầu tiên lý luận
một cách có hệ thống về sự cần thiết của vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Trong “The General Theory of Employment, Interest and Money” (1936),
ông cho rằng thị trường không tự điều tiết được để đạt toàn dụng lao động, và nếu
để mặc, nó có thể rơi vào suy thoái kéo dài. Keynes nhấn mạnh:
“Thị trường có thể không tự phục hồi; do đó, cần một bàn tay hữu hình là Nhà
nước để can thiệp thông qua chi tiêu công và chính sách tài khóa.”
Các học thuyết kinh tế hiện đại tiếp tục phát triển quan điểm này. Paul
Samuelson trong sách “Economics” (NXB Tài chính, bản dịch tiếng Việt) cũng chỉ
ra rằng: Nhà nước cần can thiệp để ổn định kinh tế vĩ mô, phân phối lại thu nhập,
bảo vệ môi trường, hỗ trợ ngành yếu thếbảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh.
Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
Tại Việt Nam, dù đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, vai trò can thiệp của Nhà nước vẫn rất rõ rệt và cần thiết:
- Ổn định vĩ mô: Nhà nước thông qua Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chính sách tiền tệ thận trọng để kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá (đặc
biệt giai đoạn sau COVID-19 và trong khủng hoảng tài chính toàn cầu).
- An sinh xã hội: Nhà nước triển khai các chương trình bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, chương trình giảm nghèo bền vững và hỗ trợ vùng sâu vùng
xa – phản ánh vai trò phân phối lại thu nhập.
- Quản lý khủng hoảng: Trong đại dịch COVID-19 (2020–2022), Nhà
nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (giãn thuế, miễn tiền
thuê đất, gói hỗ trợ tài khóa 350.000 tỷ đồng), can thiệp mạnh vào điều
phối sản xuất – lưu thông – tiêm chủng.
- Chống độc quyền và điều tiết thị trường: Việt Nam có Luật Cạnh tranh,
Luật Giá và các chính sách bình ổn giá xăng dầu, thực phẩm, y tế – cho
thấy vai trò quản lý thị trường của Nhà nước.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước là điều kiện
tất yếu để khắc phục thất bại thị trường, đảm bảo sự ổn định và phát triển công bằng.
Cả lý luận kinh tế học từ Keynes đến Samuelson, và thực tiễn tại Việt Nam đều
cho thấy vai trò tích cực, không thể thiếu của Nhà nước
trong nền kinh tế hiện đại.
12.Phân biệt tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế. Phân tích mối quan hệ
giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội?
Phân biệt tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
Trong sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
NXB Lao động – Xã hội, 2016), các nhà kinh tế học đã chỉ rõ tăng trưởng kinh tế
phát triển kinh tế tuy có liên quan chặt chẽ với nhau nhưng là hai khái niệm không đồng nhất.
- Tăng trưởng kinh tếsự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh
tế trong một khoảng thời gian nhất định, thường được đo bằng tốc độ
tăng GDP (Tổng sản phẩm quốc nội)
hoặc GNP (Tổng sản phẩm quốc
dân). Đây là khái niệm định lượng, phản ánh kết quả hoạt động kinh tế
thuần túy. Ví dụ, nếu GDP năm sau cao hơn năm trước, ta nói nền kinh tế có tăng trưởng.
- Phát triển kinh tếmột quá trình tổng thể và toàn diện, không chỉ
bao gồm tăng trưởng kinh tế mà còn đi kèm với những thay đổi tích cực
về mặt cơ cấu kinh tế, chất lượng sống, công bằng xã hội, giáo dục, y
tế, môi trường và phúc lợi con người
. Nó là khái niệm định tính, phản
ánh chiều sâu và chất lượng phát triển.
Các nhà kinh tế học hiện đại như A. Sen và Todaro đều nhấn mạnh rằng:
“Tăng trưởng là cần thiết nhưng không đủ cho phát triển” (trích: Michael
Todaro, Economic Development – bản dịch Kinh tế Phát triển, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2015).
Mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội
Từ góc nhìn của các học thuyết kinh tế hiện đại (Keynes, Samuelson, Sen), tăng
trưởng và phát triển là hai mặt của một quá trình, trong đó:
- Tăng trưởng là nền tảng: Một quốc gia không thể phát triển bền vững
nếu không có tăng trưởng kinh tế. Việc tăng thu nhập quốc dân giúp nâng
cao nguồn lực tài chính để đầu tư cho y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội.
