






Preview text:
12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả
Khóa học (https://www.onthiez.com/khoa-hoc) / ×
TMU - Kinh Tế Chính... (https://www.onthiez.com/khoa-hoc/tmu-kinh-te-chinh-tri-mac-le-nin.102/tong-quan) (HTTPS://WWW.ONTHIEZ.COM/KHOA- HOC/TMU-KINH-TE-CHINH-TRI-MAC- / LE-NIN.102/TONG-QUAN)
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 1/7 12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả
Câu 1: Sản xuất hàng hóa
Trước tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về kiểu tổ chức kinh tế sản xuất tự cấp tự túc. Đây là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm
do lao động tạo ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Tức là trong sản xuất tự cung tự cấp thì người sản xuất cũng
chính là người tiêu dùng. Sản xuất tự cấp tự túc là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tự nhiên có lực lượng sản xuất kém phát triển. Ví
dụ: người săn bắn, nuôi gà, nuôi lợn, trồng cây … để phục vụ nhu cầu cung cấp thực phẩm cho gia đình. Nuôi tằm dệt vải là để may
mặc quần áo cho bản thân và các thành viên trong gia đình, bộ tộc Sản xuất hàng hóa? Trả lời
Khái niệm: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Ví dụ: Giả sử như người thợ dệt vải có nhiều vải hơn so với nhu cầu của bản thân mình nhưng người đó lại cần có nhiều loại sản
phẩm khác, chẳng hạn như lương thực. Người thợ vải sẽ mang số vải dư thừa để đổi lấy gạo. Và ngược lại, người nông dân cũng dư
thừa gạo và đồng thời thiếu vải để may mặc nên sẽ dùng gạo để đổi lấy vải.
Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Điều kiện 1: Phân công lao động xã hội (điều kiện cần để trao đổi hàng hóa)
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề
khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song, cuộc
sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc
vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.
Khi chuyên môn hóa sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao
đổi sản phẩm. Khi phân công lao động xã hội càng phát triển thì lực lượng sản xuất cũng phát triển theo, làm cho sản xuất và trao đổi
hàng hóa ngày càng được mở rộng đa dạng hơn
- Điều kiện 2: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự
độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm
lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá. Đây là điều kiện đủ để trao đổi hàng hóa.
=> Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương
đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này
được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một
trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
- Khai thác hiệu quả lợi thế về tư nhiên, xã hội, con người của từng vùng, từng địa phương
Ví dụ: các địa phương có các lợi thế khác nhau về mặt tự nhiên như: Hải Phòng có lợi thế về kinh tế biển, Quảng Ninh có lợi thế về
quặng, tài nguyên khoáng sản, Thái Bình có lợi thế về nông nghiệp… nên khi phân công lao động xã hội, các chủ thể kinh tế có xu
hướng tìm kiếm khai thác những lợi thế so sánh về mặt tự nhiên, xã hội …của từng vùng, từng địa phương. Người ta sẽ có xu hướng
đầu tư vào các nhà máy đóng tàu, chế biến hải sản ở Hải Phòng, Quảng Ninh thay vì ở Thái Bình, và ngược lại, người ta sẽ đầu tư
các nhà máy chế biến lương thực thực phẩm, phân bón, thuốc trừ sâu.. ở Thái Bình thay vì ở Hải Phòng, Quảng Ninh
- Sản xuất hàng hoá khác với kinh tế tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên
môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của
sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
- Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để
thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển.
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu
được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Khi sản xuất hàng hóa phát triển, xuất hiện nhiều loại mô hình kinh doanh mới như hãng Grab. Nếu trước kia, để kinh doanh dịch vụ
taxi hay xe ôm, thì người chủ phải sở hữu một lượng phương tiện nhất định, đó là xe máy và ô tô taxi. Tuy nhiên, khi sản xuất hàng
hóa phát triển, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, người chủ kinh doanh loại hình vận tải đã thay đổi tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh bằng cách xây dựng mô hình Grab. Rõ ràng, bây giờ hãng Grab không phải đầu tư bất kỳ một chiếc xe nào để
kinh doanh như hàng trăm, hay hàng nghìn chiếc taxi của hãng Mai Linh taxi mà vẫn có thể khai thác chuyên chở cho một lượng khá h hà lớ t ã hội Ki h tế hà hó ó là độ l để t hiề à h hề ới ă ất h iệt h
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 2/7 12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả
khách hàng lớn trong xã hội. Kinh tế hàng hóa nó là động lực để tạo ra nhiều ngành nghề mới, năng suất hơn, ưu việt hơn.
- Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa
phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Ví dụ: Việt Nam mở cửa hội nhập quốc tế và khu vực có thể tận dụng được nguồn lực về vốn, về công nghệ thậm chí học hỏi được
các phương thức quản lý tiên tiến từ bên ngoài. Câu 2: Hàng hóa
Khái niệm: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và thông qua trao đổi, mua bán.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính? Trả lời
- Thuộc tính 1: Giá trị sử dụng của HH
+ Khái niệm: giá trị sử dụng của HH là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe
đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định.
+ Đặc điểm của giá trị sử dụng
Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành nên hàng hóa đó quy định. Ví dụ than đá được dùng
làm chất đốt, đun nấu; Khi khoa học phát triển được dùng làm nguyên liệu cho 1 số ngành công nghiệp hóa chất...
Gía trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì cho dù nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc mọi kiểu tổ chức sản xuất nào thì công dụng
của nó vẫn là như vậy. Ví dụ: gạo - dùng để ăn
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng
hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Thuộc tính 2: Giá trị hàng hoá.
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị
sử dụng khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau về chất, tại sao chúng lại có thể
trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào đó.
C.Mác đã nghiên cứu và chỉ ra rằng: Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có
một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều
kiện cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm
sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để
sản xuất ra vải hoặc thóc, những người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho
chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một
lượng thóc nhiều hơn (1 m vải = 10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao
phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi.
+ Khái niệm: giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa, kết tinh trong hàng hóa ấy
+ Đặc điểm của giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là phạm trù lịch sử.
Giá trị hàng hóa là nội dung cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị.
Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa, biểu hiện mới quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính.
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc, nó vừa thống nhất và vừa mâu thuẫn với nhau.
- Thống nhất: Cùng tồn tại trong 1 hàng hóa, thiếu 1 trong 2 thuộc tính thì sản phẩm đó không là hàng hóa. Ví dụ hàng lỗi, hàng phế
phẩm không được coi là hàng hóa vì chúng không có giá trị sử dụng, không được đem ra trao đổi, mua bán. - Mâu thuẫn:
+ Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ
quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử
dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy,
trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
+ giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện trong lĩnh vực tiêu dùng.
* Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của
lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá C Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 3/7 12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả
lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể
có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ
mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về bào, khoan, đục;
phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế. Lao động cụ thể là một
phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao
động cụ thể có thể thay đổi.
- Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao phí sức lực nói chung của con người, không kể
đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng. Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may,
nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ còn
có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao
phí đồng chất của con người. Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý. Nhưng không phải sự
hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá, do
mục đích của sản xuất là để trao đổi. Vì vậy, xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh
được với nhau thành một thứ lao động đồng chất, tức lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang
bằng trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về lao động
trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hoá.
* Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá.
Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao
động... Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian lao động quyết định.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay
đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
- Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động:
+ Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
+ Năng suất lao động tỉ lệ nghịch với lượng giá trị trong 1 đơn vị hàng hóa. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết
để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm,
thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một
đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị của
mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động.
+ Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
+ Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức
độ khẩn trương, căng thẳng của lao động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian
tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động
cũng giống như kéo dài thời gian lao động và lượng giá trị của hàng hóa không phụ thuộc vào cường độ lao động
- Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động giản đơn và lao động phức tạp. + Lao động giản đơn
là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao
động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội
lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong
quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được
đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
- Cấu thành lượng giá trị hàng hoá :Để sản xuất ra hàng hoá cần phải chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các
yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động sống. Vì vậy, lượng giá trị hàng hoá được cấu thành bởi
cả giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hoá, tức là giá trị cũ (ký hiệu là c) và hao phí lao động sống của
người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá, tức là giá trị mới (ký hiệu là v + m). Giá trị hàng hoá = giá trị cũ tái hiện + giá trị
mới. Ký hiệu: W = c+ v+ m.
Câu 3: Bản chất và chức năng của tiền tệ? Trả lời
a. Bản chất của tiền tệ.
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá đem trao đổi hể hi l đ h i biể hi h i h i ấ h h
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 4/7 12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả
đổi; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
b. Các chức năng của tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân
tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết
phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của
vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí
để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định: + Giá trị hàng hoá. + Giá trị của tiền.
+ Ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là
một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các
phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi
dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường
bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị
của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
- Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm
chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có
thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
- Phương tiện cất trữ: Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này
là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng
phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách
tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông.
Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và
trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền
làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông
để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu
trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi
hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho
các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
- Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền
phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán
hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội. Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng
hoá quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh
sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Câu 4: Một số quy luật của thị trường? Trả lời
Trên thị trường có nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen nhau, và có quan hệ mật thiết với nhau, sau đây là một số quy luật cơ bản : Quy luật giá trị
Yêu cầu của quy luật này là sản xuất và trao đổi hang hoá được tiến hành phù hợp với hao phí lao động cần thiết tạo ra hàng hoá.
Quy luật giá trị được thể hiện như quy luật giá cả và giá cả thì luôn biến động xoay quanh giá trị.
Do quy luật giá trị ( biểu hiện thông qua giá cả, làm cho người bán hàng hoá mở rộng hoặc thu hẹp bớt quy mô sản xuất loại hàng
hoá mà giá cả thấp hơn giá trị để dồn vào sản xuất loại hàng hoá nào có giá cả cao hơn giá trị )
Quy luật cung cầu giá cả
Quy luật cung cầu nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn
luôn có xu thế chuyển động xích lại với nhau tạo thế cân bằng trên thị trường.Cầu là một đại lượng tỷ lệ nghịch với giá, cung là một
đại lượng tỷ lệ thuận với giá. Khi cầulớn hơn cung thì giá cả cao hơn giá trị và ngược lại
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 5/7 12/1/25, 10:00 PM
Ôn thi EZ- Ôn thi cuối kỳ - luyện tiếng Anh hiệu quả Quy luật canh tranh
Các chủ thể tham gia cạnh tranh phải dùng mọi biện pháp để độc chiếm hoặc chiếm hữu ưu thế thị trường về sản phẩm cạnh tranh,
nhờ đó thu lợi nhuận kinh tế cao nhất trong phạm vi cho phép.
Các phương pháp cơ bản để cạnh tranh là:
- Thu nhỏ chi phí lao động cá biệt của doanh nghiệp dưới mức chi phí lao động xã hội trung bình.
- Sử dụng tích cực các yếu tố về thị hiếu, tâm lý khách hàng để sớm đưa ra các sản phẩm mà người tiêu dùng chấp nhận.
- Sử dụng sức ép phi kinh tế để độc chiếm hoặc chiếm ưu thế trên thị trường.
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật này chỉ ra rằng số lượng (hay khối lượng ) tiền lưu thông phải phù hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Số lượng tiền cho lưu thông được tính bằng thương giữa tổng giá trị hàng hoá lưu thông với tốc độ vòng quay của tiền.
Tiền tệ là phương tiện của trao đổi ( lưu thông), là thứ dầu mỡ bôi trơn cho quá trình trao đổi. Nếu vi phạm quy luật này sẽ dẫn tới
ách tắc trong lưu thông hoặc lạm phát, gây khó khăn, dẫn đến mất ổn định nền kinh tế.
Ngoài ra thị trường còn có các quy luật khác như quy luật kinh tế, quy luật giá trị thặng dư…
Câu 5: Vận dụng lý luận về hàng hóa của Các Mác để đề xuất giải pháp phát triển một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
Trước khi làm phần vận dụng, các bạn hãy khái quát lại 1 số vấn đề trong lý luận về hàng hóa của Các Mác (bạn vui lòng xem câu 2 ở trên)
Đề xuất 1 số kiến nghị để phát triển doanh nghiệp May 10
a. Chú trọng việc nghiên cứu thị trường khách hàng nhằm đổi mới các sản phẩm phù hợp nhu cầu và thị hiếu thị trường.
- Vận dụng đặc điểm giá trị sử dụng của hàng hóa không dành cho bản thân người sản xuất mà là cho người tiêu dùng, hay giá trị sử
dụng của hàng hóa cho xã hội. Vì vậy công ty cần phải nắm rõ nhu cầu sử dụng của khách hàng hiện nay để có thể tạo ra những sản
phẩm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách. Chẳng hạn như bên cạnh những sản phẩm truyền thống như áo sơ mi, quần âu, để phát
huy được giá trị sử dụng của các sản phẩm với khách hàng, công ty cần đa dạng hóa các sản phẩm từ phong cách, kiểu dáng,… phù
hợp với nhu cầu thời trang của khách hàng như áo dài cách tân với khách Việt mỗi dịp xuân đến Tết về, quần áo phá cách, hiện đại cho giới trẻ,…
b. Công ty cần chú trọng sản xuất hàng hóa dựa trên cả 2 thuộc tính là giá trị (mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp) và giá trị
sử dụng (cho người tiêu dùng), chứ không phải chỉ quan trọng đến giá trị mà bỏ qua giá trị sử dụng và ngược lại
- Giải pháp này được em đưa ra dựa trên sự vận dụng lý thuyết mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa. Trong đó C Mác khẳng
định, “2 thuộc tính của hàng hóa có tính thống nhất vì cùng tồn tại trong cùng 1 loại hàng hóa, thiếu 1 trong 2 thuộc tính đó thì sản
phẩm không được coi là hàng hóa”. Các nhà sản xuất thường sẽ quan tâm tới giá trị nhưng để đạt được về các mục đích của giá trị
thì cần phải chú ý tới giá trị sử dụng. Bởi người tiêu dùng sẽ quan tâm về giá trị sử dụng nhằm đáp ứng được yêu cầu của mình. Chỉ
khi người tiêu dùng có được giá trị sử dụng, thì giá trị của hàng hóa mới được trả. Do đó mà công ty cần phải coi trọng cả 2 thuộc
tính giá trị và giá trị sử dụng trong 1 hàng hóa.
