



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
-------- --------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN : LỊCH SỬ ĐẢNG Đề tài :
PHÂN TÍCH CƠ SỞ VÌ SAO VIỆT NAM THỰC HIỆN ĐƯỜNG
LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Nhóm: 4
Lớp học phần : 242_HCMI0131_13
Giảng viên: Nguyễn Ngọc Diệp
Hà Nội, năm học 2024 - 2025 lOMoAR cPSD| 47206071 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC............
1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin.......................................................................................3
1.1.1. Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin..........................................................3
1.1.2. Quan điểm của Mác – Lênin về xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước
................................................................................................................................3
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh.....................................................................................5
1.2.1. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh...........................................................5
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước
................................................................................................................................6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC...................
2.1. Những yếu tố quốc tế tác động.........................................................................9
2.1.1. Cuộc cách mạng khoa học - kinh tế phát triển mạnh.................................9
2.1.2. Xu thế đối thoại thay cho xu thế đối đầu...................................................10
2.1.3. Công cuộc cải tổ tại các nước Xã hội chủ nghĩa......................................11
2.2. Tình hình trong nước......................................................................................11
2.2.1. Đất nước bị khủng hoảng kinh tế - xã hội................................................11
2.2.2. Bị đế quốc và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận................................12
2.2.3. Nhiều hiện tượng tiêu cực diễn ra phổ biến.............................................13
2.2.4. Đã có những bước đột phá trong lĩnh vực kinh tế....................................13
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VIỆT NAM VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC..........................................................................
3.1. Liên hệ Việt Nam về thực tiễn thực hiện đổi mới..........................................15
3.1.1 Tình hình quốc tế và trong nước tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện đổi
mới........................................................................................................................15 3.1.2
Sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi
mới........................................................................................................16
3.2. Những thành tựu đạt được.............................................................................28
3.3. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân...................................................32
3.4. Một số kinh nghiệm của công cuộc đổi mới...................................................36
3.5. Giải pháp đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian tới.........38
KẾT LUẬN.....................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. lOMoAR cPSD| 47206071 MỞ ĐẦU
Trong suốt hành trình phát triển của đất nước Việt Nam, đặc biệt là kể từ khi giành
được độc lập, chúng ta đã trải qua nhiều thăng trầm, những biến động chính trị, kinh tế và
xã hội sâu sắc. Trong số các bước ngoặt quan trọng của lịch sử Việt Nam, có lẽ ít có sự kiện
nào gây ra những thay đổi sâu rộng và tác động lâu dài đến đời sống quốc dân như việc
thực hiện đường lối đổi mới. Đây không chỉ là một quyết định chính trị, mà còn là một cuộc
cách mạng toàn diện trong tư duy, phương pháp và cơ chế hoạt động của đất nước, nhằm
đưa Việt Nam. Sau hơn một thập kỷ áp dụng mô hình kinh tế tập trung, với các chính sách
như tập thể hóa nông nghiệp, quốc hữu hóa công nghiệp và thương mại, Việt Nam rơi vào
tình trạng kinh tế khủng hoảng. Lạm phát gia tăng, tỷ giá hối đoái dao động mạnh, thiếu
hụt hàng hóa, đặc biệt là thiếu lương thực, dẫn đến đói kém và khó khăn cho đời sống nhân
dân. Chính những thất bại này đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam Nam tìm kiếm những giải pháp mới, nhằm thoát khỏi cảnh bao trùm suy thoái.
Ngoài ra, bối cảnh quốc tế cũng đóng vai trò then chốt trong quyết định đổi mới. Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, cùng với sự hội nhập toàn cầu
ngày càng tăng, đã đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai của mô hình kinh tế tập trung.
Trong khi đó, các nước láng giềng như Trung Quốc, đã bắt đầu thực hiện những cải cách
kinh tế mang tính đột phá, đạt được những kết quả đáng kể, trở thành nguồn cảm hứng và
gợi ý cho Việt Nam. Với những thách thức nội tại và áp lực quốc tế, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã quyết định thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện, đó chính là đường lối đổi
mới. Được khởi động chính thức tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đường lối đổi mới
không chỉ là một bước ngoặt trong lịch sử kinh tế Việt Nam, mà còn là một cuộc cách mạng
tư tưởng, thay đổi triệt để cách thức hoạt động của xã hội.