- Phát triển là mục tiêu: Tăng trưởng chỉ có ý nghĩa khi nó được phân bổ
hợp lýcải thiện chất lượng sống của người dân. Nếu tăng trưởng
không đi kèm phát triển (ví dụ, chỉ số GDP tăng nhưng ô nhiễm, chênh
lệch giàu nghèo, và tham nhũng cũng tăng), thì đó là sự phát triển không bền vững.
- Tiến bộ xã hội là kết quả lý tưởng nhất của quá trình phát triển**, thể
hiện ở việc đảm bảo công bằng, dân chủ, bình đẳng giới, nâng cao chỉ số
phát triển con người (HDI), bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Ví dụ thực tiễn từ Việt Nam
Việt Nam trong 30 năm Đổi mới đã đạt được tăng trưởng kinh tế ấn tượng,
với GDP bình quân đầu người tăng mạnh (theo số liệu WB, từ dưới 100 USD năm
1986 lên hơn 4.300 USD năm 2023). Tuy nhiên, Nhà nước luôn xác định rõ: phát
triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
, thể hiện qua:
- Chính sách phát triển giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, giảm nghèo đa chiều.
- Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
- Cam kết quốc tế về phát triển bền vững (SDGs) và bảo vệ môi trường.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, nhưng phát triển kinh tế và tiến bộ
xã hội mới là mục tiêu tối thượng. Các học thuyết kinh tế hiện đại đều nhấn mạnh
vai trò tích cực của Nhà nước trong việc hướng dòng tăng trưởng vào phục vụ
con người
, đảm bảo phát triển toàn diện và bền vững.
13.Phân tích nội dung lý thuyết cất cánh của W. Rostow, thông qua đó hãy xác
định trình độ nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn nào? Giới thiệu về lý
thuyết cất cánh của W. W. Rostow

Walt Whitman Rostow là một nhà kinh tế học người Mỹ nổi tiếng với lý thuyết
về các giai đoạn phát triển kinh tế được trình bày trong tác phẩm “The Stages of
Economic Growth: A Non-Communist Manifesto”
(1960). Ông cho rằng mọi quốc
gia, dù xuất phát điểm khác nhau, đều có thể phát triển theo một chuỗi tiến hóa gồm
năm giai đoạn. Trong đó, giai đoạn “cất cánh” (take-off) là trung tâm, đánh dấu sự
chuyển mình của nền kinh tế từ trạng thái trì trệ sang giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững.
Năm giai đoạn phát triển kinh tế theo Rostow
Rostow chia quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thành 5 giai đoạn cụ thể:
- Giai đoạn 1 – Xã hội truyền thống: Nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông
nghiệp, sử dụng kỹ thuật thô sơ, năng suất lao động thấp, xã hội ít biến động.
- Giai đoạn 2 – Điều kiện tiền cất cánh: Xuất hiện các cải cách trong tổ
chức xã hội, tích lũy vốn ban đầu tăng, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và giáo dục được đẩy mạnh.
- Giai đoạn 3 – Cất cánh: Là giai đoạn bùng nổ tăng trưởng. Tỷ lệ đầu tư
đạt trên 10% GDP, công nghiệp phát triển nhanh, các thể chế hỗ trợ thị
trường được củng cố.
- Giai đoạn 4 – Tiến tới trưởng thành: Kinh tế công nghiệp hóa mạnh, cơ
cấu xuất khẩu đa dạng hóa, trình độ kỹ thuật – công nghệ nâng cao.
- Giai đoạn 5 – Thời kỳ tiêu dùng đại trà: Thu nhập cao, tầng lớp trung
lưu mở rộng, dịch vụ phát triển vượt bậc, đời sống vật chất – tinh thần phong phú.
Việt Nam đang ở giai đoạn nào trong lý thuyết của Rostow?
Dựa vào lý thuyết của Rostow và tình hình thực tế, có thể nhận định Việt Nam
đang ở trong giai đoạn cất cánh. Bắt đầu từ công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt
Nam đã thực hiện hàng loạt cải cách về thể chế, chính sách kinh tế và mở cửa thị
trường. Những thay đổi này đã đưa Việt Nam từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – đây chính là bước chuyển từ giai đoạn
tiền cất cánh sang cất cánh.

Cơ sở xác định Việt Nam đang ở giai đoạn cất cánh
Nhiều bằng chứng thực tiễn cho thấy Việt Nam đã và đang ở trong giai đoạn cất cánh:
- Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6–7%/năm trong hơn 20 năm qua.
- Tỷ lệ đầu tư toàn xã hội luôn ở mức cao, thường xuyên trên 30% GDP
(theo Tổng cục Thống kê).
