Phẩm chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị. Liên hệ với thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên hệ với vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận chính trị học
Khái niệm, phẩm chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị. Khái niệm thủ lĩnh chính trị. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị. Vai trò của thủ lĩnh chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh- thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân. Người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân theo quan điểm mácxit. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC -------------------- TIỂU LUẬN
Môn: Chính trị học
Đề tài: Phẩm chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị. Liên hệ với thủ lĩnh chính trị
của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên hệ với vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện
Sinh viên: Nguyễn Minh Dung
Mã SV: Biên tập Xuất Bản K41
Lớp: Biên tập Xuất bản K41
Giảng viên: Tô Thị Oanh Hà Nội, 2022 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................3
1. Lí do lựa chọn đề tài......................................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu.........................................................................................................................4
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu..................................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................................5
II. PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................................................5
Chương 1: Khái niệm, phẩm chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị.......................................................5
1. Khái niệm thủ lĩnh chính trị.........................................................................................................5
2. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị......................................................................................6
3. Vai trò của thủ lĩnh chính trị.........................................................................................................8
Chương 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh- thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân................................10
1. Người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân theo quan điểm mácxit...............................10
2. Hồ Chí Minh- vị thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam.....................................11
Chương 3. Vai trò của người đứng đầu Việt Nam hiện nay...........................................................19
Chương 4. Lời kết...............................................................................................................................21
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................................22 I. MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Dọc theo suốt chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại, ở bất cứ nơi đâu,
vào bất cứ thời điểm nào, khi có sự xuất hiện của một nhóm người cũng sinh sống,
hoạt động, làm việc theo một tập thể, luôn không thể nào thiếu đi bóng dáng của
người thủ lĩnh. Theo Hán- Việt, “thủ” là đầu, “lĩnh” là dẫn dắt. Thủ lĩnh là những
người đi đầu, người dẫn dắt, người lãnh đạo một tập thể, tổ chức nào đó. Thủ lĩnh
là một trong những dấu hiệu mang tính cơ bản của một tổ chức, của một hoạt động
tập thể. Đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị. Chính trị có liên quan đến số đông con
người, là hoạt động mang tính tập thể của những tập đoàn người. Hoạt động tập thể
đó đòi hỏi cần có sự phân chia vai trò, chức năng quản lý có tính nghiệp vụ và sự
phục tùng, do đó cần phải thể chế hóa, chọn ra thủ lĩnh chính trị- người đứng đầu,
xác định vị thế của họ bởi quyền hành mang tính quyền lực nhất định.
Cố Tổng thống Pháp De Gaulle từng nói: “Con người không thể thiếu thủ
lĩnh, cũng như không thể thiếu thức ăn và nước uống. Những động vật chính trị
này cần phần trong tổ chức, tức là trong trật tự và các thủ lĩnh”. Thế mới thấy, ta
đều không thể phủ nhận vai trò của thủ lĩnh hay thủ lĩnh chính trị dù là trong bất cứ thời kì nào.
Trên thực tế, đội ngũ đứng đầu các tổ chức chính trị ngày càng được tuyển
chọn gắt gao, phải đảm bảo có đầy đủ cả Đức lẫn Tài. Chúng ta vẫn đang không
ngừng nỗ lực để ngày càng chạm gần tới vạch đích trở thành một nước phát triển
theo định hướng chủ nghĩa xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và
đảm bảo. Tuy vậy, chúng ta vẫn còn cách vạch đích một khoảng không nhỏ, đòi hỏi
ta cần phải có một đội ngũ lãnh đạo thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đầy
đủ phẩm chất của một người thủ lĩnh chính trị, đủ năng lực để dẫn dắt giai cấp
công nhân đi theo đúng con đường mà Bác đã lựa chọn, tìm ra những giải pháp để
hạn chế sự biến đổi tiêu cực hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiện
đại, chuyên nghiệp, năng động phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Hiểu được tầm quan trọng của đề tài, em đã quyết định lấy đề tài “Phẩm
chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị. Liên hệ với thủ lĩnh chính trị của giai cấp công
nhân Việt Nam. Liên hệ với vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài cho bài tiểu luận lần này. Bên cạnh đó, trong bài tiểu luận của mình, em cũng
đã dành riêng một phần để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí minh, người cha già
kính yêu của dân tộc, một vị lãnh tụ vĩ đại, tiêu biểu nhất của giai cấp công nhân
Việt Nam nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề thủ lĩnh chính trị ngay từ xa xưa đã trở thành đề tài nóng hổi, thường
được đưa ra nghiên cứu, bàn luận. Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam ta cũng
đá có một số các công trình nghiên cứu về thủ lĩnh chính trị, có thể kể đến như
“Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá, quy hoạch cán
bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh Quảng Bình phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hỏi đất nước” của tác giả Hồ Minh làm chủ nhiệm, xuất bản năm 2007, “Bản
lĩnh chính trị Hồ Chí Minh” của tác giả Bùi Đình Phòng, xuất bản năm 2014. Vấn
đề này cũng đã được đưa vào giáo trình môn Chính trị học để giảng dạy cho sinh
viên tại các trường đại học hiện nay, dù ngôi trường đó có chuyên hay là không
chuyên về ngành chính trị. Tuy vậy, số lượng các công trình nghiên cứu đề tài này
vẫn chưa phải là lớn. Vì thế mà ta vẫn luôn cần nghiên cứu về đề tài này nhiều hơn nữa.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu phẩm chất, vai trò của các bộ, đảng viên thuộc Đảng Cộng sản
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị và hình ảnh, bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về thủ lĩnh chính trị như khái
niệm, vai trò, phẩm chất,….. Bên cạnh đó, bài tiểu luận cũng đưa ra quan điểm,
nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích
Đề tài thực hiện với mục đích làm rõ những khái niệm, lý luận về vấn đề thủ
lĩnh chính trị, nêu cao hình ảnh của chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra những
quan điểm, chính sách đúng đắn nhằm phục vụ cho việc đào tạo và quản lý những
thủ lĩnh chính trị của thế hệ sau. 4.2. Nhiệm vụ
Trình bày được những nội dung chủ yếu về khái niệm, những yêu cầu về
phẩm chất và vai trò của thủ lĩnh chính trị nói chung
Trình bày được những nghiên cứu, quan điểm về thủ lĩnh chính trị của giai
cấp công nhân Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trình bày được vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo
dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được thực hiện qua các phương pháp nghiên cứu như: Tìm
kiếm thông tin, phân tích tài liệu, suy luận logic, tổng hợp kiến thức và đưa ra
những quan điểm, đánh giá cá nhân từ cơ sở thông tin thực tế. II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Khái niệm, phẩm chất, vai trò của thủ lĩnh chính trị
1. Khái niệm thủ lĩnh chính trị
Thủ lĩnh chính trị là một khái niệm cơ bản của chính trị học dung để chỉ
những cá nhân xuất sắc có vai trò quan trọng trong lãnh đạo và dẫn dắt các phong trào chính trị.
