

















Preview text:
Trần Minh Thư – 2121013396
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
PHIẾU LÀM BÀI TỰ LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Ngày kiểm tra: 23/04/2022
Họ và tên sinh viên: Trần Minh Thư Mã đề 1
Mã số sinh viên: 2121013396
Mã lớp sinh viên: 2121101001603
Bài làm gồm: 18 trang Điểm Cán bộ chấm thi Bằng số Bằng chữ (Ký và ghi rõ họ tên) BÀI LÀM:
Câu 1: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, chúng ta cần phải làm gì để
thực hiện đại đoàn kết toàn dân? I. LỜI NÓI ĐẦU.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Người đã nói:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Lời dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân vượt qua
mọi khó khăn, tiến tới những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Thật vậy, tinh thần đoàn kết dân tộc tự bao đời đã trở thành một truyền thống quý 1
Trần Minh Thư – 2121013396
báu thấm nhuần trong trái tim của mỗi người con máu đỏ da dàng. Sức mạnh đoàn kết
dân tộc là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao
nhất, đứng đầu bảng giá trị tinh thần Việt Nam.
Nghiêng mình theo chiều dài lịch sử, ta nhận thấy tinh thần đoàn kết đoàn kết lại
được toả sáng hơn bao giờ hết – tinh thần ấy như viên ngọc quý kiên cường vượt qua
“mưa bom bão đạn” suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ để mà giành thắng lợi
vẻ vang. Chính truyền thống quý báu ấy đã kết tinh những trái tim nhỏ bé lại cùng với
nhau vùng lên thoát khỏi vùng nô lệ, khiến anh em từ miền xuôi đến miền ngược cùng
nhau đứng lên cầm vũ khí đánh giặc. Làn sóng dữ dội ấy đã lướt qua muôn vàn khổ
đau, nhấn chìm lũ cướp nước và bán nước.
Ấy mới thấy, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”, đại đoàn kết dân tộc là một giá trị
to lớn, một truyền thống quý báu thiêng liêng được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm
đấu tranh dựng và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý
nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai,
địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và
thực tiễn cách mạng thế giới, nhận ra giá trị mang tầm vóc lịch sử, Người đã hình thành
“tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”. Với nhãn quan chính trị sắc bén, với
tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng,
hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng
đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả
đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc. II.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
Đại đoàn kết dân tộc là là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì
quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành 2
Trần Minh Thư – 2121013396
động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững.
Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy nhất
Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân
dân khác”. Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong
các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn
dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái
niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân
tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi
thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước
ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
2.1. Cơ sở lí luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển
sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt
Nam trong từng giai đoạn cách mạng. 2.1.1.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc ta:
Cơ sở lí luận của Người là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Đó là tình yêu nước nồng nàn, là sức mạnh đoàn kết vĩ đại không “vũ khí” nào có thể thay thế. 3
Trần Minh Thư – 2121013396
V.I.Lênin từng nói “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất
được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Lòng
yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ đó và đã trở thành điểm cốt lõi của
bản sắc văn hóa Việt Nam, là sợ dây bền chặt gắn bó, cố kết con người Việt Nam tạo
thành sức mạnh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn bảo vệ non sông bờ cõi, đó chính là nét
đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Yêu nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối
với xã hội, coi trọng lòng khoan dung độ lượng, hoà hiếu, không gây thù oán, cố kết
cộng đồng đã trở thành tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam.
Tình cảm ấy đi vào trong ca dao, văn chương của Việt Nam:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Truyền thống ấy còn được kết tinh thành một triết lí nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái niệm thành
tư duy chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước: Tình làng, nghĩa nước.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hoá, văn học mà
còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đúc kết nâng lên thành phép đánh giặc giữ nước,
“trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”,…Truyền thống
ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay cho
ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu trinh ở một phần từ đầu thế kỷ XX.
Sớm hấp thu được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý 4
Trần Minh Thư – 2121013396
báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó
kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Có thể thấy, chính chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đoàn kết của nhân dân ta là cơ sở mạnh mẽ thúc đẩy nên việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.1.2. Tinh hoa văn hoá của nhân loại:
Văn hoá phương Đông, trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều điều
không hợp lý, có nhiều điểm tích cực. Chẳng hạn như thuyết Đại đồng và tư tưởng bình
đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo Khổng Tử, “Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại
đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan điểm "nước lấy dân làm
gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo. Trong Phật giáo cũng có những điểm hay. Ví
dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”, “cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự
cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học trên ghế
Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài. Người đã chọn
lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư sản Mỹ. trong
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư sản Pháp. Người đã học được
tư tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái,
chủ nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa
phương Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
Chính những nhận thức sâu sắc, am hiểu tường tận, tiếp thu có chọn lọc những giá trị
văn hoá của nhân loại đã góp phần giúp Người hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc.
