



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
VIÊ N KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
-------- --------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỔNG SẢN VIỆT NAM Đề tài :
PHÂN TÍCH CƠ SỞ VÌ SAO VIỆT NAM
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Nhóm: 4
Lớp học phần: 241HCMI0131-10
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Diệp lOMoAR cPSD| 47206071 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN DẪN ĐẾN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI .............................. 3
1.1. Chủ nghĩa Mác- Lênin ............................................................................................ 3
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh ........................................................................................... 3
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN DẪN ĐẾN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ......................... 4
2.1 Tình hình Việt Nam Trước đổi mới ......................................................................... 4
2.1.1. Tình hình kinh tế- chính trị Việt Nam trước đổi mới ................................... 4
2.1.1.1. Tình hình kinh tế............................................................................................. 4
2.1.1.2. Tình hình chính trị .......................................................................................... 5
2.1.2. Tình hình văn hóa- xã hội Việt Nam trước đổi mới .................................... 6
2.1.2.1. Tình hình văn hoá ........................................................................................... 6
2.1.2.2. Tình xã hội ...................................................................................................... 7
2.1.3. Ba bước đột phá tư duy của đảng ................................................................. 9
2.2. Tình hình thế giới trước đổi mới .......................................................................... 13
CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH, THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TRONG ĐỔI MỚI .......... 14
3.1. Quá trình đổi mới ................................................................................................. 14
3.1.1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát ra khủng hoảng kinh tế - xã hội ... 14
1986-1996 ............................................................................................................. 14
3.1.2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế . 16
(1996-nay) ............................................................................................................. 16
3.2 Thành tựu công cuộc đổi mới ................................................................................ 17
3.3. Hạn chế, nguyên nhân, và 1 số bài học kinh nghiệm công cuộc đổi mới ............ 19
LỜI KẾT ............................................................................................................................ 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 22
BIÊN BẢN HỌP THẢO LUẬN NHÓM LẦN 1 .............................................................. 23
BIÊN BẢN HỌP THẢO LUẬN NHÓM LẦN 2 .............................................................. 24 1 lOMoAR cPSD| 47206071 LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình phát triển của mỗi quốc gia đều trải qua những giai đoạn chuyển mình quan trọng,
và đối với Việt Nam, sự đổi mới đất nước là một trong những cột mốc lịch sử đánh dấu
bước tiến mới về kinh tế - xã hội. Trước khi đổi mới, Việt Nam phải đối diện với hàng loạt
khó khăn như khủng hoảng kinh tế kéo dài, lạm phát tăng cao, năng suất sản xuất thấp và
đời sống nhân dân gặp nhiều thách thức. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đổi mới trở nên cấp
thiết nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cả về
tư duy lãnh đạo lẫn mô hình phát triển.
Việc tiến hành đổi mới không chỉ phản ánh nỗ lực khắc phục những hạn chế của mô hình
kinh tế cũ, mà còn xuất phát từ nhu cầu bắt kịp với xu thế phát triển toàn cầu. Để hiểu rõ
hơn về lý do và động lực thúc đẩy Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, đề tài này sẽ
phân tích các cơ sở về kinh tế, chính trị, xã hội, và quốc tế, từ đó làm sáng tỏ các yếu tố
quan trọng dẫn đến quyết định đổi mới. Sự thay đổi này không chỉ nhằm cải thiện đời sống
của người dân mà còn hướng đến việc xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền
vững và hội nhập toàn cầu. 2 lOMoAR cPSD| 47206071
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN DẪN ĐẾN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
1.1. Chủ nghĩa Mác- Lênin
Cơ sở lý luân của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã ̣ hôi và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hộ i.̣
C.Mác xác định xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội
và “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”. Quá đô lên chủ nghĩa xã hộ i là mộ t quá trìnḥ lịch sử
rất dài với những nhiêm vụ, mục tiêu khác nhau tại những quốc gia khác nhau.̣ Thời kỳ này
ở các nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau có thể diễn ra với những khoảng
thời gian dài ngắn khác nhau. Thời kỳ quá độ khi tiến lên xã hội chủ nghĩa sẽ tương đối
ngắn sẽ đối với những quốc gia đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao. Những
nước trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, những nước có
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu thời gian sẽ tương đối dài. Đây sẽ là thời kỳ cải biến cách
mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo V.I.Lênin,“Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới. Bên cạnh đó, Lênin đã có nhiều
bước đột phá về lý luận, chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, đề xuất và yêu cầu phải đổi
mới căn bản tư duy về chủ nghĩa xã hội. Lênin đã mở ra hướng đi mới, con đường mới,
cách làm mới rất hiên thực cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ i đối với các nước ̣ châm phát triển.̣
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước
mạnh”. Nước Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ,lẻ, manh mún. Vì vậy chủ tịch Hồ Chí
Minh Khẳng Định: “Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương
pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn
đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt
mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em
và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng
về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác -
Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những
đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ
thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”.
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ta xây dựng CNXH từ
hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và còn dài”, “phải làm dần dần”, “không thể
một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Để đạt được mục tiêu đó, không
thể nôn nóng, chủ quan duy ý chí, phải tuân theo quy luât với nhiều giai đoạn, thờị kỳ cao
thấp khác nhau, với những giải pháp khác nhau. Người nhắc nhở phải học tâp có ̣ chọn lọc
kinh nghiêm của các nước anh em nhưng trước hết phải ra sức tìm tòi con đường ̣ và bước
đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Người cho rằng, con đường đi lên CNXH ở
Viêt Nam không thể làm vộ i vàng mà phải làm từng bước thậ n trọng, vững ̣ chắc. Nhiệm 3 lOMoAR cPSD| 47206071
vụ của thời kỳ quá độ là: “…phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH…Trong
quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. “Từ nước nông nghiệp đi lên, nên ta
cho nông nghiệp là quan trọng & ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp & công nghiệp nhẹ,
sau mới đến công nghiệp nặng”. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất
quan trọng trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng và vạch định đường lối đổi mới đất nước.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN DẪN ĐẾN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
2.1 Tình hình Việt Nam Trước đổi mới
2.1.1. Tình hình kinh tế- chính trị Việt Nam trước đổi mới
2.1.1.1. Tình hình kinh tế
Trong thập niên đầu sau thống nhất (1975-1985), Viêt Nam đã áp dụng chủ nghĩa xã ̣
hội chặt chẽ trong địa hạt kinh tế qua hệ thống chính sách "bao cấp", tập trung kiểm soát
các phương tiện sản xuất và phân phối. Nền kinh tế bị hoàn toàn tê liệt và dân chúng bị đói kém khó khăn.
Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung từ sau khi thống nhất đất
nước vào năm 1975. Các kế hoạch 5 năm được Nhà nước đề ra với mục tiêu phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, và các ngành sản xuất khác. Tuy nhiên, việc tập trung quyền lực vào
tay nhà nước mà không có sự tham gia của kinh tế tư nhân đã khiến mô hình kinh tế này
trở nên thiếu hiệu quả. Các kế hoạch do trung ương lập ra thường không phù hợp với tình
hình thực tế tại các địa phương, dẫn đến việc không đạt được mục tiêu sản xuất và gây lãng
phí nguồn lực. Hơn nữa, tất cả hoạt động sản xuất, phân phối đều do Nhà nước kiểm soát
dẫn đến các doanh nghiệp nhà nước thiếu động lực cạnh tranh và nâng cao năng suất. Công
nhân và nhân viên cũng không được khuyến khích cải tiến hay nâng cao hiệu suất làm việc.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam gặp khó khăn trong sản xuất lương thực. Phần
lớn nông dân làm việc với năng suất thấp do thiếu công cụ hiện đại và kỹ thuật canh tác lạc
hậu. Nông sản sản xuất ra chủ yếu là để tự cung tự cấp, không đủ cung ứng cho nhu cầu
trong nước. Việc thiếu lương thực đã dẫn đến tình trạng nhập khẩu gạo từ nước ngoài trong một số năm.
Trong công nghiệp, các nhà máy, cơ sở công nghiệp chủ yếu là từ thời thuộc địa và
thời chiến tranh, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thiếu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và công nghệ mới, khiến năng lực sản xuất không thể phát triển.
Kinh tế tập trung khiến các sản phẩm hàng tiêu dùng không được sản xuất đầy đủ để
đáp ứng nhu cầu người dân. Các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, quần áo,
và hàng gia dụng đều bị thiếu thốn. Cộng thêm hệ thống phân phối yếu kém do Nhà nước
kiểm soát hệ thống phân phối qua hình thức tem phiếu. Người dân phải xếp hàng để mua
những mặt hàng cơ bản, điều này làm gia tăng sự bất mãn và cảm giác thiếu thốn trong xã hội.
Chính sách chi tiêu ngân sách không được điều hành hợp lý. Trong đó, chi tiêu công
vượt quá khả năng thu ngân sách, gây mất cân đối tài chính, và Nhà nước buộc phải dựa 4 lOMoAR cPSD| 47206071
vào việc in tiền, dẫn đến lạm phát. Các chính sách tín dụng chủ yếu phục vụ cho các doanh
nghiệp nhà nước, nhưng vì năng suất của những doanh nghiệp này kém, nên nguồn vốn này
không được sử dụng hiệu quả. Điều này làm giảm khả năng phát triển của nền kinh tế nói chung.
Chiến tranh kéo dài trong suốt nhiều thập kỷ đã phá hủy hạ tầng và làm cạn kiệt nguồn
lực kinh tế của đất nước. Sau khi thống nhất, Việt Nam phải đối mặt với nhiệm vụ tái thiết
đất nước trong bối cảnh các nguồn lực bị thiếu hụt. Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam
không được sự hỗ trợ từ các nước phương Tây, đặc biệt do bị Hoa Kỳ cấm vận. Việc mất đi
các thị trường xuất khẩu và hạn chế khả năng nhập khẩu công nghệ và hàng hóa từ nước
ngoài khiến nền kinh tế gặp khó khăn trong việc hội nhập và phát triển.
Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Chúng ta bị các nước bao vây
cấm vận. Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước
sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng
nhỏ bé. Trước tình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát thực tế và
tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư duy về lý
luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phải có cơ chế
tự hạch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
2.1.1.2. Tình hình chính trị
Trước khi Đổi mới vào năm 1986, tình hình chính trị của Việt Nam gặp nhiều thách
thức, chủ yếu do hậu quả của chiến tranh, khó khăn kinh tế, và các vấn đề đối ngoại. Giai
đoạn trước Đổi mới, Việt Nam hoạt động dưới mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung với
sự quản lý chặt chẽ của Đảng Cộng sản.
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới một chính
quyền xã hội chủ nghĩa với Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối. Hệ
thống chính trị này mang đặc trưng của mô hình tập trung bao cấp, trong đó Đảng, Nhà
nước, và các cơ quan hành chính điều hành trực tiếp mọi hoạt động của xã hội. Chính quyền
được tổ chức theo mô hình quyền lực tập trung với sự lãnh đạo chặt chẽ từ trên xuống dưới.
Mô hình kinh tế và chính trị của Việt Nam trước Đổi mới chịu ảnh hưởng mạnh từ Liên Xô
và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Trong mô hình này, các cơ quan Nhà nước đóng vai
trò trung tâm trong việc quyết định các hoạt động kinh tế và xã hội. Tư duy này dẫn đến sự
cứng nhắc, thiếu linh hoạt và thiếu sự đổi mới sáng tạo trong quản lý và điều hành.
Kinh tế Việt Nam trước năm 1986 chủ yếu vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp. Các chỉ tiêu sản xuất được đặt ra từ trung ương và thực hiện theo một kế
hoạch cứng nhắc. Điều này dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong sản xuất, sự lãng phí nguồn lực
và thiếu động lực cho các đơn vị sản xuất. Nền kinh tế rơi vào tình trạng thiếu đói, làm
giảm lòng tin của người dân vào hiệu quả của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về đối ngoại và an ninh, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc vào năm
1979 đã làm cho quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng. Đồng thời, quan hệ với các
nước khác cũng trở nên phức tạp do tình hình xung đột quân sự và can thiệp quân sự vào
Campuchia để lật đổ Khmer Đỏ. Điều này khiến Việt Nam phải duy trì lực lượng quân sự
lớn và tạo ra áp lực kinh tế khổng lồ cho đất nước. Hơn nữa, Việt Nam còn bị cô lập trên
trường quốc tế. Nhiều quốc gia phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã áp đặt cấm vận, làm hạn 5 lOMoAR cPSD| 47206071
chế khả năng tiếp cận nguồn tài chính và công nghệ từ bên ngoài, khiến kinh tế trong nước
gặp thêm nhiều khó khăn.