Nhận thấy việc phân tích cơ sở vì sao Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới đất nước
là một nhiệm vụ quan trọng. Nhóm 4 chúng em quyết định thực hiện đề tài “ Phân tích cơ
sở vì sao Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới đất nước”. Qua đó, giúp chúng ta sẽ hiểu
rõ hơn về ý nghĩa, động lực và những thách thức đặt ra trong quá trình triển khai đường lối
này, góp phần làm sáng tỏ một trong những bước ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại của đất nước.
Nội dung của bài thảo luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đường lối đổi mới đất nước.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn thúc đẩy đổi mới đất nước. lOMoAR cPSD| 47206071
Chương 3: Liên hệ Việt Nam và đánh giá thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới đất nước.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1.1. Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ
XIX, được V.I.Lênin bổ sung, phát triển đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống
lý luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản là triết học MácLênin, kinh
tế chính trị học Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa MácLênin là hệ thống
lý luận khoa học thống nhất về mục tiêu, con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự
nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là nền tảng lý luận của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và lãnh
đạo các nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin bao gồm ba bộ phận chính:
- Triết học Mác – Lênin: Dựa trên phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vậtlịch
sử, giúp giải thích sự vận động của xã hội và quy luật phát triển của lịch sử loài người.
- Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Phân tích bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, từđó
đề ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nghiên cứu về quá trình cách mạng vô sản, vai trò
củagiai cấp công nhân và sự tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp
cách mạng, nhấn mạnh tính tất yếu của sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội – giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
1.1.2. Quan điểm của Mác – Lênin về xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước
C.Mác xác định xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội
(Cộng sản nguyên thủy; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa; Chủ nghĩa xã hội
.và Chủ nghĩa cộng sản) và “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”. Quá đô lên cḥ ủ nghĩa xã hôi
ḷ à môt qụ á trình lịch sử rất dài với những nhiêm ṿ ụ, mục tiêu khác nhau tại những quốc
gia khác nhau. Thời kỳ này ở các nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau có
thể diễn ra với những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau. Thời kỳ quá độ khi tiến lên xã
hội chủ nghĩa sẽ tương đối ngắn sẽ đối với những quốc gia đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát
triển ở trình độ cao. Những nước trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ lOMoAR cPSD| 47206071
trung bình, những nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu thời gian sẽ tương đối dài. Đây
sẽ là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiệncó
của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra
sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tố đời sống nhân dân lao
động. Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo ý
muốn nóng vội, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh
tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu
phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải
là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với
những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể và hình
thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác
định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh lại các thù địch chống phá
sựnghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của nhân dân lao động, xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là
nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
- Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: Tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoahọc
và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm
lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn
hóa mới của xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa các nền văn hóa trên thế giới.
- Trong lĩnh vực xã hội: Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từngbước
khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người theo mục tiêu lý tưởng; tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác. lOMoAR cPSD| 47206071
Theo V.I.Lênin,“Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới. Bên cạnh đó, Lênin đã có nhiều
bước đột phá về lý luận, chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, đề xuất và yêu cầu phải đổi
mới căn bản tư duy về chủ nghĩa xã hội. Lênin đã mở ra hướng đi mới, con đường mới,
cách làm mới rất hiên tḥ ực cho thời kỳ quá đô lên cḥ ủ nghĩa xã hôi đ ̣ ối với các nước châm pḥ át triển.
Chính sách Kinh tế Mới (NEP) của Lenin:
- Chính sách kinh tế mới” (NEP) được thực hiện ở nước Nga Xô-viết những năm 20,
thế kỷ trước, do V.I. Lê-nin khởi xướng và được Đại hội X Đảng Cộng sản Nga thông qua
vào tháng 3-1921. NEP ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu khôi phục, xây dựng nước Nga Xôviết
trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cực kỳ khó khăn, phức tạp sau nội chiến ở Nga
và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
- Nội dung chính của NEP là áp dụng Chính sách thuế lương thực thay cho “Chínhsách
cộng sản thời chiến”, khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp thông
qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp, khôi phục và tổ chức lại nền sản
xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân, đổi mới tổ chức quá
trình lưu thông hàng hóa và ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô-viết... Mặt quan trọng
của NEP là những phương pháp mới trong kinh doanh, trong tổ chức sản xuất và lao động.