Theo khía cạnh lịch sử vấn đề thời cổ đại thì ở phương Tây, nhà tư tưởng Hy
Lạp cổ đại Xênôphôn (427- 355 TCN), điều chủ đạo trong tư tưởng chính trị của
ông là quan niệm về thủ lĩnh chính trị. Theo ông thủ lĩnh chính trị phải là người
biết chỉ huy, đó không phải là một người được quần chúng bầu ra, cũng không phải
là những người được chỉ định bằng bỏ thăm, cũng không phải là người chiếm đoạt
quyền lực bằng bạo lực, các thủ lĩnh là những người biết chỉ huy. Ông cho rằng
“thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, nhận thức được chính trị, giỏi kỹ thuật,
giỏi thuyết phục, vì lợi ích chung, lôi kéo, tập hợp được quần chúng”. Bên cạnh đó,
Platon (428- 347 TCN) lại quan niệm thủ lĩnh chính trị là người biết cai trị với sự
bằng lòng của nhiều người.
Vào thời Trung cổ, Ôguyxtanh cho rằng người chỉ huy phải có tầm cao về trí
tuệ, óc quyết đoán, cương nghị, trước hết phải tự biết chỉ huy mình trước khi chỉ
huy người khác, khiêm tốn, sống điều độ, biết giới hạn tham vọng.
Ở Phương Tây thời kì cận đại, các trường phái thần học, duy tâm, gia đình
học tuyệt đối hóa hoặc phủ nhận hóa vai trò của thủ lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, do
xuất phát từ quan điểm triết học khác nhau về tác dụng của các cá nhân trong lịch
sử, đã xuất hiện những quan niệm khác nhau về vai trò của vĩ nhân- thủ lĩnh. Đối
với các nhà triết học duy tâm, họ cho rằng các vĩ nhân có vai trò quyết định sự phát
triển của lịch sử. Sở dĩ xã hội thời xưa đầy khó khan, biến động, vất vả, phân chia
tầng lớp xã hội giàu nghèo rõ rệt là vĩ chưa có vix nhân hiểu được ý trời hay chân
lý vĩnh cửu. Những vĩ nhân xuất hiện sẽ giúp xã hội sớm được tự do, bình đẳng,
bác ái, xóa bỏ được những ngày tháng đau thương, tang tóc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, khẳng định vai trò sáng tạo ra
lịch sử của quần chúng nhân dân, chủ nghĩa Mác- Lênin rất coi trọng vai trò của
lãnh tụ, của những nhà lãnh tụ, thủ lĩnh xuất sắc trong sự phát triển của xã hội.
Theo Mác và Ăng ghen, lãnh tụ chính trị là những cá nhân kiệt xuất do phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên. Những nhà lãnh tụ không phải ngẫu
nhiên mà có, họ phải đi qua cả một quá trình đấu tranh cách mạng của đông đảo
quần chúng nhân dân, của cả một quá trình lịch sử tạo nên những điều kiện nhất
định cho việc xuất hiện những vị lãnh tụ vĩ đại, đủ đức và tài để giải quyết những
nhiệm vụ lịch sử. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa bao giờ xem nhẹ vai
trò của cá nhân kiệt xuất đối với phong trào cách mạng. Khẳng định vai trò to lớn
đó Lê nin khẳng định “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin.
Theo giải nghĩa từ, “Thủ lĩnh” có nghĩa là người cầm đấu (“Thủ”: đầu,
“lĩnh”: cầm”) là thành viên đứng đầu của một tổ chức hoặc một tập thể mà sự ảnh
hưởng của cá nhân ấy cho phép người đó đóng vai trò trong các quá trình, các tình
huống hoạt động của tổ chức, tập thể. Thủ lĩnh chính trị là một cá nhân kiệt
xuất trong lĩnh vực chính trị, xuất hiện và trưởng thành từ phong trào cách
mạng của quần chúng ở những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ về
lợi ích, mục tiêu và lý tưởng của giai cấp, có trí thức, có năng lực tổ chức và
tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.
2. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị
Đã là một vị thủ lĩnh chính trị thì dù ở bất cứ chế độ xã hội nào và trong bất
cứ thời đại nào cũng cần phải có những phẩm chất nhất định. Tuy nhiên, dựa theo
chế độ chính trị, ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, người thủ lĩnh
chính trị cũng cần có cho mình những phẩm chất riêng biệt. Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ, thủ lĩnh chính trị lại cần có những phẩm chất khác với vị thủ lĩnh ở chế
độ phong kiến hay chế độ giai cấp tư sản. Thủ lĩnh chính trị của giai cấp vô sản sẽ
khác về chất so với các vị thủ lĩnh khác dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Bởi vậy,
khi xem xét về phẩm chất của thủ lĩnh chính trị cần có quan điểm khách quan, toàn
diện, dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đặc biệt phải có quan điểm giai cấp rõ
rang vì chính trị là đấu tranh cho lợi ích của giai cấp.