Sau năm 1975, Việt Nam dựa chủ yếu vào sự trợ giúp của Liên Xô và các nước trong
khối xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, các khoản viện trợ này không thể bù đắp cho sự thiếu hụt
trầm trọng do kinh tế kém phát triển và chi phí chiến tranh. Đồng thời, từ đầu thập kỷ 1980,
Liên Xô cũng bắt đầu gặp khó khăn về kinh tế, làm giảm sự hỗ trợ cho Việt Nam.
Những khó khăn về kinh tế, tình trạng thiếu thốn hàng hóa, và cuộc sống khó khăn
của người dân đã gây ra sự bất mãn rộng rãi. Các chỉ thị và kế hoạch từ trung ương thường
không phù hợp với thực tế địa phương, gây ra sự chán nản và mất lòng tin của người dân
với hệ thống chính quyền.
Tóm lại, trước khi tiến hành Đổi mới vào năm 1986, tình hình chính trị và kinh tế của
Việt Nam chịu nhiều áp lực và khủng hoảng do hệ quả của chiến tranh, mô hình quản lý tập
trung quan liêu và bao cấp kém hiệu quả, cũng như sự cô lập quốc tế. Những điều này đã
tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc thay đổi, từ đó mở ra một giai đoạn mới, đưa Việt Nam
đến con đường phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
2.1.2. Tình hình văn hóa- xã hội Việt Nam trước đổi mới
2.1.2.1. Tình hình văn hoá
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1986, Việt Nam trải qua những khó khăn kinh tế và xã
hội sâu sắc, và đời sống văn hóa cũng không ngoại lệ. Trong bối cảnh xây dựng một xã hội
theo mô hình xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt Nam thời kỳ này bị kiểm soát chặt chẽ và
trở nên đơn điệu, hạn chế sự phát triển sáng tạo.
Sau năm 1975, nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa thống nhất, nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tư tưởng và
nội dung của các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, và truyền thông đều phải tuân thủ các quy
định nghiêm ngặt về tư tưởng chính trị.
Các hoạt động văn hóa như văn học, nghệ thuật, và phim ảnh đều bị giám sát và định
hướng theo đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước. Nền văn hóa thời kỳ này chủ yếu là
công cụ để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa, ca ngợi cuộc chiến đấu và thành công
của giai cấp công nhân, nông dân và quân đội. Điều này làm giảm tính đa dạng và tự do
sáng tạo trong các lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa. Trong suốt thập niên 1980, các tác phẩm
văn học thường xoay quanh các đề tài chiến tranh cách mạng, công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, và hình ảnh người lao động, quân nhân. Sáng tác văn học và nghệ thuật chịu
sự ràng buộc từ các quy định tư tưởng chính trị, dẫn đến việc nhiều tác phẩm không phản
ánh chân thực những thay đổi và thách thức của xã hội thời kỳ đó.
Trong giai đoạn này, sự kiểm soát tư tưởng và nội dung đã làm cho văn học và nghệ
thuật bị đóng khung và thiếu tính sáng tạo. Các nghệ sĩ và nhà văn bị hạn chế trong việc
biểu đạt cá nhân và khám phá các chủ đề mới mẻ hay phức tạp của xã hội.
Văn học thời kỳ này bị chi phối bởi các đề tài chính trị, chủ yếu phục vụ cho nhiệm
vụ tuyên truyền. Các tác phẩm thường nhấn mạnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, và đời sống của giai cấp công nhân, nông dân. Những tác phẩm
đi ngược lại hoặc không phù hợp với quan điểm chính trị đều bị cấm đoán hoặc kiểm duyệt.
Nhà văn Nguyên Ngọc với tác phẩm nổi tiếng Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, đã thể 6 lOMoAR cPSD| 47206071
hiện rõ nét tinh thần cách mạng trong cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, đến thập niên 1980, sự
sáng tạo cá nhân của nhiều nhà văn bị kìm hãm, và việc viết về các vấn đề xã hội mới nổi
như sự khó khăn kinh tế, khủng hoảng đời sống và thất nghiệp ít được phản ánh trong các tác phẩm văn học.
Văn hóa quần chúng thời kỳ này cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ chính sách văn hóa
tập trung. Các hoạt động văn hóa chủ yếu xoay quanh việc tuyên truyền về xây dựng đất
nước và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, dẫn đến sự thiếu phong phú và hấp dẫn đối với người dân.
Những lễ hội, hoạt động văn hóa quần chúng thường bị chính trị hóa mạnh mẽ. Các
cuộc triển lãm, buổi biểu diễn nghệ thuật hay các hội thi văn nghệ đều phải tuân theo các
quy định về nội dung và phải gắn với các sự kiện chính trị lớn, làm giảm tính giải trí và tự
do của văn hóa quần chúng. Các chương trình văn nghệ như Tiếng hát át tiếng bom, Những
người đi xây hồ Kẻ Gỗ đều nhấn mạnh tinh thần lao động xây dựng đất nước và chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc. Những hình thức giải trí mới, sáng tạo, hay hấp dẫn hơn đều ít xuất hiện,
khiến đời sống văn hóa của nhân dân trở nên khô khan và thiếu sinh động.
Trong giai đoạn trước Đổi mới, hệ thống giáo dục Việt Nam cũng bị ràng buộc chặt
chẽ bởi hệ tư tưởng chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển tri thức, khoa học và các giá trị văn hóa khác.
Sự tiếp cận với các nguồn thông tin và văn hóa quốc tế bị giới hạn do chính sách đóng
cửa và cô lập kinh tế của Việt Nam trong thập niên 1970 và 1980. Người dân rất ít cơ hội
tiếp cận với các giá trị văn hóa, văn học, âm nhạc, và nghệ thuật từ bên ngoài. Điều này làm
hạn chế sự giao thoa văn hóa và ảnh hưởng đến việc phát triển sáng tạo trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật. Nhiều tài liệu, sách báo từ phương Tây hoặc các nước ngoài khối xã hội
chủ nghĩa bị coi là không phù hợp và bị hạn chế. Các nghệ sĩ và trí thức không có cơ hội
tiếp cận với những tư tưởng, kỹ thuật mới trong văn học và nghệ thuật từ quốc tế, điều này
dẫn đến sự lạc hậu và đơn điệu trong các tác phẩm sáng tạo.
Tình trạng khó khăn về kinh tế, lạm phát, và thiếu thốn lương thực trong giai đoạn
trước Đổi mới đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân. Sự thiếu vắng
các hoạt động văn hóa giải trí và những hạn chế trong sáng tạo nghệ thuật càng làm gia tăng
tâm lý căng thẳng, mệt mỏi trong xã hội.