V.I. Lê-nin chỉ ra rằng, tiến trình phát triển khách quan của cách mạng đã chứng minh tầm
quan trọng sống còn của việc kết hợp những nhân tố kích thích về cả tinh thần và vật chất,
vì vậy, việc áp dụng một chính sách kinh tế mới phù hợp điều kiện khách quan mới là việc làm cấp thiết.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) và ngày càng được xác
định hoàn thiện và sâu sắc hơn rõ hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
(2011) viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng lOMoAR cPSD| 47206071
của nhân dân ta giành thắng lợi” . Đây là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Định nghĩa trên đã làm rõ ba vấn đề lớn:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc
vềnhững vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩaMác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng vàdân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước
Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển
qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là từ Đại hội VI năm 1986, khi Đảng quyết định tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước
mạnh”. Nước Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ,lẻ, manh mún. Vì vậy chủ tịch Hồ Chí
Minh Khẳng Định: “Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương
pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn
đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt
mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em
và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng
về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác -
Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những
đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ
thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”.
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và còn dài”, “phải làm dần dần”,
“không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Để đạt được mục
tiêu đó, không thể nôn nóng, chủ quan duy ý chí, phải tuân theo quy luât ṿ ới nhiều giai
đoạn, thời kỳ cao thấp khác nhau, với những giải pháp khác nhau. Người nhắc nhở phải học
tâp c ̣ ó chọn lọc kinh nghiêm c ̣ ủa các nước anh em nhưng trước hết phải ra sức tìm tòi con
đường và bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Người cho rằng, con đường lOMoAR cPSD| 47206071
đi lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở Viêt Nam không tḥ ể làm vôi ṿ àng mà phải làm từng bước
thân tṛ ọng, vững chắc. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là: “…phải xây dựng nền tảng vật chất
và kỹ thuật của CHỦ NGHĨA XÃ HỘI…Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài”. “Từ nước nông nghiệp đi lên, nên ta cho nông nghiệp là quan trọng &
ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp & công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”.
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình Đảng
lãnh đạo cách mạng và vạch định đường lối đổi mới đất nước.
Mục tiêu chính trị:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề đầu tiên trong xây dựng chế độ xã hội mới là phải
xây dựng chế độ chính trị do nhân dân lao đông làm chủ. Người đã khẳng định: “Nhà ̣ nước
của ta thành lập sau Cách mạng Tháng Tám đã là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp
công nhân lãnh đạo. Nay “Lời nói đầu” của dự thảo Hiến pháp sửa đổi lại ghi rõ: “Nhà nước
của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”(1). Điều đó có nghĩa, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mục đích
hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm phục vụ nhân dân. Trong nhà nước đó, mọi công dân
đều có quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền kiểm soát
đối với đại biểu của mình, “có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Mọi công việc
quan trọng của nhà nước đều phải do nhân dân quyết định, đảm bảo phương châm dân biết,
dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Mục tiêu kinh tế:
Thứ nhất: đó là “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(4). Nền kinh tế đó được xây dựng “trên cơ sở kinh tế xã
hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xoá bỏ dần,
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ngày càng được cải thiện”(5). Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hôi chỉ có tḥ ể thắng chủ nghĩa tư bản khi nó tạo
ra được môt ṇ ền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học, công nghê ̣
hiên đại và ngày càng cải thiệ n đời ṣ ống vât cḥ ất và tinh thần của nhân dân. Để đạt được
mục tiêu đó là cả một quá trình phấn đấu, lao động, nỗ lực cố gắng không ngừng của giai
cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta.