- Công ty cần triệt để loại bỏ những số lượng hàng lỗi, hàng phế phẩm... bởi nó không có giá trị sử dụng cho người tiêu dùng. Để
giải quyết tốt vấn đề này, công ty cần tiếp tục xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm, thường xuyên kiểm tra, giám sát
công việc của đội ngũ công nhân, sẵn sàng loại bỏ những sản phẩm lỗi để tránh ảnh hưởng đến chất lượng và thương hiệu của công
ty cũng như mất đi sự tin tưởng của khách hàng.
c. Chú trọng nâng cao năng suất lao động
Vận dụng lý thuyết “lượng giá trị hàng hóa tỉ lệ nghịch với năng suất lao động” để em đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao
động của cho công ty May 10:
+ Ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Bản thân doanh nghiệp vừa phải nỗ lực cải tiến, hoàn thiện công nghệ hiện
có, vừa phải tranh thủ tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, giảm chi phí sản xuất. Đổi
mới công nghệ phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh của công ty và xu thế phát triển của công nghệ thế giới để lựa chọn công nghệ
thích hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm dây
chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng tránh đầu tư lan man. Dây chuyền máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm hơn,
đồng đều hơn, có tính chuyên môn hóa cao, giảm bớt sức lao động chân tay trong mỗi sản phẩm; như vậy giá thành cũng có thể hạ.
+ Đẩy nhanh và khai thác triệt để công suất của máy móc thiết bị .Việc tăng cường thời gian sử dụng và tăng công suất máy làm số
tiền khấu hao máy tăng lên, nhưng số lượng sản phẩm làm ra nhiều nên chi phí khấu hao cho một sản phẩm lại giảm đi từ đó giá
thành sản phẩm hạ xuống.
d. Tăng mức độ phức tạp của lao động để tạo ra nhiều giá trị hơn
Vận dụng lý luận của C. Mác “ Trong cùng 1 thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn hay lao động
phức tạp là lao động giản đơn được nhân bội lên”
Một sản phẩm làm ra có chất lượng tốt đòi hỏi lao động kết tinh trong đó phải phức tạp, tỉ mỉ. Vì vậy, tay nghề của lao động rất quan
trọng. Đào tạo nghề cho lao động của công ty là một trong những giải pháp cần thiết. Nâng cao chất lượng nguồn lao động đồng
nghĩa với việc mở các trường dạy nghề, tập huấn kỹ thuật, cho người lao động tiếp cận với tiến bộ của khoa học công nghệ trong nền ả ất hà hó hiệ N ài bồi d ỡ kiế thứ h ê ô kỹ ă t hề ò hải â t ì h độ tổ hứ ả lý
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 6/7 / / 5, 0 00 Ô t Ô t cuố ỳ uyệ t ế g ệu quả
sản xuất hàng hóa hiện nay. Ngoài bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng, tay nghề còn phải nâng cao trình độ tổ chức quản lý,
tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Công ty May 10 cần thông qua các chương trình đào tạo cụ thể để phù hợp với từng
đối tượng, từng vị trí làm việc. Ngoài ra còn có thể phổ biến cho công nhân các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm, giá cả
thị trường và kiến thức về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của công ty nhằm tạo
ra một lực lượng lao động có đủ khả năng tiếp thu, thích ứng với môi trường kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay. Thường xuyên
quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần người lao động thông qua việc cải thiện điều kiện, môi trường làm việc, nâng cao
thu nhập, phúc lợi cho người lao động. Đồng thời tuyển dụng thêm những lao động có năng lực, trình độ cao từ trong và ngoài nước ĐÃ HOÀN THÀNH
Để lại bình luận của bạn với tư cách thnhtra_149 Gửi bổ sung Gửi bình luận
https://www.onthiez.com/bai-tap/hoc-ly-thuyet.2323 7/7