Trong khi đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn, đời sống tinh thần cũng không được
cải thiện. Các nhu cầu về giải trí, văn hóa, và giáo dục của người dân không được đáp ứng
đầy đủ. Sự thiếu tự do sáng tạo và những hạn chế trong đời sống văn hóa khiến cho nhiều
người cảm thấy bế tắc và không có nhiều động lực. Những câu chuyện, tác phẩm văn học
và nghệ thuật phản ánh rõ ràng sự mệt mỏi, căng thẳng của người dân trong giai đoạn này.
Mặc dù nhiều người vẫn cố gắng tham gia vào các hoạt động văn nghệ, văn hóa quần chúng,
nhưng sự đơn điệu và thiếu phong phú đã khiến những hoạt động này không thể đáp ứng
đầy đủ nhu cầu về tinh thần của người dân.
2.1.2.2. Tình xã hội
Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, Việt Nam bước vào giai đoạn tái thiết và
xây dựng xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn này, nền 7 lOMoAR cPSD| 47206071
kinh tế tập trung bao cấp đã bộc lộ nhiều khuyết điểm, và hệ quả là xã hội rơi vào khủng
hoảng với những khó khăn sâu sắc trong nhiều lĩnh vực.
Sau năm 1975, Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Dù là một
nước nông nghiệp, nhưng sản lượng lương thực không đáp ứng được nhu cầu của dân số.
Nông nghiệp bị quản lý chặt chẽ bởi nhà nước, đặc biệt là việc thực hiện các hợp tác xã
nông nghiệp ở miền Bắc. Người dân không có động lực sản xuất do thiếu quyền sở hữu đất
đai và lợi ích cá nhân. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, đặc biệt là
tại các vùng nông thôn. Nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, và sự khan hiếm lương thực trở thành
vấn đề nghiêm trọng. Đầu thập niên 1980, Việt Nam đã trải qua những cuộc khủng hoảng
lương thực lớn. Nhiều vùng tại miền Bắc và miền Trung rơi vào tình trạng thiếu đói. Năm
1984, chính phủ Việt Nam phải nhập khẩu lương thực từ nước ngoài để đối phó với tình
trạng khủng hoảng lương thực trong nước. Điều này cho thấy nền sản xuất nông nghiệp
không còn tự cung tự cấp được như kỳ vọng ban đầu.
Hệ thống bao cấp được triển khai để kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất và phân
phối hàng hóa, nhưng nó đã tạo ra sự phân hóa và bất bình đẳng trong xã hội. Nhà nước
kiểm soát chặt chẽ việc phân phối lương thực, hàng tiêu dùng, và các nhu yếu phẩm cơ bản,
khiến cho một bộ phận lớn người dân phải dựa vào hệ thống tem phiếu để tồn tại.
Người dân không thể tự do mua hàng hóa mà phải nhận khẩu phần theo quy định của
nhà nước thông qua hệ thống tem phiếu. Hàng hóa cung cấp thông qua hệ thống này thường
khan hiếm, chất lượng kém và không đủ đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân. Điều này
dẫn đến tình trạng phân biệt giữa các tầng lớp dân cư khi một số người có quyền tiếp cận
nguồn hàng hóa phong phú hơn, trong khi số đông khác phải chật vật với khẩu phần ít ỏi.
Nhiều người dân phải xếp hàng dài để mua các mặt hàng như gạo, đường, dầu, xà phòng,
và thậm chí quần áo. Hệ thống bao cấp làm giảm động lực làm việc của người lao động, vì
dù nỗ lực sản xuất nhiều hay ít, họ vẫn chỉ nhận được lượng hàng hóa cố định. Điều này
dẫn đến sự bất mãn sâu rộng trong xã hội.
Trong suốt giai đoạn từ 1975 đến 1986, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề
từ chính sách kinh tế tập trung bao cấp và hậu quả của chiến tranh. Một trong những vấn
đề nghiêm trọng nhất là tình trạng lạm phát phi mã.
Trong thập niên 1980, Việt Nam chứng kiến mức lạm phát rất cao, lên tới 700-800%
mỗi năm. Giá cả hàng hóa tăng vọt, và tiền lương của người lao động không theo kịp với
sự gia tăng của giá cả. Điều này làm giảm sức mua của người dân, khiến đời sống ngày
càng trở nên khó khăn. Người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận hàng hóa cơ bản để duy
trì cuộc sống, từ đó gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Cuộc cải
cách tiền tệ năm 1985 là một nỗ lực của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, nhưng lại gây
ra những hậu quả tiêu cực. Đồng tiền mất giá trầm trọng, và người dân bị ảnh hưởng nặng
nề khi tiền lương không đủ để chi trả cho các nhu yếu phẩm hàng ngày. Cuộc cải cách này
không chỉ thất bại trong việc kiềm chế lạm phát mà còn khiến niềm tin của người dân vào
chính sách kinh tế của nhà nước suy giảm.
Tình trạng xã hội trong giai đoạn này đã tạo ra nhiều bất mãn trong nhân dân. Sự bất
bình đẳng trong việc phân phối hàng hóa, tình trạng khủng hoảng kinh tế và lạm phát, cũng
như đời sống văn hóa nghèo nàn đã làm gia tăng áp lực đòi hỏi cải cách. Người dân mong 8 lOMoAR cPSD| 47206071
muốn có một sự thay đổi toàn diện để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài. Nhiều
cuộc thảo luận và ý kiến từ trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như từ người dân
đều thể hiện nhu cầu bức thiết phải thay đổi mô hình kinh tế và xã hội. Đại hội VI năm 1986
là bước ngoặt, đánh dấu sự ra đời của chính sách Đổi mới, nhằm giải quyết các vấn đề sâu
sắc mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt.
Sau năm 1975, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn bùng nổ dân số đáng kể, gây ra
nhiều thách thức nghiêm trọng cho nền kinh tế, xã hội và môi trường của đất nước. Tỷ lệ
sinh cao sau chiến tranh cùng với các chính sách phát triển dân số đã làm cho nhu cầu về
lương thực, y tế, giáo dục và việc làm tăng đột biến. Tuy nhiên, những khó khăn trong việc
đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng đã làm trầm trọng thêm các vấn đề về kinh tế và xã hội.
Trong nông nghiệp, chính sách hợp tác xã và sự quản lý kém hiệu quả đã khiến cho
sản xuất lương thực không theo kịp tốc độ gia tăng dân số. Điều này dẫn đến tình trạng
thiếu lương thực, đặc biệt là vào đầu thập niên 1980 khi nhiều khu vực phải đối mặt với nạn đói nghiêm trọng.
