Phần I: Giới thiệu Sự nổi tiếng và vai trò của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Phần I: Giới thiệu Sự nổi tiếng và vai trò của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Triết học trong cuộc sống (PHI117)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC (1911 – 1930)
Phần I: Giới thiệu
A. Sự nổi tiếng và vai trò của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh).
Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam kính trọng, tôn vinh và được thế giới biết đến là
vị anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế
giới. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy được tầm vóc vĩ đại, vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và sự phát triển của nhân loại nói chung.
Người đã dành cả đời mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Ngày nay, sự nghiệp của Người tiếp tục được các thế hệ cách mạng và người dân Việt
Nam kế tục và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn
lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cho thấy, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều
gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của một cá nhân yêu nước kiệt xuất, sinh ra trong
lòng dân tộc và tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại để định hướng và lãnh đạo
nhân dân Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang, tạo ra những thành tựu mang tính bước
ngoặt lịch sử. Vai trò, tầm ảnh hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc và đất nước là vô
cùng to lớn, điều này thể hiện khái quát ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam.
Ngày 05/6/1911, xuất phát từ hoài bão lớn lao của một thanh niên yêu nước, Người ra đi tìm
đường cứu nước bằng hai bàn tay trắng. Ba mươi năm bôn ba khắp thế giới của Người thật sự là
một hành trình vĩ đại. Lĩnh hội được chủ nghĩa Mác – Lênin và qua nhiều năm tìm hiểu các phong
trào cách mạng thế giới, Người xác định rằng chỉ có cách mạng vô sản, là con đường duy nhất để
giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người kiên định đi theo con đường giải phóng dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng vào công cuộc đấu tranh của nhân dân ta một cách rất tự
nhiên nhưng vô cùng phù hợp. Người đã xây dựng lực lượng cách mạng, thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, xác định nhiệm vụ căn bản, chiến lược và đề ra đường lối đấu tranh đến khi tiến
hành cách mạng thắng lợi, xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tập hợp, quy tụ được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Người khẳng định đoàn kết là lực lượng mạnh nhất, là sức mạnh vô địch, là lực lượng then chốt
của thành công. Nếu như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào yêu nước đương thời chưa tập hợp
được lực lượng xã hội đông đảo và sớm dẫn đến thất bại thì Hồ Chí Minh đã cho thấy khả năng
quy tập quần chúng một cách tài tình.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp lãnh đạo, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc.
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và có uy tín cao trong toàn Đảng, toàn dân nên Chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là người có đủ bản lĩnh, sức mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam. Người không chỉ lựa chọn đúng thời điểm để thực hiện cách mạng mà
còn có khả năng tiên đoán diễn biến, chiều hướng vận động của lịch sử một cách tài tình.
Thứ tư, tư tưởng của Người là một bộ phận tạo nên nền tảng tư tưởng của Đảng, là lý luận
soi đường để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và cách mạng Việt Nam. Di sản mà Người
để lại có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh bao trùm hầu hết các lĩnh vực của sự nghiệp cách
mạng ở Việt Nam và luôn là lý luận soi đường để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng.
Thứ năm, cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh là
tấm gương mẫu mực để cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân học tập và làm theo.
Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, Đảng và Nhà nước ta cần có
một con người đủ uy tín, tầm ảnh hưởng để làm tấm gương soi rọi cho cán bộ, đảng viên qua
nhiều thế hệ. Và tấm gương sáng nhất không ai khác là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng
ta. Mỗi mẩu chuyện về Người là một bài học quý giá cho các thế hệ cán bộ, đảng viên. Cả cuộc
đời vì nước vì dân, không một phút giây tư lợi cho bản thân của Người là lời nhắc nhở cho mỗi
cán bộ, đảng viên trước những cám dỗ của cuộc sống ngày nay. Đạo đức vĩ đại trong con người
bình dị của Người là hình mẫu cho từng cá nhân trong xã hội học tập, làm theo.