Theo đánh giá của các nhà khoa học ở các nước xã hội chủ nghĩa, những
phẩm chất cần có của các nhà lãnh đạo là: Có khả năng tác động đối với mọi người
xung quanh, Có khả năng hiểu biết mọi người và phản ứng nhanh, Có trí tuệ thực
tiễn, tìm ra được các phương án bố trí mọi người dưới quyền, Có khả năng tự phê
bình, biết nhìn thấy khuyết điểm của mình, Biết cách xây dựng các mối quan hệ
với người xung quanh, Có trình độ tự duy trí tuệ rộng, Có tính sáng tạo, Có tính
đòi hỏi với bản thân và người khác, Có khả năng tổ chức, biết đề ra mục tiêu, chức
năng, nhiệm vụ cụ thể, biết tổ chức quá trình thực hiện nhiệm vụ, Có khả năng cổ
vũ mọi người làm việc, biết đưa công tác kiểm soát vào nề nếp, Biết độc lập đánh
giá tình huống và bảo vệ ý kiến của mình, Có ý chí, Có khả năng làm việc cao.
Theo các nhà khoa học phương Tây, những phẩm chất cần có của người lãnh
đạo là: có trình độ hiểu biết và khả năng hiểu biết uyên thâm các lĩnh vực; Có trình
độ tổ chức: khả năng đề ra mục tiêu cho thập thể; phân công các chức cụ thể cho
từng người; biết tổ chức công việc tốt; khả năng động viên mọi người; khả năng
kiểm soát, kiểm tra công việc; Có khả năng giao tiếp với mọi người, biết tự mình
thấy mình và nhận xét về người khác; Có tính trung thực và công bằng; Có bản
lĩnh và quyết đoán; khả năng đặt ra vấn đề, thông qua đó vượt qua khó khăn; khả
năng so sánh các sự việc xung quanh; Tính chân thành; Tính chịu đựng; Tính mục
tiêu; Có khả năng đồng cảm; Phẩm chất về trí tuệ thể hiện khi ra quyết định, có óc
suy xét trên cơ sở khoa học; Nắm được nghệ thuật lãnh đạo. Đó là hành vi đúng
lúc, đúng chỗ, chính xác, là tác phong, cách nói; biết giấu đi những gì thuộc về các
tính; biết giữ mình đúng ở vị trí lãnh đạo; Có lòng tin vào chính bản thân mình; Có
khả năng tự kiểm tra bản thân; Có khả năng làm mất đi căng thẳng của chính mình
và xung quanh; Có khả năng gìn giữ và bảo vệ uy tín của mình; Có chính kiến
riêng và biết bảo vệ chính kiến; Có sự say mê và lòng tin; Có trình độ về văn hóa,
nghệ thuật, xã hội; Hình dáng bề ngoài: sự gọn gàng, ngăn nắp, lịch sự; Có lòng tin
vào cấp dưới và quần chúng; Là người tốt trong gia đình…..
Ta có thể khái quát về phẩm chất của người lãnh đạo- thủ lĩnh chính trị thành 5 nhóm như sau:
Thứ nhất, về trình độ hiểu biết: người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải là người
thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có tư duy khoa học; nắm vững được
quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình chính trị; có khả năng dự
đoán được tình hình; làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý
Thứ hai, về phẩm chất chính trị: thủ lĩnh chính trị phải là người giác ngộ lợi ích
giai cấp; đại diện tiêu biểu cho lợi ích giai cấp; trung thành với mục tiêu lý tưởng
đã chọn; dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững
vàng trước những diễn biến phức tạp của lịch sử.
Thứ ba, về năng lực tổ chức: thủ lĩnh chính trị là ngưới có khả năng về công tác
tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêu đúng; 72 phân công nhiệm vụ đúng chức năng
cho cấp dưới và cho từng người; biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; có khả
năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động; có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc.
Thứ tư, về đạo đức, tác phong: thủ lĩnh chính trị phải là người có tính trung
thực, công bằng không tham lam, vụ lợi; cởi mở và cương quyết; có lố sống dản dị;
có khả năng giao tiếp và có quan hệ tốt với mọi người; biết lắng nghe ý kiến của
người khác; có lòng tin vào chính bản thân mình; có khả năng tự kiểm tra bản thân,
khả năng giữ gìn và bảo vệ ý kiến của mình; có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới.
Thứ năm, về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường
độ cao, có khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, những lúc phong trào lâm
vào khó khăn, thủ lĩnh chính trị có thể đưa ra được những quyết đinh sáng suốt;
nhạy cảm và năng động; biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.
3. Vai trò của thủ lĩnh chính trị
Thủ lĩnh chính trị có vai trò to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, vị thế giai cấp hay tầng lớp xuất
thân mà vai trò của thủ lĩnh chính trị có thể là tích cực mà cũng có thể là tiêu cực.
3.1. Vai trò tích cực
Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị chỉ xuất hiện khi giai cấp sản sinh ra
thủ lĩnh là tiến bộ, hoạt động của thủ lĩnh phù hợp với quy luật khách quan, với
tiến trình phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của đông đảo
quần chúng nhân dân. Đó chính là lãnh tụ của quần chúng. Chỉ như vậy họ mới tập
hợp, động viên được quần chúng ủng hộ. Sức mạnh của thủ lĩnh là sức mạnh của quần chúng.
Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị được thể hiện ở những điểm sau:
- Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ
lĩnh chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ
chức quyền lực mà họ chính là linh hồn của hệ thống đó, hướng hệ thống quyền
lực phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, giai cấp, góp phần tạo động lực
thúc đẩy xã hội phát triển
- Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần
chúng, thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu
tranh chính trị nhằn giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù hợp với nhu cầu
xã hội và lợi ích giai cấp.
- Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp,
của dân tộc, do có khả năng nhìn xa trông rộng cho nên không nhưngc có khả năng
tổ chức, tập hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào mà còn có khả năng đưa phòn trào
vượt qua nhưng khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi 73 mục tiêu chính
trị đề ra. Trong thực tiễn lịch sử, V.I.Lênin đã cùng Đảng Bônsêvích Nga đã đưa
nước Nga thoát khỏi cuộc bao vây tấn công của 14 nước đế quốc, thoát khỏi thời
ký kiệt quệ của cuộc nội chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng côngnj sản Việt
Nam đưa cách mạng nước ta đi đúng quỹ đạo của cách mạng vô sản, vượt qua
hiểm nghèo ”ngàn cân treo sợi tóc” (1946), để giành thắng lợp trong chiến tranh chống thực dân Pháp...
- Thủ lĩnh chính trị có vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại
hiệu quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng. Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ của thời đại đặt ra, thủ lĩnh chính trị đi vào lịch sử, sống
trong tân tưởng của thời đại sau
3.2. Tác động tiêu cực
Thông thường, ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị là do vị thế của giai
cấp sản sinh ra thủ lĩnh quyết định. Chẳng hạn, giai cấp tiến bộ đại diện cho lực
lượng sản xuất tiến bộ thì thủ lĩnh của giai cấp ấy có vai trò tích cực, ngược lại, thủ
lĩnh của giai cấp phản động tất yếu sẽ có vai trò tiêu cực đối với sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, ở giai cấp tiến bộ cũng có trường hợp, do người lãnh đạo thiếu
tài, kém đức hoặc có tài nhưng kém đức, cá nhân chủ nghĩa, chuyên quyền độc
đoán nên không có khả năng nhận thúc đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật
khách quan, hoặc nhận thức đúng mà hoạt động trái với quy luật khách quan, trái
với lợi ích của quần chúng, đi ngược xu thế cuat thời đại. Trong trường hợp này,
vai trò của người thủ lĩnh kìm hãm sự phát triển của lịch sử.
Ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị thể hiện ở những điểm sau:
- Do thiếu tài, kém đức nên không có khả năng lãnh đạo phong trào, không
biết ”chớp thời cơ, vượt thử thách” để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đặt ra, đặc biệt,
trước những bước ngoặt của lịch sử thường tỏ ra bối rối, giao động, thậm chí trở
nên phản động, lái phong trào đi ngược lợi ích của quần chúng
- Người thủ lĩnh không xuất phát từ lợi ích chung mà vì quyền lợi riêng,
động cơ không trong sáng nên thường gây bè phái riêng rẽ, mất đoàn kết trong hệ
thống tổ chức quyền lực, làm suy giảm vai trò, sức mạnh của tổ chức, hạn chế,
ngăn cản khả năng của mỗi cá nhân, làm giảm hiệu quả giải quyết những nhiệm vụ,
mục tiêu chính trị đề ra
- Do phong cách làm việc độc đoán chuyên quyền, hoặc do năng lực hạn chế
của người thủ lĩnh mà nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động bị tước bỏ,
nhân quyền thường bị vi phạm, phong trào cách mạng thiếu động lực và sinh khí để phát triển.
- Trong điều kiện thế giới biến động đầy phức tạp như hiện nay, quyết định
sai trái của ”những cái đầu nóng” của các vị thủ lĩnh khiến nhân loại phải trả giá
đắt, đôi khi không thể lường trước được.
Chương 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh- thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân
1. Người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân theo quan điểm mácxit
Lênin dung “người lãnh đạo chính trị” thay cho thủ lĩnh chính trị. Theo ông,
người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân, thông thường là những người
đứng đầu, những người lãnh đạo tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức chính
trị- xã hội khác. Họ là những người được trưởng thành, phát triển trong thực tiễn của
cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và mọi chế độ bóc lột
người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong phạm vi
quốc gia cũng như trên toàn thế giới. V.I.Lênin cho rằng: “một người lãnh đạo
chính trị không những phải chịu trách nhiệm về cách mình lãnh đạo, mà còn phải
chịu trách nhiệm về hành động của những người dưới quyền mình nữa”. Với ông,
để đánh giá phẩm chất của người lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân cần
xuất phát từ quan điểm: “Quan điểm về sự toàn tâm toàn ý. Theo quan điểm chính
trị. Theo hiểu biết về công việc. Những khả năng cai trị”.
5 tiêu chuẩn được Lênin đưa ra khi nói về phẩm chất của Bộ trưởng là “Có
phẩm chất chính trị”, “Có tài tổ chức”, “Tận tụy với công việc”, “Có sự hiểu biết
công việc”, “Có khả năng làm việc với những người xung quanh”. Kế thừa những
di sản quý báu của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn xác định: đã là
người lãnh đạo thì ở mọi thời kỳ đều phải có đủ phẩm chất và năng lực, đủ Đức và
Tài. Trong đó, Đức là gốc, Tài là quan trọng. Yếu tố Đức cần được hiểu là phẩm
chất chính trị, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, long trung thành với Đảng, với
nước, với dân, với chế độ, kiên định mục tiêu, lý tưởng, quyết tâm phấn đấu hy
sinh cho mục tiêu, lý tưởng đó. Đó là đạo đức trong sáng, trung thực, cần kiệm,
liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng, không đặt lợi ích cá nhân lên trên
lợi ích của Đảng và của dân tộc, không cơ hội. Đó là lối sống trong sạch, lành
mạnh, gần gũi nhân dân, gương mẫu và gắn bó với quần chúng. Đó là phong cách
dân chủ, khoa học, sâu sát; có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm túc đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; chấp hành sự phân công, điều
động của tổ chức; có ý thức lãnh đạo tập thể đi đôi với trách nhiệm cá nhân. Ngoài
Đức, người cán bộ lãnh đạo cần phải có Tài, đó là tri thức, trình độ trí tuệ, năng lực
tổ chức, khả năng quản lý điều hành...