Hệ thống y tế và giáo dục cũng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu khi dân số gia
tăng nhanh chóng. Bệnh viện quá tải, thiếu trang thiết bị và nhân lực y tế, trong khi các
trường học thiếu giáo viên và cơ sở vật chất. Sự quá tải trong các lĩnh vực này làm suy giảm
chất lượng dịch vụ và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và sự phát triển của người dân.
Ngoài ra, dân số tăng cũng gây áp lực lớn cho thị trường lao động, đặc biệt trong bối
cảnh nền kinh tế bao cấp không thể tạo ra đủ việc làm. Người dân ở nông thôn phải di cư
lên thành phố để tìm kiếm việc làm, dẫn đến tình trạng quá tải về hạ tầng đô thị và gia tăng
tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực thành thị. Áp lực từ dân số cũng gây ra những vấn đề môi
trường nghiêm trọng, bao gồm tình trạng phá rừng, suy thoái đất và ô nhiễm môi trường.
Giai đoạn 1975-1986 đánh dấu một thời kỳ đầy thử thách đối với xã hội Việt Nam.
Nền kinh tế tập trung bao cấp gây ra tình trạng thiếu thốn, lạm phát, và khủng hoảng xã hội,
khiến cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Đời sống văn hóa bị kiểm soát chặt chẽ
bởi tư tưởng chính trị, làm hạn chế sáng tạo và sự phong phú của văn hóa dân tộc. Trước
những khó khăn này, nhu cầu cải cách trở nên cấp thiết và dẫn đến đường lối Đổi mới vào
năm 1986, mở ra một chương mới cho sự phát triển văn hóa và xã hội của Việt Nam.
2.1.3. Ba bước đột phá tư duy của đảng
Sau năm 1975 đất nước đang trải qua nhiều khó khăn do hậu quả của 30 năm chiến
tranh giặc ngoại xâm và chủ nghĩa thực dân ở miền Nam ở tất cả lĩnh vực chiến tranh,
ngoại giao, kinh tế, xã hội. Trước đó đất nước cũng phải chịu nhiều thiệt hại do 2 cuộc chiến
năm 1964-1968 và 1972, trong khi kinh tế và sản xuất thì bị khủng hoảng cân bằng giữa
quân đội và nhu yếu phẩm, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đang phải đối
mặt với vấn đề riêng của chính họ. Trước áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc
tế buộc chúng ta không còn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên
để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế. Ba bước đột phá về kinh tế: 9 lOMoAR cPSD| 47206071
Bước đột phá đầu tiên
Hội nghị trung ương 6 khóa IV (từ ngày 15-23/8/1979) lúc đầu định bàn về kinh tế địa
phương và sản xuất hàng tiêu dùng nhưng sau đã chuyển sang bàn về những vấn đề kinh tế
- xã hội cấp bách có liên quan đến đường lối và chính sách kinh tế - xã hội trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hội nghị đề ra mục tiêu “làm cho sản xuất bung ra” hay nói cách khác “cởi trói cho
sản xuất” nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là phải khắc phục
những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh
những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, Hội nghị cho
rằng nguyên nhân của tình hình khó khăn về kinh tế là do việc xây dựng kế hoạch kinh tế
thiếu căn cứ khoa học; chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hóa với thị trường; chưa chú ý tăng
trưởng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế; có những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam. Từ đó, Hội nghị đã đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong
quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, Hội nghị xác định phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất là động viên cao độ
và tổ chức toàn dân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Mục đích là nhằm đảm bảo
lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng
xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đó, cần ban hành những chủ
trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa
vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do;
khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc
dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực
để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp,
bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
Tiếp theo là về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng phải tận dụng các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất; phải tùy từng ngành nghề,
từng mặt hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức
sản xuất cho thích hợp. Hội nghị còn chỉ rõ, cái gì hợp tác đã làm tốt thì không vội vàng
thay thế bằng quốc doanh. Đối với cá thể, kể cả sản xuất, sửa chữa và dịch vụ, xét sản phẩm
nào, công việc nào cá thể hiện đang làm tốt, phục vụ tốt thì giúp các thể tiếp tục làm, một
số mặt hàng hiện do quốc danh phụ trách sản xuất, nay nếu xét để cho tiểu, thủ công nghiệp
và tư bản tư nhân sản xuất có điều kiện phát triển thuận lợi hơn thì cần mạnh dạn giao lại
cho tiểu, thủ công và tư nhân làm. Đối với công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở miền Nam, phải
uốn nắn những nhận thức lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về sự tồn tại các
thành phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý nhằm
phát triển sản xuất. Đối với công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, Hội nghị
xác định phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải nhấn mạnh
vững chắc; chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép, mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại
cho sản xuất và đời sống nhân dân. 10 lOMoAR cPSD| 47206071
Trước hiện tượng “khoán chui” ở một số các hợp tác xã nông nghiệp, ngày 13/01/1981
Ban Bí thư ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời. Theo tinh thần của Chỉ thị
này, mỗi xã viên nhận mức khoán trên một diện tích nhất định và tự mình làm 3 khâu, cấy,
chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Nếu thu hoạch
vượt mức khoán thì xã viên được hưởng. Phương hướng chủ yếu trong cải tiến khoán là
khuyến khích lợi ích chính đáng của người lao động làm cho mọi người tham gia các khâu
trong quá trình sản xuất và quản lý hợp tác xã đều gắn với sản phẩm cuối cùng. Chỉ thị ra
đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận. Với hình thức khoán ấy, tuy còn ở trình độ
thấp nhưng đã tạo nên không khí phấn khởi trong nông dân. Nhiều hiện tượng tiêu cực, lãng
phí ngày công đã từng tồn tại từ nhiều năm trong các hợp tác xã nông nghiệp thì chỉ trong
các hợp tác xã nông nghiệp thì chỉ trong một vụ đông xuân (1981-1982) áp dụng cách khoán
mới đã giảm nhiều, theo đó sản xuất nông nghiệp ở nước ta trong thời kỳ 1981-1985 đã có
những bước tiến đáng kể.