Thứ hai: nền kinh tế trong xã hội mới phải tập trung xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và dần thực hiện giải phóng sức sản xuất xã
hội. Bởi tư hữu là mầm mống của sự bóc lột, của bất bình đẳng và của những mâu thuẫn lOMoAR cPSD| 47206071
trong xã hội. Mà trong khi đó, xã hội chủ nghĩa là một xã hội nhân đạo và dân chủ nhất thì
nhất thiết phải xóa bỏ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chỉ có như
vậy thì mới thực sự đem lại công bằng, dân chủ, mới giải phóng được con người, giải phóng
được sức lao động của toàn thể xã hội. Chỉ có như vậy thì cách mạng xã hội chủ nghĩa mới
thực sự trở thành cuộc cách mạng triệt để nhất, là cuộc cách mạng tới nơi.
Thứ ba: việc xây dựng nền kinh tế mới từ một nước lạc hậu, chưa kinh qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quy luật tất yếu và phổ biến để tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Bởi chúng ta chưa có những tiền đề về vật chất cho sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Mặt khác, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là một
nền công nghiệp, nông nghiệp hiện đại với trình độ khoa học kỹ thuật cao. Do vậy, chỉ có
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể giải quyết được mâu thuẫn này, mới
có thể đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có nền công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Mục tiêu văn hóa:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa - tư tưởng không chỉ phụ thuộc vào máy
móc, vào điều kiện sinh hoạt vật chất, vào mức sống…, mà nó phải đi trước một bước để
mở đường cho cách mạng công nghiệp, là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của dân
tộc. Người cho rằng: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm
phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu
muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ…”
Mục tiêu xây dựng con người:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”(9). Nếu không có những con người xã hội chủ nghĩa
thì không có chủ nghĩa xã hội được. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa phải là
những người tha thiết với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có tinh thần và năng lực làm chủ; có
đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức khoa học, kỹ thuật, nhạy bén
với cái mới; có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm,… Phấn đấu vì lý tưởng của dân tộc,
ý chí quyết tâm đi lên chủ nghĩa xã hội, tinh thần vượt khó. Đó chính là nguồn lực quan
trọng nhất để xây dựng thành công xã hội mới ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 2.1. Những
yếu tố quốc tế tác động
Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế. Tình
hình này không chỉ do yếu tố nội tại mà còn bị tác động mạnh mẽ từ bối cảnh quốc tế. Sự lOMoAR cPSD| 47206071
sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, kết thúc Chiến tranh Lạnh và sự thay
đổi trong kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam. Các yếu tố này
đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện cải cách mạnh mẽ để hội nhập và phát triển, từ đó thúc đẩy
việc thực hiện đường lối đổi mới.
2.1.1. Cuộc cách mạng khoa học - kinh tế phát triển mạnh
Thứ nhất, tác động của cách mạng khoa học và công nghệ:
Cuộc Cách mạng công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng của nhiều loại
công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thể kể đến là trí tuệ nhân tạo
và công nghệ máy học, công nghệ 5G và 6G, công nghệ sinh học, công nghệ xanh và năng
lượng tái tạo, công nghệ chuỗi khối, công nghệ thực tế ảo, internet vạn vật, in 3D... Các
công nghệ này thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, sự phát triển của kinh tế tri thức
và toàn cầu hóa kinh tế. Đối với Việt Nam, khi bước vào giai đoạn cải cách, đất nước đang
phải đối mặt với nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào các ngành sản xuất truyền
thống và nông nghiệp. Nếu không đổi mới, Việt Nam sẽ không thể theo kịp xu thế phát triển
của thế giới và sẽ tụt lại phía sau trong cuộc đua hội nhập.
Vào những năm 1980-1990, các quốc gia phát triển như Mỹ và Nhật Bản đã bắt đầu
ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế. Việc sử dụng máy tính, internet,
và các hệ thống quản lý dữ liệu trở thành yếu tố quan trọng giúp các nền kinh tế này phát
triển vượt bậc. Việt Nam, khi đó, còn rất hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất và quản lý. Tuy nhiên, khi Việt Nam thực hiện cải cách vào năm 1986, việc ứng
dụng công nghệ thông tin đã trở thành một phần trong chiến lược phát triển kinh tế. Các tập
đoàn công nghệ, đặc biệt là các công ty viễn thông như Viettel, VinaPhone đã có sự phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế số của thế giới.