Tóm lại, phẩm chất của người lãnh đạo của giai cấp công nhân là: tuyệt đối
trung thành với chủ nghĩa cộng sản, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng
giai cấp và vận dụng sáng tạo quy luật phát triển của xã hội, biết nhìn xa thấy rộng,
định ra được chiến lược, sách lược đúng đắn; biết đánh giá đúng tương quan lực
lượng, phán đoán đúng tình thế, nhận định đúng thời cơ, biết sử dụng mọi hình
thức đấu tranh của quần chúng và nhanh chóng chuyển từ hình thức này sang hìn
thức khác khi tình thế thay đổi, có tài trí cao, có quyết tâm lớn, biết tiến, biết lui
đúng lúc để đưa sự nghiệp cách mạng đến thăng lợi, gắn bó mật thiết với quần
chúng, được dân yêu, dân mến, dân tin, có tinh thần đổi mới, đủ năng lực lãnh đạo
thành công sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, có lòng yêu nước thiết tha và
chủ nghĩa quốc tế trong sáng cao cả.
2. Hồ Chí Minh- vị thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam
2.1. Bản lĩnh chính trị của thủ lĩnh chính trị
Thủ lĩnh chính trị hay còn gọi là người lãnh đạo cao nhất, có uy tín nhất, có
chức vụ cao nhất trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể như Đảng, Nhà nước. Quyền
hành của lãnh tụ được tổ chức suy tôn, bầu lên, ủy nhiệm quyền lực của tổ chức,
của nhân dân cho người này theo điều lệ hoạt động của tổ chức hay pháp luật nhà
nước. Lãnh tụ cũng là người lựa chọn mục tiêu chính trị, đề xuất đường lối, chính
sách, hướng dẫn thực hiện mục tiêu chính trị. Do vậy, bản lĩnh chính trị là một
phẩm chất vô cùng quan trọng của một người thủ lĩnh chính trị của giai cấp công
nhân nói riêng và của đất nước nói chung.
Bản lĩnh là phẩm chất, đức tính của cá nhân, thể hiện thông qua việc tự
quyết định thái độ, hành động của mình một cách độc lập, không vì áp lực bên
ngoài mà tự quyết định thái độ, hành động của mình một cách độc lập, không vì áp
lực bên ngoài mà thay đổi lập trường, quan điểm. Thủ lĩnh chính chị muốn có được
bản lĩnh chính trị phải cần có đủ tài năng, lý trí, ý chí và cần dung cảm, dám nghĩ
dám làm dám chịu, làm những gì mình cho là đúng, dám đối mặt với sự thật,
không ngại thử thách bản thân và có tinh thần trách nhiệm. Hơn thế nữa, bản lĩnh
là sự can đảm, dám bỏ qua mọi thứ không cần thiết để thay đổi bản thân mình.
2.2. Bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh
Bản lĩnh nói chung, bản lĩnh chính trị nói riêng không phải tự nhiên có mà
phải được rèn luyện một cách có ý thức trên cơ sở phát huy những nhân tố chủ
quan hết hợp với các nhân tố khách quan. Sự hình thành bản lĩnh chính trị Hồ Chí
Minh cũng vậy. Đó là cả một quá trình tích hợp các nhân tố chủ quan và khách
quan, quá trình Hồ Chí Minh không ngừng tự giác rèn luyện các phẩm chất cơ bản
từ đạo đức, trí tuệ cho đến phương pháp, phong cách trên cơ sở phát huy các phẩm
chất ưu việt của bản thân, đồng thời kết hợp với sự lựa chọn, kế thừa các giá trị
tinh hoa của dân tộc và thời đại nhằm mục đích cao nhất là phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp chính trị của Người.
2.2.1. Cơ sở hình thành bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh. a. Cơ sở khách quan Cơ sở thực tiễn:
Đó là thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Giữa thế kỉ
XIX (1858), trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, thực dân Pháp
tiến hành xâm lược nước ta. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, trở thành
một nước thuộc địa. Trong lúc triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, từng bước đầu
hàng quân xâm lược thì dân tộc Việt Nam đã anh dung vùng lên kháng chiến tạo
thành các phong trào yêu nước mạnh mẽ, trong đó có Tôn Thất Thuyết, Phan Đình
Phùng, Nguyễn Xuân Ôn,….. Tuy vậy, họ đều lần lượt thất bại dù giàu long yêu
nước căm thù giặc do chưa có đường lối rõ ràng, không có khả năng thống nhất phong trào.
Đầu thế kỷ XX, tư tưởng Duy Tân, tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua
các sách báo nước ngoài dần dần du nhập vào Việt Nam. Các phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân daan ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất
hiện của các phong trào như Đông Du (1905-1908), Duy Tân (1906-1908), Đông
Kinh Nghĩa Thục (1907), Việt Nam Quang phục hội (1912), v.v… Người thì chủ
trương dựa vào Pháp để “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như Phan Châu
Trinh, người thì hi vọng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật để đánh đuổi Pháp như Phan
Châu Trinh, người thì hi vọng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật để đánh đuổi Pháp như
Phan Bội Châu,v.v… tuy nhiên đều chỉ rộ lên trong một thời gian ngắn rồi đều bị
dập tắt trước sức mạnh của kẻ thù.
Thực tiễn đó đã khơi dậy khát vọng và mục đích chính trị của Nguyễn Tất
Thành, từ đó Người suy ngẫm về những hạn chế lịch sử trên con đường cứu nước
của các bậc tiền nhân và lựa chọn một hướng đi, một con đường phù hợp hơn với thời cuộc.