Trên lĩnh vực công nghiệp, ngày 21/01/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 25/CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh. Quyết định nêu rõ cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng
đắn quan hệ hàng hóa, thị trường, kinh doanh có lãi; cho phép các xí nghiệp quốc doanh có
nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba phần (phần Nhà nước giao, phần tự làm, phần sản xuất
phụ). Cùng ngày 21/01, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 26/CP về việc mở rộng
hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng, bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công
nghiệp. Những chủ trương chính sách nêu trên giúp cơ sở tự giải quyết một phần khó khăn,
góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước..
Bước đột phá đổi mới tư duy kinh tế lần thứ nhất khi triển khai đã được nhân dân cả
nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên những giải pháp
của Hội nghị Trung ương 6 khóa IV nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn, những vấn đề do
thực tiễn đặt ra vì nó vẫn nằm trong bối cảnh chung là mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, tư duy
về kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cơ bản còn tồn tại. Sau một thời gian thực hiện lại
xuất hiện những khó khăn mới: sản xuất bung ra nhưng không đúng hướng; hàng lậu, hàng
giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao. Từ đây đặt ra những yêu cầu thực tiễn đòi hỏi
Đảng phải tiếp tục tìm tòi đổi mới.
Bước đột phá thứ 2
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) phát triển thêm một bước, đánh giá
một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra
nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về
lãnh đạo và quản lý. Để góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm
về “chặng đường trước mắt” của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội
dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
hợp lý”. Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một thời gian
nhất định ở miền Nam. 11 lOMoAR cPSD| 47206071
Đại hội đưa ra chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực
hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển đổi tất cả hoạt
động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng
sang nguyên tắc kinh doanh, điểm quan trọng là Hội nghị đã thừa nhận sản xuất hàng hóa
và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Tuy nhiên, do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá
cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986,
nước ta lại phải lùi lại một bước, quay trở lại thực hiện chính sách hai giá. Nền kinh tế đạt
được một số tiến bộ, song nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Hội
nghị chỉ ra nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa rõ.
Bước đột phá thứ 3:
Đại hội VI (8/1986) đã đưa ra kết luận vấn đề kinh tế. Đây là bước đột phá thứ ba về
đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã
xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế. Từ đó, đưa ra kết luận
đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế:
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra
một số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển
sản xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như
nền kinh tế như dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không
ngừng tăng lên. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải quyết căn bản
các vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng cho sản xuất.
Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật
sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển
công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ,
công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, thực hiện cho được ba chương trình
quan trọng nhất về lượng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tại xã hội chủ
nghĩa. Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng
như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao,
từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần,
đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo
thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo
xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản
lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản
xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong. 12 lOMoAR cPSD| 47206071
Trong cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi
với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ
nghĩa là đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ,
dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật
giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Nhìn một cách khái quát, 3 bước đột phá đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo
ra động lực thiết thực cho người lao động – đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật
chất thiết thân của người lao động… Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang
tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn
bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt.
2.2. Tình hình thế giới trước đổi mới
Giai đoạn 1975-1986 là một thời kỳ đầy biến động đối với tình hình thế giới, ảnh
hưởng sâu sắc đến bối cảnh kinh tế, chính trị, và xã hội của Việt Nam. Sự thay đổi trong
quan hệ quốc tế, các cuộc chiến tranh cục bộ, và sự đối đầu giữa các siêu cường đã tạo ra
nhiều thách thức, khiến Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cả phát triển kinh
tế lẫn quan hệ đối ngoại.
Cao trào của Chiến tranh Lạnh, cuộc xung đột về tư tưởng và địa chính trị giữa hai
siêu cường là Liên Xô và Hoa Kỳ. Cuộc đối đầu giữa hai khối Đông - Tây đã tạo ra sự phân
chia trên toàn cầu và tác động lớn đến các quốc gia như Việt Nam.
Sau năm 1975, Việt Nam chọn theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và nhận
sự hỗ trợ đáng kể từ Liên Xô và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự phụ
thuộc vào Liên Xô đã khiến Việt Nam gặp khó khăn khi nền kinh tế toàn cầu thay đổi, đặc
biệt khi Liên Xô bắt đầu suy yếu vào đầu thập niên 1980. Liên Xô cung cấp viện trợ quân
sự và kinh tế lớn cho Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn chiến tranh biên giới với Trung
Quốc và xung đột ở Campuchia. Tuy nhiên, khi khối Đông Âu rơi vào khủng hoảng vào
cuối thập niên 1980, Việt Nam mất dần nguồn hỗ trợ từ bên ngoài, buộc phải tìm kiếm cách
thức đổi mới kinh tế để tự đứng vững.
Một trong những sự kiện quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam trong giai đoạn
này là cuộc xung đột biên giới với Trung Quốc và can thiệp vào Campuchia. Các cuộc chiến
này không chỉ gây tổn thất về người và tài sản mà còn làm Việt Nam bị cô lập trên trường
quốc tế. Cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979, sau khi Việt Nam đánh bại
Khmer Đỏ và tiến vào Campuchia để lật đổ chế độ này vào năm 1979, Trung Quốc phản
ứng bằng việc tiến hành cuộc chiến tranh biên giới. Mặc dù Việt Nam giành được thắng lợi
về mặt quân sự, nhưng cuộc xung đột này đã làm tổn hại nghiêm trọng đến quan hệ với
Trung Quốc và đẩy Việt Nam vào tình thế bị cô lập hơn nữa. Sự xung đột với Trung Quốc
không chỉ làm mất đi một đồng minh quan trọng mà còn khiến Việt Nam phải tập trung
nguồn lực cho quốc phòng, thay vì phát triển kinh tế. Trung Quốc cắt đứt viện trợ kinh tế
và quân sự, đồng thời tác động đến các quốc gia khác trong khu vực để cô lập Việt Nam.
Điều này làm cho nền kinh tế Việt Nam càng thêm khó khăn. 13 lOMoAR cPSD| 47206071
Thập niên 1970-1980 chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới,
bao gồm khủng hoảng dầu mỏ và sự suy thoái của các nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Những biến động này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 1973 và 1979 khiến giá dầu tăng vọt, gây
ra lạm phát trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, một quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu năng
lượng, sự tăng giá dầu và lạm phát đã gây ra tình trạng thiếu thốn năng lượng và khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng. Nền kinh tế tập trung của Việt Nam không thích nghi được với
những thay đổi lớn của thị trường thế giới, khiến tình trạng lạm phát và thiếu thốn càng
trầm trọng hơn. Sự tăng giá dầu làm tăng chi phí sản xuất, trong khi đó việc xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam lại không đủ để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn đến tình trạng khan hiếm
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng trong nước.