Thứ sáu, tình cảm, niềm tin, sự tri ân đối với chủ tịch Hồ Chí Minh chính là động lực để toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau ngày thống nhất đất nước, chúng ta đã có những sai lầm trong quản lý, đặc biệt duy trì quá lâu
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, dẫn đến khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị xã hội nghiêm
trọng, nhưng niềm kính yêu, tri ân lãnh tụ Hồ Chí Minh, quyết tâm không để di sản của Người bị hủy
hoại có thể nói là một động lực tinh thần to lớn để Đảng, Nhà nước đã có những quyết định sáng
suốt đưa nhân dân ta vượt qua tất cả. Dù Bác đã đi xa, nhưng sức mạnh tinh thần mà Người truyền
lại vẫn hiện hữu trong bao thế hệ người Việt Nam.
B. Mục đích và ý nghĩa của quá trình tìm đường cứu nước.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân và phong kiến tay sai,
nỗi thống khổ của nhân dân lao động, Người đã sớm hình thành khát vọng tìm đường giải phóng
dân tộc và có tầm nhìn độc lập, sáng tạo so với các bậc tiền bối. Người quyết định ra đi tìm
đường cứu nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Và ngày 5/6/1911 với tên mới Văn Ba, Người đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, rời bến cảng
Nhà Rồng, khởi đầu một cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Mục đích của chuyến đi này, hơn
10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ, nhà báo Nga (Ôxíp Manđenxtan): “Vào trạc tuổi
mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Người Pháp đã nói thế
và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy...”.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ (Anna Louise Strong), Người nói: "Nhân dân Việt Nam trong đó
có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách
thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Nhật, người kia thì nghĩ là Anh, có người thì nghĩ là Mỹ.
Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi".
113 năm nhìn lại, chúng ta có thể khẳng định rằng, quyết định sang phương Tây của chủ tịch Hồ
Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, có giá trị to lớn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Một là, sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước mở ra quá trình Người tiếp thu chân lý thời đại
- chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam.
Hai là, sự kiện này cũng mở ra thời kỳ định hình của con đường xây dựng, phát triển đất nước:
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Ba là, sự khởi đầu hành trình tìm đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành đã đặt nền
móng cho quá trình Người tiếp nhận, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào cách mạng Việt Nam.
Bốn là, hành động ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành có ý nghĩa động viên, cổ vũ,
thúc đẩy cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới.
Năm là, sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước đã thể hiện tấm gương lớn về quyết
định chủ động, sáng tạo, độc lập, ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
PHẦN II: Những nỗ lực ban đầu (1911 - 1920)
A. Hình thành tư tưởng cách mạng và tìm hiểu chủ nghĩa Marx – Lenin.
Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Tất Thành rất đau xót trước cảnh lầm than, cơ cực
của đồng bào mình. Người sớm có ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Với với
lòng yêu nước sâu sắc, lại được tiếp xúc với các văn thân, sĩ phu yêu nước và phong trào đấu
tranh chống chế độ thực dân, cảm nhận những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự do, bình
đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng
tạo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào. Người nhận
thấy những bất cập và bế tắc của con đường cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu
cầu bức bách đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới và Người đã đảm
đương trọng trách đó. Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, bởi trong Người đang nung
nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa trên
thế giới, thức tỉnh những người nô lệ khắp năm châu. Từ thành công của cách mạng Tháng Mười
Nga, Quốc tế Cộng sản – Quốc tế III do V.I. Lênin sáng lập ra đời. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc
lần đầu tiên đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn
giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản,
con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Sơ thảo lần
thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin có những điểm đặc
biệt, khác hẳn về chất so với những văn kiện và các tác phẩm nổi tiếng trước đó như Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, Khế ước xã hội của J.J Rutxo...