Bên cạnh đó, bản lĩnh của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành con
được hình thành từ những yêu cầu của thực tiễn thời đại đầu thế kỷ XX. Nguyễn
Tất Thành, sau đổi tên là Nguyễn Ái Quốc, ra đi tìm đường cứu nước và bước lên
vũ đài đấu tranh chính trị vào lúc mà chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa trở thành mâu thuẫn thời đại.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn là hành độn g riêng rẽ của quốc gia
này chống lại sự xâm lược và thống trị của quốc gia khác, nó đã trở thành một bộ
phận của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Trong bối cảnh đó,
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại nổ ra và thắng lợi vào năm 1917 đã mở ra
một chương mới trong lịch sử loài người. Cách mạng Tháng Mười là một hiện
tượng mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nó chứng minh chủ
nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản là một xu hướng khách quan. Tháng 3
năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành Bộ tham mưu chiến đấu
của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra ời của Quốc tế Cộng sản đã
tạo điều kiện, tiền đề lý luận và thực tiễn và là chỗ dựa của phong trào giải
phóng dân tộc, thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá những cuộc cách mạng tư
sản là những cuộc “cách mạng không đến nơi”, không giải phngs được công,
nông và những người lao động. Người khẳng định trên thế giới bây giờ chỉ có
Cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi. Cách mạng Việt Nam
muốn thành công phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, phải nhờ Đệ
tam quốc tế. Nói cách khác, con đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con
đường cách mạng vô sản. Cơ sở lý luận:
Trước hết, bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh là sự kế thừa bản lĩnh của
dân tộc. Bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trên nền
tảng lịch sử lâu đời. Dân tộc Việt sinh sống trên vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa,
nóng ẩm hoàn cảnh thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Vì thế, người Việt cổ phải
tự rèn luyện, thích ứng, vừa phải dựa vào điền kiện tự nhiên vừa lao đọng sản
xuất, chống thiên tai một cách bền bị, ngoan cường mới có thể tồn tại và tự
khẳng định mình. Bản lĩnh dân tộc Việt Nam còn được hun đúc trong quá trình
đấu tranh lâu dài chống lại các cuộc xâm lược của ngoại bang. Cùng với việc
đánh đuổi giặc ngoại xâm, cư dân Việt đã bám chắc địa bàn làng xã để xây dựng
kinh tế, gìn giữ giá trị văn hóa, truyền thống, khôn khéo chống lại chiến lược
đồng hóa của một quốc gia mạnh hơn nhiều lần, có nền văn hóa, văn minh phát
triển cao. Qua đó, cư dân Việt còn tích lũy được những giá trị văn hóa, dày dặn
hơn về quân sự và chính trị. Đó là quá trình hun đúc và khẳng định ngày càng rõ
hơn những giá trị truyền thống và bản lĩnh Việt Nam. Bản lĩnh dân tộc còn được
thể hiện ở ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc và không ngừng sáng tạo, ở tính
thích ứng, tìm tòi và không ngừng học hỏi, không ngừng cải cách và đổi mới
trong xây dựng đất nước và phát triển xã hội. Kiên định con đường mục tiêu đã
lựa chọn, chủ động và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt cơ
hội và cái mới, đẩy lùi nguy cơ theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Quyết tâm gìn giữ giá trị truyền thống đồng thời tiếp thu những giá trị văn hoá,
văn minh của nhân loại, chủ động hoà đồng và hội nhập quốc tế. Trân trọng và
kế thừa giá trị của quá khứ đồng thời nghiêm khắc nhìn nhận những yếu kém của
chính mình, tích cực vượt qua sự lạc hậu, trì trệ, bảo thủ để đổi mới, phát triển
một cách có hiệu quả và vững chắc. Bản lĩnh sống và bản lĩnh chính trị của dân
tộc Việt Nam là một trong những giá trị truyền thống nổi bật. Bản lĩnh đó không
ngừng được rèn luyện và bồi đắp và là một nhân tố của sự tồn vong và phát triển của đất nước.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc kế thừa có phê phán tư tưởng chính trị của
phương Đông và phương Tây, của cách mạng tư sản phương Tây và của cách
mạng Trung Quốc. Người chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông trong đó
nổi bật nhất là tư tưởng chính chị của Nho Giáo, Lão giáo, Phật giáo. Như vậy,
bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh thể hiện ở sự học tập và tiếp thu những mặt
tích cực của tư tưởng phương Đông và phương Tây, nhưng chỉ lựa chọn những
giá trị phù hợp với dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, đến với chủ nghĩa Mác- Lênin là bước ngoặt cơ bản trong quá
trình tìm đường cứu nước và hình thành bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh.
Cùng với truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây, chủ nghĩa Mác- Lênin đã làm cho bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh
được bổ sing và hoàn thiện, nâng lên tầm cao mới. Đó là bản lĩnh của người lãnh
đạo nắm được qui luật phát triển khách quan của thời đại, chứ không chỉ đơn
thuần là bản lình của một người yêu nước mang trong mình bản lĩnh dân tộc.
Nghiên cứu và hiểu thấu đáo chủ nghĩa Mác- Lênin, với bản lĩnh sẵn có của con
người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển lý luận Mác- Lênin một cách sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn, kết
hợp lý luận với thực tiễn, vừa nghiên cứu lý luận, vừa tổng kết thực tiễn. Tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin là chỗ dựa vững chắc cho Hồ
Chí Minh trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, là
niềm tin vào sự tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trước mọi biến đổi thăng trầm của lịch sử.