Bên cạnh đó, bắt đầu có sự suy yếu trong Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Đầu thập
niên 1980, khối xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, bắt đầu đối mặt với nhiều vấn đề nội
tại về kinh tế và chính trị. Chính sách cải cách Perestroika và Glasnost của Mikhail
Gorbachev vào giữa thập niên 1980 cho thấy sự suy yếu của hệ thống này. Điều này đã tạo
áp lực lớn lên các quốc gia xã hội chủ nghĩa, bao gồm Việt Nam, trong việc tìm kiếm con
đường phát triển mới.
Khi nền kinh tế Liên Xô gặp khó khăn, họ bắt đầu giảm viện trợ cho các nước đồng
minh như Việt Nam, bao gồm cả viện trợ kinh tế và quân sự. Điều này gây ra thiếu hụt
nghiêm trọng trong các lĩnh vực công nghiệp và quốc phòng, đặc biệt khi Việt Nam vẫn
đang phải đối mặt với các cuộc xung đột quân sự ở Campuchia và trên biên giới với Trung
Quốc. Đưa Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng hơn, buộc phải
xem xét lại chiến lược phát triển.
Tình hình thế giới từ năm 1975 đến 1986 có nhiều biến động, với sự căng thẳng của
Chiến tranh Lạnh, các cuộc xung đột biên giới, khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự suy yếu
của khối xã hội chủ nghĩa. Những yếu tố này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam, đẩy
đất nước vào tình trạng cô lập và khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Trước bối
cảnh này, Việt Nam đã phải đối mặt với áp lực lớn để thay đổi và cải cách, dẫn đến quyết
định thực hiện Đổi mới vào năm 1986, mở ra một con đường phát triển mới cho đất nước.
CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH, THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TRONG ĐỔI MỚI
3.1. Quá trình đổi mới
3.1.1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát ra khủng hoảng kinh tế - xã hội 1986 - 1996 Hoàn cảnh lịch sử
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, cụ thể đối thoại
đang dần thay thế xu thế đối đầu. Liên Xô và các nước XHCN đều tiến hành cải tổ sự nghiệp
xây dựng CNXH. Tại Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận
và đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - XH. Vậy nên yêu cầu cấp thiết lúc này chính
là đổi mới đất nước. 14 lOMoAR cPSD| 47206071
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng(1986) và đường lối đổi mới toàndiện đất nước
Đại Hội VI của Đảng diễn ra tại HN từ ngày 15-18/12/1986 đã bầu đồng chí Nguyễn
Văn Linh làm Tổng Bí thư và thông qua đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đã
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Qua đó rút ra
được 4 bài học kinh nghiệm:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng, “Lấy dân làm gốc
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng XHCN
Về cải tạo XHCN: cải tạo XHCN thường xuyên, với hình thức bước đi thích hợp thực
hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế.
Về cơ chế quản lý kinh tế: xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường
Về cơ cấu kinh tế: chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Lần đầu tiên Đảng nâng việc giải quyết vấn đề XH lên tầm chính sách xã hội. Các
chính sách bao gồm việc kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm, thực hiện công bằng
XH, bảo đảm an toàn XH, chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe nhân dân, xây dựng chính sách bảo trợ XH
Đại hội cũng đưa ra đổi mới trong chính sách đối ngoại đó là tăng cường tình hữu nghị
hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN, bình thường hóa quan hệ TQ, tăng cường
quan hệ đặc biệt giữa 3 nước Đông Dương, giữ vững hòa bình ở Đông
Dương, ĐNA và trên thế giới
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế đổi mới
công tác tư tưởng. Cần đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc nhưng vẫn giữ
vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng.
Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
Qua đây ta đánh giá rằng đại hội chưa tìm ra được giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình
trạng rối ren trong phân phối lưu thông.
Đại hội VI là đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước
ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH - Hoàn cảnh lịch sử 15 lOMoAR cPSD| 47206071
Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng và sau đó
sụp đổ hoàn toàn (12/1991). Đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng KT- XH
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 bầu đồng chí Đỗ
Mười làm Tổng Bí thư. Điểm mới nổi bật của đại hội là thông qua 2 văn kiện quan trọng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - XH đến năm 2000
Đại hội VII khẳng định kiên trì con đường đi lên CNXH và đường lối đổi mới đất
nước. Lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng HCM khẳng định ĐCSVN lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã nêu ra
năm 5 bài học lớn, 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam và 7 phương hướng lớn xây
dựng XHCN. Đại hội cugnx có những định hướng lớn về kinh tế, xã hội, quốc phòng - an
ninh, đối ngoại, hệ thoogns chính trị
Đại hội VII là đại hội của “trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết”. Đại hội củng
cố thêm niềm tin tưởng của nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước. Về cương lĩnh
thì đã hoạch định con đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của VIệt Nam
3.1.2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế (1996-nay)
Nhiệm vụ chính tại các đại hội VII,IX,X, XI,XII,XIII tập trung chủ yếu vào việc tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động và
sử dụng tốt mọi nguồn lực,sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
đất nước, tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đưa nước ta trở thành
nước phát triển theo định hướng XHCN
Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển 2011) đã nêu ra 5 bài học kinh
nghiệm lớn, những đặc điểm, xu thế chung, các đánh giá về CNXH. Nêu ra 8 đặc trưng của
xã hội XHCN, 8 phương hướng cơ bản xây dựng XHCN và những định hướng lớn về phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, chính trị. Trong đó 8 đặc
trưng của xã hội XHCN bao gồm:
+ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh + Do nhân dân làm chủ
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
+ Các dân tộc trong cộng đồng VIệt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển
+ Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới 16 lOMoAR cPSD| 47206071
So với cương lĩnh 1991, cương lĩnh 2011 đã bổ sung từ 6 đặc trưng thành 8 đặc trưng.
Thêm 2 đặc trưng:dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. Từ “do
nhân dân lao động làm chủ” thành “ do nhân dân làm chủ”, Từ “có 1 nền kinh tế phát triển
cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về các TLSX chủ yếu” thành “Có một nền
kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Từ
“con người được giải phóng khỏi mọi áp lực bóc lột bất công làm theo năng lực hưởng theo
lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”
thành “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”…..
Cương lĩnh (2011) là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin tư tưởng HCM vào
sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN thể hiện nhận thức mới
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN, là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng
với hành động của toàn Đảng, toàn dân.