2.1.3. Những quan điểm trong học thuyết Mac-LêNin:
Học thuyết Mac-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá hình xây
dựng và hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nói riêng và cả
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. 5
Trần Minh Thư – 2121013396
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn
cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mac-Lênin rằng cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải
gắn vớii đoàn kết quốc tế, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến lược
“giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-
Lênin, xem đây là ánh sáng mới cho đường cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc ta vì Mac-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ
ra sự cần thiết trong việc tập hợp lại, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi
tuưng nước và trên thế giới đêr giagnh thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống
nghĩa đế quốc thực dân.
Sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mac-Lênin, nhờ đó Người đã nắm rõ các
vấn đề cơ bản và cốt lỗi để lấy đó làm cơ sở khoa học trong việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân - khiến cho tư tưởng này trở thàh truyền thống,
bài học sâu sắc đối với mỗi người con đất Việt. Có thể nói những quan điểm đoàn kết
trong học thuyết Mac-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị
thế giới quan, phương pháp luận, mà còn chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong quá
trình thực hiện đoàn kết.
2.2. Cơ sở thực tiễn:
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn được xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba ở nước ngoài của Hồ Chí Minh
2.2.1. Thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác
thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá. Sự
xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai
cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân 6
Trần Minh Thư – 2121013396
Pháp, nhân dân ta đã kiên trì đứng lên đấu tranh, liên tục duy trì ngọn lửa cứu nước, các
cuộc khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ nhưng đều lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo
ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc
khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên
Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào
yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn
Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Mặc dù các phong trào đã diễn ra với quy mô lớn, Các phong trào yêu nước
chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng
đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai
trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho
đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và
khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế
quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát
độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con
đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Vận mệnh của đất nước đòi hỏi có một lực lượng lãnh đạo mới, đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc
thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh thì mới gìanh được thắng lợi.
Hồ Chí Minh thấy rõ tinh thần nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước của các bậc tiền bối
nhưng cũng sẵn sàng chỉ ra những khuyết điểm trước đó là các tổ chức chưa có sự lãnh
đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết lại để tạo thành một khối vững mạnh. Nhận thức rõ
vấn đề đã không ngừng thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đồng thời lấy
đó làm nên tảng xây dựng nên tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân Việt Nam.
2.2.2. hực tiễn cách mạng thế giới. 7
Trần Minh Thư – 2121013396
Từ 1911 đến 19 1 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực: “Các dân
tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến
thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến
bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành
dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính,
Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và
những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong
trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng
quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
2.3. Nhân tố chủ quan – Phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Xuất thân từ gia đình nhà Nho yêu nước thuộc vùng đất Nghệ Tĩnh có truyền
thống đấu tranh bất khuất lâu đời, Hồ Chí Minh đã sớm được nuôi dưỡng, tiếp thu
những giá trị truyền thống ấy, góp phần hình thành nên tư tưởng tâm hồn cách mạng
của Người. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ yêu nước, thương dân, mang đầy tinh thần đạo
đức cách mạng, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi xiềng xích áp bức thống trị của đế
quốc. Chính tinh thần ấy đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đại đoàn kết dân tộc.
3. THỰC HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.
Đại đoàn kết dân tộc chính là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, đoàn kết là lực
lượng vô địch để khắc phục mọi khó khăn, giành lấy thắng lợi. Thấm nhuần lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc đổi mới đất nước, chúng ta cần phải lấy tư tưởng đó 8
Trần Minh Thư – 2121013396
là gốc để cùng nhau xây dựng nên một khối dân tộc đoàn kết, vững mạnh, ngày càng
phát triển phù hợp với xu thế của thời đại, nhưng phải đảm bảo:
- Kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
- Có lòng khoan dung, độ lượng với con người.
- Phải có niềm tin với Nhân dân.
1. Đối với Đảng và Nhà nước:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đường lối, chủ trương của Ðảng, Nhà nước về
đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính
sách, pháp luật. Để phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XII đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tẳng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ, “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm
điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc
gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung
để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ
mật thiết, giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành toàn xã hội đối với việc
xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Muốn vậy, phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm: Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc
phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các tầng lớp, giai cấp và các 9
Trần Minh Thư – 2121013396
thành phần trong xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng việc không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh thần
Nghị quyết mà Đại hội XIII của Đảng đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta những nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang. Đảng ta chỉ rõ: “Trong những năm tới,
tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan
xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một
lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác,
kịp thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực
hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia
tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát
triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”.