Chính điểm khác biệt đó đã giải quyết được những trăn trở của Nguyễn Ái Quốc suốt gần 10 năm
trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sự kiện lịch sử trọng đại này được xem
là dấu mốc ghi dấu ấn quyết định con đường cách mạng Việt Nam. Sau này, kể lại sự kiện này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
B. Việc tham gia hoạt động cách mạng ở nước ngoài.
- Ngày 6/5/1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng
với tên gọi Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu
nước. Người nhận thức sâu sắc mục tiêu của chuyến đi sang phương Tây là học hỏi, tìm kiếm và
lựa chọn một con đường phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Đi đến bất cứ quốc gia nào, châu lục
nào, Nguyễn Ái Quốc luôn hòa mình vào quần chúng nhân dân, tìm hiểu đời sống nhân dân các
nước thuộc địa, cũng như cuộc sống của nhân dân các nước chính quốc, tích cực nghiên cứu các
phong trào cách mạng trên thế giới để rút ra những bài học quan trọng cho bản thân. Và Người
đã rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột.
- Từ năm 1912 - 1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913,
Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động. Cuối năm 1917, Người mới trở lại nước Pháp.
- Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng Bônsêvích đã nổ ra
và giành thắng lợi. Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản điển hình đầu tiên trên
thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga là sự hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lênin hướng tới giải
phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Do đó, sau này khi nói về Cách mạng tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với số phận các dân tộc phương Đông. Nó đã thức
tỉnh các dân tộc bị áp bức ở châu Á, chỉ cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc con
đường giải phóng, nêu gương tự do dân tộc thực sự”.
- Năm 1919, cùng với một số người Việt Nam yêu nước đang ở Pháp, Hồ Chí Minh đã thay mặt
những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở Pháp, gửi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách 8
điểm của nhân dân nhân An Nam nhằm đòi các quyền lợi thiết thực. Bản Yêu sách của Người dù
không được chấp nhận nhưng đã gây một tiếng vang lớn, nó hướng các dân tộc thuộc địa tới một
con đường mới. Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc có bước nhận thức mới về quyền tự do, dân
chủ của nhân dân. Lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân
Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của
Nguyễn Ái Quốc đã hướng gần với Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không ngừng ở nhiều
quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Ngày 17/7/1920. lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo
(L’Humanite) của Pháp, số ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt
của Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách
thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả
là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
C. Sự hình thành và phát triển các tổ chức cách mạng.
- Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội của giai cấp công nhân Pháp, bởi theo Người, đây là tổ
chức theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái.
- Năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc,
gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
Việt. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam
trên diễn đàn quốc tế. Tiếng nói chính nghĩa đó có ảnh hưởng lớn tới các phong trào yêu nước ở Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
theo con đường cách mạng vô sản qua nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa vào tháng 7 - 1920. Cùng với việc tích cực tham gia các hoạt
động thực tế trong Đảng Xã hội Pháp, Người hiểu biết sâu sắc hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế
Cộng sản, về cách mạng vô sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Với những nhận
thức mới, Hồ Chí Minh cùng những người phái tả trong Đảng Xã hội Pháp tại Đại hội ở thành phố
Tua (từ ngày 25 đến ngày 30 – 12 - 1920), bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập
trường cách mạng vô sản. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã
quyết định đi theo con đường của Lênin vĩ đại. Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Phần III: Quá trình tìm đường cứu nước tại Liên Xô (1920 - 1923)
A. Học tập và công tác tại Liên Xô.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô vào năm 1920 và trải qua một quá trình học tập và công tác quan
trọng trong thời gian từ năm 1920 đến năm 1923.
- Tháng 7 năm 1920: Nguyễn Ái Quốc đến Nga Xô Viết (Liên Xô) để tìm kiếm con đường cứu nước cho Việt Nam.
- Năm 1920: Ông tham gia vào các khóa học tại Đại học Cách mạng Tổng hợp Liên Xô và Học viện Quốc tế Lenin.
- Năm 1920 - 1921: Nguyễn Ái Quốc học tập về lịch sử cách mạng Nga, lý thuyết cách mạng và
triết học chính trị của chủ nghĩa Marx - Lenin tại Đại học Cách mạng Tổng hợp Liên Xô. Ông tiếp
xúc với các tác phẩm của Marx, Engels và Lenin như "Quốc gia và Cách mạng" của Lênin và "Các
công trình chọn lọc" của Marx.