3.2 Thành tựu công cuộc đổi mới Kinh tế
Phát triển kinh tế sau Đổi mới (1986). Đảng đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giúp kinh tế dần phát triển và thoát khỏi khủng hoảng vào năm 1996.
Thoát khỏi tình trạng nghèo nàn (2008). Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình vào năm 2008, tiếp tục công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển kinh tế giai đoạn Đại hội XIII. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển ổn định, với quy mô và chất lượng tăng trưởng cải thiện, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách kinh tế phù hợp với hội nhập quốc tế. đại hội XII nêu rõ: “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển, kinh tế vĩ mô ổn định,
vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo, tốc độ tăng trưởng
duy trì ở mức khá cao, quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”
Cải thiện môi trường kinh doanh. Các rào cản thị trường được gỡ bỏ, môi trường đầu
tư và kinh doanh được cải thiện, kinh tế tư nhân và khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh
mẽ. Doanh nghiệp nhà nước được tái cơ cấu hiệu quả hơn, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh.
Tăng trưởng kinh tế nhiệm kỳ XII (2016-2019). Mặc dù đối mặt với đại dịch COVID-
19 và thiên tai, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020 vẫn đạt 6%/năm,
với GDP năm 2020 đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD. Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng lên từ 4,3%/năm giai đoạn năm
2011-2015 lên khoảng 6%/ năm giai đoạn 2016-2020.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đổi mới và có bước phát triển. Được coi
là thành tựu quan trọng trong quá trình Đổi mới, với chiến lược phát triển từ năm 1996
nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. 17 lOMoAR cPSD| 47206071
chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai,
bước đầu có hiểu quả. mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng về quy mô.
Đổi mới giáo dục. Giáo dục và đào tạo được đổi mới toàn diện, mạng lưới giáo dục
mở rộng, chương trình và phương pháp giảng dạy cải tiến, quản lý đại học được nâng cấp,
chất lượng giáo dục đại học và nghề nghiệp cải thiện. Đầu tư cho giáo dục tăng cường, hợp
tác quốc tế phát triển, nhân lực chất lượng cao gia tăng.
Phát triển khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ đóng vai trò động lực phát
triển kinh tế - xã hội. tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nuwocs được tăng cường,
góp phần nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe, an ninh quốc
phòng, và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Khoa học xã hội và nhân văn: Đóng góp vào xây dựng đường lối chính sách, phát triển
nền tảng tư tưởng của Đảng, và bảo vệ đất nước.
Văn hóa, xã hội
Phát triển văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng : Đảng chủ trương
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1998, kế thừa và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống. Văn hóa trong chính trị và kinh tế bước đầu phát huy hiệu
quả, gắn với việc xây dựng con người Việt Nam toàn diện, sâu sắc hơn.
Xây dựng con người toàn diện. Phát triển con người Việt Nam trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nhấn mạnh việc xây dựng những giá trị tốt đẹp, đồng
thời đấu tranh chống cái xấu và lạc hậu.
Chính sách xã hội và phúc lợi. Chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo ngày càng hoàn
thiện và tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi cho người dân,
đặc biệt là chính sách với người có công, bảo hiểm y tế đạt trên 90%.
Cải thiện đời sống nhân dân. Đời sống người dân được nâng cao rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo
giảm xuống dưới 3%, hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.
Chính trị, quốc phòng-an ninh, đối ngoại
“Chính trị - xã hội - ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan
hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật”
Tăng cường quốc phòng, an ninh: Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ
chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.
Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy
hoach kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. “ đã ban hành và triển khai đồng bộ cóc chiến
lược quan trọng như: chiến lược bảo vệ tổ quốc, chiến lược quốc phòng, chiến lược quân
sự, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và chiến lược
bảo về Tổ quốc trên không gian mạng”
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế: Quan hệ đối ngoại và hôi nhập quốc tế tiếp
tục mở rộng cà đi vào sâu, tạo khung khi quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. tích
cực tham gia các thể chế đa phương toàn cầu và khu vực, xử lý hiệu quả quan hệ với các
nước lớn và đối tác chiến lược. 18 lOMoAR cPSD| 47206071
Hệ thống chính trị
Kết hợp đổi mới kinh tế và chính trị: Ngay từ đầu, Đảng kết hợp đổi mới kinh tế và
hệ thống chính trị, hệ thống chính trị không ngừng được xây dựng củng cố vững mạnh.
“sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy”
Đổi mới tổ chức chính trị và bảo đảm quyền con người: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân đổi mới hoạt động, tôn trọng quyền con người và công dân theo Hiến pháp
2013, chú trọng dân chủ trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở. “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện,
hoạt động hiệu lực hiểu quả hơn; đảm bảo thực hiện đồng bộ, các quyền lập pháp, phát hành
và tư phát”.”công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiểu quả rõ rêt”.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng: Đẩy mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức, và cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng được tiến hành quyết liệt
và đồng bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Thành tựu toàn diện: Các thành tựu kinh tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, điều hành quyết
liệt của Chính phủ, và sự phối hợp của toàn hệ thống chính trị.
Xử lý các mối quan hệ lớn trong đổi mới: Đại hội XIII chỉ ra các mối quan hệ quan
trọng như giữa ổn định và đổi mới, giữa kinh tế và chính trị, giữa nhà nước và thị trường,
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa độc lập và hội nhập quốc tế, và mới
nhất là mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế.
Vị thế quốc tế của Việt Nam: Đất nước có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
chưa bao giờ lớn mạnh như hiện nay, kết quả của 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3.3. Hạn chế, nguyên nhân, và 1 số bài học kinh nghiệm công cuộc đổi mới Hạn chế:
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vẫn còn
tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Trước hết, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn một số vấn đề cần được làm rõ hơn qua tổng kết thực tiễn.
Về mặt kinh tế, phát triển chưa bền vững và chưa tương xứng với tiềm năng, cũng như các
nguồn lực huy động vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng. Đổi mới trong giáo dục, đào tạo, khoa
học và công nghệ cũng chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Bên
cạnh đó, lĩnh vực văn hóa và xã hội vẫn còn nhiều vấn đề chưa có đột phá, nhiều vấn đề xã
hội bức xúc nảy sinh chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết hiệu quả. Quốc phòng, an
ninh dù có tiến bộ, nhưng vẫn còn một số hạn chế. Cuối cùng, năng lực và hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị hiện nay chưa ngang tầm với nhiệm vụ, đòi hỏi sự cải tiến mạnh mẽ hơn nữa. Nguyên nhân - Nguyên nhân khách quan 19