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của
mình bằng những di sản quý báu của nhân loại. Có thể nói, bản lĩnh chính trị Hồ
Chí Minh là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản lĩnh Việt Nam với
những giá trị phổ biến của chính trị- văn hóa phương Đông, phương Tây và
những giá trị khoa học và cách mạng trong các quan điểm chính trị của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Đó chính là cơ sở lý luận hình thành nên bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh. b. Nhân tố chủ quan
Bản lĩnh chính trị là phẩm chất của con người, hình thành và phát triển
trong quá trình hoạt động. Do vậy, cùng với các điều kiện khách quan, cùng các
điều kiện khách quan, cần thiết phải xem xét các nhân tố chủ quan hình thành
nên bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh.
Bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh được tôi rèn bởi chính truyền thống tốt đẹp
của quê hương Nghệ An- vùng đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống yêu
nước, thương dân. Cùng với việc chịu ảnh hưởng sâu sắc của những giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc và quê hương, bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh
còn là sản phẩm mang nặng dấu ấn của gia đình người. Thân phụ của Người là
một nhà nho cấp tiến, có ý chí kiên cường vượt gian khổ, khó khăn để đạt được
mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thương dân: “Ái quốc là ái dân”, chủ trương lấy
dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị- xã hội. Thân mẫu của Người là
một người giàu đức hi sinh, có nếp sống giản dị, thanh cao. Tư tưởng yêu nước,
thương dân của người cha, tấm long nhân hậu của người mẹ, tinh thần trách
nhiệm cao trước vận mệnh đất nước của những nhà nho ưu tú, các bậc cha chú đã
sớm ảnh hưởng đến Người.
Ngay từ khi còn nhỏ, Người đã sớm chứng kiến tội ác của bọn thực dân và
phong kiến tay sai, thấu được vận mệnh bi đát của dân tộc, nỗi đau thương trước
thân phận của người dân mất nước, ảnh hưởng của các phòng trào chống Pháp đã
hình thành ở Nguyễn Tất Thành khát vọng cứu dân, cứu nước, mong giải phóng
cho nhân dân khỏi ách nô lệ, áp bức. Với tấm lòng yêu nước, thương dân tha
thiết ấy, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành trăn trở với biết bao câu hỏi lớn về
vận mệnh của dân tộc. Tất cả điều đó giúp Hồ Chí Minh nuôi hoài bão, khát
vọng lớn lao tìm con đường giải phóng cho dân tộc.
Bản lĩnh Hồ Chí Minh còn được xây dựng trên cơ sở niềm tin mãnh liệt và
vô tận vào nhân dân, vào những con người bình thường, lao động. Tin vào quần
chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ
bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất,
giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa
kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Quan
điểm niềm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan
điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử.
Bản lĩnh chính trị của Hồ Chí Minh còn được xây dựng bởi vốn tri thức và
kinh nghiệm sâu rộng, phong phú của Người. Hành trang ra đi tìm đường cứu
nước của Người không chỉ có long yêu nước, nghị lực phi thường với hai bàn tay
lao động để kiếm sống mà còn có một vốn kiến thức nhất định được ảnh hưởng
từ gia đình, quê hương, từ những nhà nho yêu nước lúc bấy giờ truyền dạy.
Người còn được hấp thụ một nền giáo dục truyền thống phong phú, hiểu biết sâu
sắc về lịch sử và những giá trị văn hóa dân tộc, am tường văn hóa phương Đông
và vốn kiến thức ban đầu về văn hóa phương Tây. Đây là cơ sở quan trọng ban
đầu để Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận, học hỏi vốn tri thức phong phú của nhân loại,
đến được với chủ nghĩa Mác- Lênin và ở đó Người đã tìm được con đường cứu nước, cứu dân
Có thể nói, tài năng trí tuệ của Hồ Chí minh đã tác động rất lớn đến sự
hình thành và phát triển bản lĩnh chính trị của Người. Đó là con người sống có
hoài bão, yêu nước, thương dân tha thiết, có ý chí sắt đá, có tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, một con người mẫu mực về đạo đức cách mạng, khiêm tốc, giản
dị. Nhờ có những phẩm chất và tài năng đó đã có vai trò quan trọng đối với Hồ
Chí Minh trong việc quyết định lựa chọn hướng đi cũng như khi tiếp cận với học thuyết Mác- Lênin.
2.2.2. Nội dung cơ bản về bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh
a. Bản lĩnh ra đi tìm đường, mở đường, dẫn đường giải phóng dân tộc
Nhờ có tố chất thông minh, nhanh nhạy, sắc sảo nên Nguyễn Tất Thành đã
sớm nhận ra sự lạc hẩu, khiếm khuyết của các phong trào yêu nước đương thời,
muốn vượt lên đi tìm cái mới. Với lối suy nghĩ độc lập và sáng tạo, Nguyễn Tất
Thành đã sớm quyết định hướng đi mới cho mình, chọn con đường ra thế giới,
bắt đầu từ phương Tây, để tìm đường cứu nước, cứu dân. Ngày 5-6-1911, từ bến
cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn, Người rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu
nước. Người cũng đã từng trả lời một nhà báo người Nga rằng “Khi tôi độ mười
ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp. Tự do, Bình đẳng, Bác ái….. Tôi
rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ấn giấu đằng sau những chữ ấy”.
Hồ Chí Minh đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, trải qua những năm
tháng lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động
nhiều nước trên thế giới.Người thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội cơ bản.
Người vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động các nước. Người thấy rõ ở đâu người dân cũng khổ cực như nhau.
Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ
nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập
đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp nhận,
tiếp cận với chủ nghĩa Mác- Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu
nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc kết:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc là phù hợp với trào lưu
tiến trình phát triển của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa
cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo
chủ nghĩa Mác- Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác- Lênin bắt đầu thâm nhập vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ
đây có một phương hướng mới, một bước ngoặt mới.
b. Bản lĩnh giữ vững độc lập dân tộc
Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đối diện với
muôn vàn khó khăn, thách thức của lịch sử, gắn với vận mệnh sống còn của dân
tộc. Với bản lĩnh có một không hai, Người đã tìm cách vượt qua những khó
khăn, thách thức đó, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh,
đưa dân tộc Việt Nam cập đến bến bờ hạnh phúc.