- Xuất khẩu công nghiệp, đặc biệt là điện tử, máy móc, dệt may tăng mạnh,
thay thế vai trò xuất khẩu tài nguyên.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra rõ rệt: giảm tỷ trọng nông
nghiệp, tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ.
- Môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng minh bạch, chính phủ thúc
đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa đạt đến giai đoạn “trưởng thành”
Dù có nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn còn nhiều yếu tố chưa đạt chuẩn của giai
đoạn “tiến tới trưởng thành”:
- Mức thu nhập bình quân đầu người còn ở nhóm trung bình thấp.
- Năng suất lao động và tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất còn thấp.
- Phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
- Hệ thống đổi mới công nghệ nội địa còn yếu, công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Kết luận
Lý thuyết “cất cánh” của W.W. Rostow giúp hình dung được lộ trình phát triển
kinh tế của một quốc gia. Qua phân tích thực tiễn, có thể thấy Việt Nam đang trong
giai đoạn cất cánh
, với tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực
và hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, để tiến tới giai đoạn “trưởng
thành”, Việt Nam cần tập trung hơn nữa vào chất lượng tăng trưởng, đổi mới sáng
tạo, nâng cao năng suất và cải thiện thể chế phát triển.
14.Phân tích lý thuyết về “Vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên ngoài” đối
với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Việt Nam đã vận
dụng lý thuyết này như thế nào?

Lý thuyết “vòng luẩn quẩn của đói nghèo” Lý thuyết “vòng luẩn quẩn của
đói nghèo” được phát triển bởi các nhà kinh tế học như Ragnar Nurkse và Paul
Rosenstein-Rodan. Họ cho rằng các nước nghèo thường bị mắc kẹt trong một chuỗi
các yếu tố kinh tế tiêu cực liên quan chặt chẽ với nhau, khiến quốc gia đó không thể
tự mình phát triển. Cụ thể, thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, năng
suất thấp, và cuối cùng lại trở về thu nhập thấp – tạo thành một vòng luẩn quẩn
không lối thoát. Cả từ phía cung (thiếu vốn, công nghệ) và phía cầu (sức mua yếu,
thị trường nhỏ), các quốc gia này đều gặp trở ngại trong việc phát triển.
Lý thuyết “cú huých từ bên ngoài” (Big Push Theory) Paul RosensteinRodan
cũng là người đưa ra lý thuyết “cú huých từ bên ngoài”, còn gọi là Big Push. Theo
lý thuyết này, các nước đang phát triển muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn phải có một
lực đẩy mạnh mẽ từ bên ngoài hoặc từ cải cách nội bộ có tính hệ thống. “Cú huých”
này có thể là đầu tư lớn từ nhà nước hoặc nước ngoài, cải cách thể chế, hoặc các
chính sách tổng thể hỗ trợ công nghiệp hóa và phát triển hạ tầng. Ý tưởng cốt lõi là
phải thực hiện các thay đổi mang tính đồng bộ và quy mô lớn, vì nếu chỉ cải thiện
nhỏ lẻ thì sẽ không đủ để vượt qua rào cản phát triển.
Thực trạng vòng luẩn quẩn ở Việt Nam trước Đổi mới Trước năm 1986, nền
kinh tế Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của một quốc gia đang mắc kẹt trong “vòng
luẩn quẩn”. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp, năng suất lao động
thấp, kỹ thuật lạc hậu. Chính sách bao cấp kìm hãm động lực sản xuất, người dân
thiếu vốn, không thể tích lũy để đầu tư, dẫn tới nền kinh tế trì trệ, đời sống khó
khăn. Việt Nam không thể tự tạo ra đà phát triển mà chỉ loay hoay trong cơ chế tự
duy trì nghèo đói – điển hình cho cái mà Nurkse gọi là vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Đổi mới 1986 – Cú huých phá vỡ vòng luẩn quẩn Bước ngoặt lịch sử là chính
sách Đổi mới năm 1986. Đây chính là “cú huých lớn” của Việt Nam, gồm cải cách
thể chế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đẩy mạnh xuất khẩu,
tiếp cận nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), và cải tổ mạnh mẽ hệ thống
quản lý kinh tế. Bên cạnh đó, Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại tự do, hội
nhập sâu với khu vực và thế giới – tạo điều kiện cho dòng vốn, công nghệ và thị
trường quốc tế chảy vào, kích thích tăng trưởng.