- Năm 1921 - 1923: Nguyễn Ái Quốc tham gia khóa học tại Học viện Quốc tế Lenin, nơi ông
nghiên cứu về tổ chức cách mạng, vấn đề tư tưởng và cuộc sống của các nhà cách mạng. Ông học
cách tổ chức và lãnh đạo một phong trào cách mạng thành công, cũng như phân tích vấn đề giai
cấp và vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng.
B. Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx - Lenin và cách mạng Nga.
Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx - Lenin và cách mạng Nga đối với Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra
trong quá trình từ năm 1920 đến năm 1923.
- Năm 1920 - 1923: Nguyễn Ái Quốc bị ảnh hưởng mạnh bởi chủ nghĩa Marx - Lenin và cách mạng Nga.
- Ông nhận thức rằng chủ nghĩa Marx - Lenin là một lý thuyết cách mạng tiên tiến và có thể áp
dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
- Ông nhìn thấy cách mà cách mạng Nga đã thành công trong việc lật đổ chế độ tư sản và xây
dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa công bằng.
- Nguyễn Ái Quốc được truyền cảm hứng từ các lãnh tụ cách mạng Nga như Lenin và Trotsky, và
nhìn thấy tầm quan trọng của việc tổ chức giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong việc
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Ông hiểu rõ rằng cách mạng không chỉ là việc lật đổ chế độ bất công mà còn là việc xây dựng
một xã hội mới và công bằng.
C. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng
11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh
(1927) ... nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi
dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm
cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ,
đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến
chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh
đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là
người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6 - 1 đến ngày 7 - 2 - 1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí
thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Vào ngày 3/ 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
PHẦN IV: Tìm đường cứu nước tại Trung Quốc (1924-1930)
A. Sự tham gia và lãnh đạo trong cuộc khởi nghĩa Xin-hai.
Còn được gọi là Cách mạng Trung Quốc, vào ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới
Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên
cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc.
Trong lúc ở Quảng Châu, Bác vừa tiến hành làm công tác tuyên truyền và tổ chức cho phong trào
cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam dưới
sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa trực tiếp tham gia phong trào của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Đồng thời, trong thời gian đó
cũng đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh giữa nhân
dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc qua các thời kỳ.
Trong vai trò là thành viên của Quốc tế Cộng sản khu vực phương Đông và đại diện của Hội Nông
dân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh tích cực tham gia hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại
Quảng Châu, liên lạc, tổ chức kết nối các nhà hoạt động cách mạng từ các quốc gia bị áp bức cùng đấu tranh.
Mặt khác, ở Quảng Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể tìm hiểu được tình hình phong trào cách
mạng Trung Quốc, tình hình hoạt động của Người và các đồng chí của Người ở Quảng Châu, tình
hình của các nhà hoạt động cách mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức, tình hình thực
tế của bản thân cũng như cách phân tích, đánh giá để báo cáo với Quốc tế Cộng sản hoặc viết
thành các bài viết đăng trên tạp chí "Thông tin quốc tế" của Quốc tế Cộng sản.
B. Việc thành lập Việt Nam Cách mạng Đồng minh đoàn (Việt Minh) .
Trước tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và ác liệt, Nguyễn Ái Quốc đã
triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
từ ngày 10 - 19/1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Pó, Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc
cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ
trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng là nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19/5/1941, Hội nghị
quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận
Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương.
C. Những nỗ lực và chiến lược của Nguyễn Ái Quốc trong việc tìm đường cứu nước.
Sau khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến năm 1940, Nguyễn Ái Quốc tham gia
công tác của Quốc tế cộng sản ở nước ngoài. Trong quá trình đó, Người đã bị bắt giam trong Nhà
tù thực dân Anh ở Hồng Kông (1931 - 1933).