Bằng khát vọng và cái tâm một long hướng về con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, vượt lên tất cả những hạn chế về lịch sử, Hồ Chí Minh đã quyết
tâm đi tìm câu trả lời ngay tại chính nước Pháp. Qua một quá trình quan sát,
nghiên cứu, so sánh thực tiễn, Người đã tìm ra hướng đi đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam, lựa chọn chủ nghĩa Mác- Lênin là “học thuyết chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”, lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”, nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, lực lượng lãnh đạo
cách mặng là giai cấp công nhân với đội tên phong là Đảng Cộng sản. Hồ Chí
Minh đã khắc phục sự bế tắc, khủng hoảng để làm nên Cách mạng Tháng Tám
thành công,mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc,
khẳng định vị thế của việt Nam trên bản đồ thế giới.
Sau cách mạng Tháng tám, dân tộc ta lại rơi vào tính thế khó khăn khi
cùng lúc phải đối phó với cả giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh đã
vững vàng chèo lái con thuyền cánh mạng vượt qua mọi giông bão, từng bước
khắc phục nạn đói, xóa nạn mù chữ, đoàn kết dân tộc loại trừ kẻ thù, giữ vững
nền độc lập non trẻ. Với thực dân Pháp mang dã tâm cướp nước ta một lần
nữa,bản lĩnh và trí tuệ Hồ Chí Minh đã khơi dậy, phát huy tối đa mọi nguồn lực
của dân tộc làm nên một Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”, chấm dứt cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp xâm lược. c. Bản lĩnh ngoại giao
Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập, tự do của
nhân dân, Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế giới, có những
người bạn cùng chí hướng, có cả những kẻ thù, trong nhiều hoàn cảnh và trên
nhiều vị thế khác nhau. Phong cách ứng xử tài tình của Người trong hoạt động
đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng
như phong trào đấu tranh cho nền hòa bình chung của nhân loại.
Hồ Chí Minh đặc biệt biết nhiều tiếng nước ngoài, trong đó Người thành
thạo tiếng Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Đức và Thái Lan. Người cho rằng,
không biết hoặc không thông thạo tiếng nước sở tại thì khả năng nghiên cứu và
giao tiếp sẽ bị hạn chế. Đặc biệt, trong những tiếp xúc riêng bên lề hội nghị, nếu
không có ngoại ngữ vững, người cán bộ sẽ thiếu tự tin, dẫn đến mặc cảm, hạn
chế trong hoạt động đối ngoại. Và trong nhiều cuộc phỏng vấn với phóng viên
nước ngoài, Người đã trực tiếp trả lời bằng tiếng nước ngoài, từ đó, mọi ý nghĩa
về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc được truyền tải đầy đủ đến nhân dân
thế giới mà không cần phải qua bất cứ một phương tiện chuyển ngữ nào.
Hồ Chí Minh không câu nệ đối đẳng chức vụ trong giao tiếp với các tầng
lớp nhân dân trên thế giới, khiến ai ai tiếp xúc với người cũng cảm thấy gần gũi,
thân tình. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh sẵn sàng hòa mình
vào cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ ở các dân tộc trên thế
giới, kiếm sống bằng những nghề lao động rất bình dị như đầu bếp, chép tranh,
cào tuyết… Mỗi cử chỉ hành động của Người đều rất khéo léo, cẩn trọng, có thái
độ và cách ứng xử phù hợp để tránh những nghi thức ngoại giao khi cần mà vẫn
giữ được tình cảm chân thành đối với những người bạn, đồng chí, anh em đã
từng kề vai sát cánh, giúp đỡ Người trên con đường hoạt động cách mạng.
Chương 3. Vai trò của người đứng đầu Việt Nam hiện nay
Sau nhiều năm xây dựng và phát triển thể chế chính trị, những người đứng
đầu đất nước như Thủ tướng, Phó thủ tướng, Chủ tịch nước hay bộ trưởng các
Bộ đã làm tốt vai trò của mình để gây dựng một thể chế chính trị vững vàng,
kiên định. Đặc biệt hơn nữa, làkhi không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đang
phải chống chọi với một đại dịchhết sức nguy hiểm. Với tinh thần chống dịch
như chống giặc toàn quân và dân ta đang ngày đêm cố gắng với cuộc chiến
chống dịch bệnh này. Tuy không phải làmột cường quốc lớn như Mỹ, không phải
là một quốc gia sở hữu những cơ sở máy móc y tế hiện đại tân tiến nhất nhưng
chúng ta có một dân tộc ngoan cường, đoàn kết, luôn yêu thương giúp đỡ đùm
bọc lẫn nhau. Để rồi chúng ta đã và đang chứng minh cho cả thế giới rằng, Việt
Nam tuy chỉ là một nước nhỏ nhưng lại là một trong những đất nước có công tác
chống dịch tốt nhất – cuộc chiến mà không có một ai bị bỏ lại. Để có được
những kết quả đó, có một phần đóng góp không nhỏ của những người lãnh đạp,
những người đứng đầu của cả nước, đã soi đường vạch lối để dân tộc đi đúng
hướng. Nếu không có những người đứng đầu sáng suốt đócó lẽ sẽ không có một Việt Nam như hôm nay.
Tuy vậy, người đứng đầu đất nước ta vẫn luôn cần không ngừng nỗ lực để
nâng cao thêm vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của
quốc gia. Để hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền của Ðảng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Ðảng mới có thể bảo vệ vững chắc vị trí lãnh đạo tuyệt đối và toàn
diện của Ðảng, mới có thể kiên định được vững vàng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Muốn nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Ðảng thì cần xây dựng Ðảng, ngược lại, xây dựng Ðảng
là để nâng cao năng lực cầm quyền và trình độ lãnh đạo của Ðảng.