Kết quả và ý nghĩa thực tiễn Nhờ “cú huých” từ Đổi mới, Việt Nam đã thoát
ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế
giới, thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD vào cuối những năm 1980, đến
năm 2023 Việt Nam đã đạt mức trên 4.300 USD (theo WB). Tỷ lệ nghèo đói giảm
mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ. Hạ tầng, giáo dục, y tế và công nghệ đều được cải thiện rõ rệt. Thực tiễn
phát triển của Việt Nam là minh chứng điển hình cho sự thành công khi vận dụng
đúng lý thuyết về “cú huých” để phá vỡ vòng luẩn quẩn kinh tế.
15.Từ nội dung lý thuyết về mô hình kinh tế nhị nguyên của Athur Lewis, hãy
liên hệ thực tiễn đối với những trở ngại về lao động, việc làm ở nước ta và
đưa ra giải pháp khắc phục?

Mô hình kinh tế nhị nguyên của Arthur Lewis, được trình bày trong công trình
kinh điển “Phát triển kinh tế với nguồn lao động vô hạn” (1954), là một lý thuyết
có tầm ảnh hưởng lớn trong kinh tế học phát triển. Lewis cho rằng các quốc gia
đang phát triển thường tồn tại song song hai khu vực kinh tế: khu vực truyền thống
(nông nghiệp, nông thôn) với năng suất lao động thấp và tình trạng dư thừa lao
động; và khu vực hiện đại (công nghiệp, đô thị) có năng suất cao hơn và khả năng
tích lũy vốn mạnh hơn. Theo ông, động lực phát triển kinh tế nằm ở quá trình dịch
chuyển lao động từ khu vực truyền thống sang khu vực hiện đại, qua đó giúp nâng
cao năng suất toàn xã hội, tăng tích lũy và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Tuy nhiên,
quá trình này không diễn ra tự nhiên mà cần có sự dẫn dắt của chính sách công, đầu
tư và phát triển hạ tầng đồng bộ.
Thực tiễn Việt Nam cho thấy mô hình của Lewis vẫn mang tính thời sự sâu sắc.
Dù đã có nhiều tiến bộ trong công nghiệp hóa, tính đến năm 2023, vẫn còn gần 30%
lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp – nhưng chỉ đóng
góp khoảng 11–13% GDP, phản ánh rõ tình trạng năng suất thấp và sử dụng lao
động chưa hiệu quả (Tổng cục Thống kê). Trong khi đó, khu vực công nghiệp –
dịch vụ chưa đủ sức hấp thụ lực lượng lao động dư thừa do hạn chế về năng lực đào
tạo, kỹ năng lao động còn yếu, và thiếu sự kết nối giữa cung – cầu lao động. Bên
cạnh đó, dòng di cư từ nông thôn ra đô thị phát triển nhanh nhưng thiếu quy hoạch,
khiến nhiều lao động rơi vào khu vực phi chính thức, không được bảo vệ bởi hệ
thống an sinh xã hội. Điều này không chỉ phản ánh tính chất “nhị nguyên” mà còn
cho thấy sự mất cân đối ngày càng lớn giữa hai khu vực.
Để tháo gỡ những rào cản trên, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa nông thôn – không chỉ nhằm tạo ra việc làm mà
còn để định hướng lại mô hình phát triển dựa trên năng suất. Việc phát triển các
cụm công nghiệp vệ tinh, đô thị hóa nông thôn và đầu tư vào kết nối hạ tầng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để dịch chuyển lao động có tổ chức. Đồng thời, cần đầu tư mạnh
mẽ vào giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng số và khởi nghiệp sáng tạo, nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. Về mặt thể
chế, cải cách thị trường lao động, mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh cho lao
động di cư là chìa khóa để bảo vệ lực lượng lao động yếu thế – từ đó thúc đẩy quá
trình dịch chuyển lao động theo đúng logic của Lewis: hiệu quả, bền vững và mang lại thịnh vượng chung.
Tóm lại, mô hình kinh tế nhị nguyên của Arthur Lewis không chỉ cung cấp một
khung lý thuyết sắc bén để phân tích vấn đề lao động – việc làm, mà còn gợi mở
các giải pháp thực tiễn cho Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển kinh tế bao trùm. Việc vận dụng hiệu quả mô hình này sẽ góp phần
đưa Việt Nam thoát khỏi những điểm nghẽn cơ cấu, nâng cao chất lượng tăng trưởng
và tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao trong tương lai.
16.Các nước đang phát triển có những đặc trưng cơ bản gì? Những đặc trưng
đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước này như
thế nào? Liên hệ với Việt Nam.

Trong Lịch sử các học thuyết kinh tế, các học giả phát triển luận điểm rằng các
nước đang phát triển (Developing Countries) có những đặc trưng cấu trúc mang tính
hệ thống – không chỉ phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội thấp, mà còn góp