Trong đó, “Các thế lực thù địch cấu kết với các phần tử phản động, cơ hội chính trị
trong nước chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là phá hoại nền
tảng chính trị, tư tưởng, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời gian tới, cần thực
hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau: Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh tuyền truyền để các
cấp, các ngành, lực lượng nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của
Nhà nước và tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Bốn là, tăng cường
quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Năm là, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch,
phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Đối với nhân dân. 10
Trần Minh Thư – 2121013396
Nhân dân là lực lượng nồng cốt, là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát
triển của khối đại đoàn kết toàn dân. Trước đây, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
là sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm. Hiện nay, sức mạnh ấy phải là sức mạnh để
chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng các mối
quan hệ hợp tác, tranh thủ mọi khả năng có thể để xây dựng, phát triển đất nước. Phải
biết liên minh mọi tầng lớp, liên minh công – nông – trí chặt chẽ, rộng rãi để làm cho
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc càng được nhân lên to lớn hơn. Tuân thủ, ủng
hộ, chấp hành những quy định sách lược, thượng tôn pháp luật nhà nước Cộng hòa xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam; chủ động đóng góp ý kiến, xây dựng và hoàn thiện bộ máy
nhà nước, củng cố ý chí đoàn kết toàn dân. Nâng cao ý thức tinh thần cộng đồng, trách
nhiệm cá nhân đối với tập thể, đóng góp sự sáng tạo, áp dụng tri thức và công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước, sẵn sàng nhận lệnh và phụng sự trước vận mệnh Tổ quốc.
3. Đối với cá nhân.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn
của dân tộc ta, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công việc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì bài học kinh nghiệm này
vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy để khơi dậy sức mạnh to lớn của
dân tộc trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc phát huy tinh
thần đại đoàn kết dân tộc càng cần được phát huy. Do đó mỗi cá nhân cần quán triệt tư
tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Hồ
Chí Minh. Chúng ta phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu
xuyên tạc về Đảng, về Chủ tịc Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao trình độ để thích
ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người
tùy theo vị trí của mình như tập trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công
việc cũng như trong cuộc sống cộng đồng. Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng
cao chuyên môn của bản thân, tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng pháp luật
của nhà nước. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, luôn tu dưỡng 11
Trần Minh Thư – 2121013396
phẩm chất đạo đức. Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương
mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền
giao phó. Có lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã với mọi người.
Luôn tự rèn luyện và trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống. Thẳng thắn, trung thực bảo
vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt, chân thành, khiêm
tốn, không bao che khuyết điểm,…Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết trong tập thể, trong
cơ quan đơn vị. Bản thân cần tự đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng
nguyên tắc, pháp luật, không chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.
Cần có ý thức coi trọng việc tự phê bình và phê bình; phê phán những biểu hiện xuất
phát từ những động cơ cá nhân; động viên người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức lối
sống, thực hiện xây dựng gia đình văn hóa. Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc hiện
nay mỗi cá nhân không chỉ cần rèn luyện, tu dưỡng đạo đức mà còn cần phải không
ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
Câu 2: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: Văn hoá là mục tiêu, động lực của sự
nghiệp của cách mạng?Hiện nay, mục tiêu của Đảng ta hướng đến của quá trình
xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam là gì? I. KHÁI NIỆM
Khái niệm văn hóa có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, vì vậy có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa
được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh
tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người.
Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp 12
Trần Minh Thư – 2121013396
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến
diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại.
Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần
chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”.
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc
Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hóa”, xóa mù chữ,…
II. TẠI SAO NÓI “VĂN HOÁ LÀ MỤC TIÊU, LÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ
NGHIỆP CỦA CÁCH MẠNG”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định “Phát triển toàn
diện các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa để văn hóa thực sự là
nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế”, nhằm tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Chính vì vậy, Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị - văn hóa rất quan trọng, phản ánh tầm quan trọng
của văn hóa đối với sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 2 -11-19 6, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Có nghĩa là, dân tộc
Việt Nam muốn xây dựng và phát triển đất nước, nhất định phải phát triển văn hóa.
Theo Người, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, phát
minh ra, theo đó lẽ tất nhiên, văn hóa xuất phát từ con người và phải đem văn hóa để
giải phóng con người, trước hết là giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất
công và được phát triển toàn diện.
Cho nên, nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Người: Văn hóa là động lực, mục
tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người 13
Trần Minh Thư – 2121013396
xã hội chủ nghĩa, phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, văn hóa là một mặt trận, mỗi văn nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận ấy, văn hóa
phục vụ quần chúng nhân dân, xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc - khoa học - đại chúng”…
1. Văn hoá là mục tiêu.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, quá trình cách
mạng Việt Nam, trong công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật nhất là trong lĩnh
vực văn hóa đã đạt nhiều kết quả quan trọng: “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người
ngày càng toàn diện sâu sắc hơn. Các loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng
đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa
truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính
trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Phát triển
toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội”. Kết quả đó là sự hiện thực hóa quan điểm văn hóa là nền tảng
tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng .
-Mục tiêu của cách mạnh Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hoá nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
-Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hoá là mục tiêu-nhìn một cách tổng
quát là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc,
là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân
chủ, dân là chủ và dân làm chủ - công bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành, một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện. 14
Trần Minh Thư – 2121013396
-Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho một xã hội phát triển bền vững với ba trụ
cột là kinh tế, xã hội và môi trường.
Trên thực tế, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội
ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đã đến mức báo động. Nó không chỉ
“gặm nhấm” làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của từng con người,
mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến văn hóa tinh thần của xã hội. Do đó, cần tăng
cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử dân tộc;
đặc biệt là ý thức trách nhiệm xã hội cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, nhất
là thanh, thiếu niên. Bên cạnh đó, cần có những biện pháp kiên quyết đấu tranh, khắc
phục những hành vi xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực và tệ
nạn xã hội. Trong đó, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh đạt hiệu quả thiết thực trên thực tế của mỗi cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân là biện pháp thường xuyên, liên tục.
2. Văn hoá là động lực.
Trong những năm tháng chống giặc cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định, chống giặc không chỉ ở mặt trận chính trị mà còn ở mặt trận văn hóa xã
hội. Từ đó, chúng ta có thể thấy được vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng,
mà được nhắc đến ở đây là vai trò tạo động lực. Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ
hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức
mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động
lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước.
Nói đến văn hóa là nói đến con người, vì con người là chủ thể sáng tạo ra văn
hóa, lại vừa là đối tượng hưởng thụ văn hóa. Đồng thời, con người lại vừa là động lực
của cách mạng. Vì thế, nói đến văn hóa, ta có thể hiểu rằng, văn hóa là động lực của
cách mạng. Cụ thể, văn hóa cơ thể khơi dậy sự sáng tạo, giúp con người phát huy tiềm 15
Trần Minh Thư – 2121013396
năng. Từ đó, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng nền cách mạng vững chắc,
tiên phong và phát triển.
Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho chúng ta
một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần,
động lực cộng đồng và cá nhân, nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều
có thể được xem xét dưới góc độ văn hoá. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa
cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh động lực có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu như sau:
-Văn hoá chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy
biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn
dẫn đến tư tưởng và hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
-Văn hoá văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm,
cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
- Văn hoá đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho
con người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quản điểm của
Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay là hại,
chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức Cách mạng hay là không. Văn hoá
đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy phát triển.
- Văn hoá pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
III. MỤC TIÊU CỦA ĐẢNG TA HƯỚNG ĐẾN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM.
Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa,
con người nên trong suốt quá trình thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn
kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. 16
Trần Minh Thư – 2121013396
Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không
ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình độ chung
của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao
lưu và hợp tác quốc tế.
Nhằm tạo môi trường và điều kiện để phát triển nhân cách và đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ
pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc… Vì nếu không xác
định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến
nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ
thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên
nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì
thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ
trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa VIII, Đảng ta tiếp tục
ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09-6-201 về xây dựng và phát triển nền văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bổ sung thêm
quan điểm mới là: sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải đáp ứng được
yêu cầu phát triển bền vững đất nước; phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, phải
quan tâm xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế… - Giải thích:
Cho đến Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đã khẳng định vai trò của lĩnh vực
văn hóa và tầm quan trọng của việc giữ gìn, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Đó là tập
trung xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, từ đó lấy cơ sở 17
Trần Minh Thư – 2121013396
để phát triển phẩm chất tốt đẹp, tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc của con người Việt Nam.
Có thể nói văn hóa đóng vai vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất
nước. Do vậy việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
là một nhiệm vụ tất yếu quan trọng trước bối cảnh hội nhập quốc tế và công cuộc xây
dựng, đổi mới đất nước. Sự giao lưu hội nhập văn hóa là quá trình tiếp thu những kiến
thức, nền tảng tiến bộ từ bên ngoài, nếu một đất nước không có nền văn hóa vững chắc
sẽ dễ dàng “hòa tan” và ngược lại. IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). NSX Chính trị Quốc Gia Sự Thật.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). NSX Chính trị Quốc Gia Sự Thật.
3. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng Sản Việt Nam,
ngày 01 tháng 02 năm 2021, Hà Nội.
4. Giang, B. (2021). Quan điểm của ĐCSVN về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người hiện nay - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang. Retrieved 23 April 2022, from
https://tuyengiaotiengiang.vn/news/Van-hoa-Van-nghe/Quan-diem-cua-
DCSVN-ve-xay-dung-va-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-hien-nay/
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
6. Thetrach91, X. (2013). Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Truy cập ngày 25/1/2022. Truy xuất từ https://duong-loi-cach-mang-cua-
dcsvn-wordpress.com/2013/10/22/-tinh-hinh-xa-hoi-viet-nam-cuoi-the-ky-xix- dau-the-ky-xx/
7. Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm
1951 của Đảng Lao động Việt Nam. 18