Sau khi trở lại Matxcơva (Liên Xô) vào tháng 6/1933, Nguyễn Ái Quốc vào học Trường Quốc tế
Lênin – Trường dành cho những người cộng sản nước ngoài, nhằm giúp đỡ các Đảng Cộng sản
đào tạo cán bộ cách mạng, nhất là cán bộ chủ chốt. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đi
sâu vào những vấn đề của cách mạng vô sản, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của bản thân tích luỹ
qua hàng chục năm hoạt động cách mạng, để suy nghĩ và tiếp tục hoàn chỉnh con đường cách
mạng giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, năm 1935, Người tham dự Đại hội VII
Quốc tế cộng sản, tìm thấy trong nghị quyết Đại hội nhiều quan điểm mới về chiến lược, sách
lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, đặc biệt là vấn đề phải xây dựng cho
được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc, đòi dân chủ, cơm áo và hoà bình.
Sau khi Quốc tế cộng sản “đồng ý” để Người về nước công tác, Hồ Chí Minh đã sớm rời Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (9 - 1938), bỏ lại bản luận án nghiên cứu sinh đang
viết dở. Người đáp xe lửa, rời Mátxcơva, đi về phương Đông. Cuối năm 1939, Người đến Côn
Minh – thủ phủ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng, tìm đường về nước.
Tháng 5 - 1941, Người cùng Trung ương Đảng quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải
phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ
chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong một Mặt
trận dân tộc thống nhất; chủ trương tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách
mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng
Tám năm 1945, thể hiện quyết tâm của Người: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, toàn dân tộc đã nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh; đã mở ra kỷ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”, mở ra một thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất, vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Phần V: Kết luận
A. Tầm quan trọng và di sản của quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
- Việc ra đi tìm đường cứu nước của Bác đã lại rất nhiều di sản thừa kế và tầm quan trọng của nó
đối với đất nước đã được lịch sử chứng minh cũng như tầm quan trọng của nó đối với quá trình
phát triển của đất nước sau này , quyết định quan trọng có tính chất bước ngoặt, giúp Người
từng bước tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam – Con
đường cách mạng vô sản
- Quá trình tìm đường cứu nước, Người đã chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa và cách mạng vô sản là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải lệ thuộc. Người cho
rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Đây là điều khác biệt và táo bạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định bản lĩnh, trí
tuệ và tầm nhìn vượt thời đại của Người, thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam
- Nắm bắt chính xác quy luật phát triển của lịch sử, xu thế của thời đại và đặc điểm của dân tộc,
Hồ Chí Minh đã xác định: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là con đường phát triển
đất nước. Đây trở thành lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam, cũng là phương
thức để đảm bảo mục tiêu đó, phản ánh đầy đủ khát vọng của dân tộc. Có thể nói, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh
B. Tác động và ảnh hưởng của Bác đối với cách mạng.
- Đưa ra chiến lược cách mạng
- Truyền tải đường lối dẫn dắt cách mạng đến thành công
- Giải quyết các mâu thuẫn cơ bản
- Hợp nhất 3 đảng lại với nhau
- Nêu cao nhiệm vụ dân tộc
- Xác định kẻ thù trực tiếp
- Khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
C. Ý nghĩa lịch sử và học tập từ quá trình này.
Là sinh viên cũng như công dân của đất nước trong giai đoạn hiện nay, học theo Bác, mỗi thanh
niên phải thực sự chủ động và sáng tạo trong các hoạt động của mình.
Theo đó, phải luôn có tinh thần đổi mới, sáng tạo, luôn trăn trở tìm hướng đi mới, cách tiếp cận
mới đối với mỗi vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra và dám dấn thân vào những nhiệm vụ mới,
khó; chủ động đề xuất các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp, ứng dụng khoa học và công nghệ trong
thực hiện nhiệm vụ, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, lập nghiệp, khởi nghiệp, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, sáng tạo phải đặt trên nền tảng những gì đã có, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn,
tích lũy giá trị tích cực và khắc phục được hạn chế, như con đường cách mạng của Bác là kế thừa
từ truyền thống đấu tranh của dân tộc và qua đúc rút kinh nghiệm từ những bậc tiền bối đi
trước. Các tổ chức của thanh niên phải đổi mới mạnh mẽ, có hiệu quả hơn nữa về nội dung,
phương thức hoạt động, sáng tạo không ngừng để thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới và theo kịp sự vận động nhanh chóng của nền kinh tế cũng như quá trình hội nhập quốc
tế, sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.