Thứ hai, sự phát triển của kinh tế tri thức và sự tác động đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất:
Kinh tế tri thức là phương thức phát triển kinh tế mà từ việc sản xuất, phân phối và sử
dụng (tiêu dùng) dựa trên tri thức và thông tin. Đặc trưng của kinh tế tri thức bao gồm sử
dụng tài nguyên hiệu quả, coi trọng sở hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp tri thức, và thúc
đẩy toàn cầu hóa. Điều này giúp các doanh nghiệp hoạt động linh hoạt và tạo ra chuỗi giá
trị toàn cầu. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã làm cho kinh tế tri thức
tiến bộ nhanh chóng. Với mô hình này, Việt Nam có thể rút ngắn quá trình phát triển, đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được sự phát triển bền vững.
Trước khi Đổi mới vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến đơn giản. Tuy nhiên, sự phát triển của kinh lOMoAR cPSD| 47206071
tế tri thức đã thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động và
tạo ra những ngành nghề mới. Sự chuyển dịch mạnh mẽ từ nền kinh tế nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ có thể thấy rõ trong ngành công nghiệp công nghệ cao. Các tập
đoàn như Samsung, Intel, và LG đã đầu tư vào Việt Nam, xây dựng các nhà máy sản xuất
điện tử, linh kiện, và vi mạch. Những công ty này không chỉ giúp tăng trưởng xuất khẩu mà
còn đóng góp vào việc đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng cao trong lĩnh vực công nghệ,
từ đó phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại.
2.1.2. Xu thế đối thoại thay cho xu thế đối đầu
Cuối thế kỷ 20, đặc biệt là sau sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, xu thế đối đầu trong
quan hệ quốc tế dần nhường chỗ cho xu thế đối thoại và hợp tác. Sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện chính trị thế giới.
Các quốc gia phương Tây, đặc biệt là Mỹ, chuyển sang chính sách đối thoại, hợp tác và hội
nhập thay vì tiếp tục chiến tranh lạnh hoặc xung đột với các quốc gia theo chế độ xã hội
chủ nghĩa. Xu thế này tạo ra một môi trường quốc tế ổn định, khuyến khích các quốc gia
phát triển, đặc biệt là các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, mở rộng quan hệ ngoại giao và
kinh tế với các nước phát triển.
Việt Nam sau khi kết thúc cuộc chiến tranh và giành độc lập, đã theo đuổi chính sách
đối ngoại hòa bình và xây dựng, tuy nhiên, việc đất nước bị cấm vận trong suốt những năm
1970 và 1980 khiến nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, khi xu thế đối
thoại và hợp tác trở thành xu hướng chủ đạo của thế giới, Việt Nam đã tận dụng cơ hội này
để mở rộng quan hệ quốc tế. Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, mở rộng quan hệ
với các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, qua đó tạo ra một môi trường chính trị và kinh tế
thuận lợi cho việc đổi mới đất nước. Mô hình phát triển của các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới đã cho thấy rằng việc mở cửa, hợp tác và gia nhập các tổ chức quốc tế là yếu
tố quan trọng để phát triển bền vững.
2.1.3. Công cuộc cải tổ tại các nước Xã hội chủ nghĩa
Một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua là sự cải tổ đang diễn ra tại các nước Xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong giai đoạn cuối thập niên 1980,
Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev đã thực hiện các chính sách cải cách
(Perestroika) và mở cửa (Glasnost) nhằm khôi phục nền kinh tế trì trệ. Tuy nhiên, những
cải cách này không thể ngăn chặn sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, dẫn đến sự tan rã
của hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. lOMoAR cPSD| 47206071
Mặc dù Việt Nam có một chính sách riêng biệt và tiếp tục duy trì chế độ xã hội chủ
nghĩa, nhưng những sự kiện ở các nước Xã hội chủ nghĩa đã khiến Việt Nam phải suy nghĩ
lại về mô hình phát triển của mình.. Để tránh những sai lầm tương tự, Việt Nam nhận thấy
cần phải cải cách mạnh mẽ nền kinh tế, mở cửa thị trường, và tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế tư nhân phát triển. Đường lối đổi mới đất nước từ năm 1986 không chỉ phản
ánh mong muốn thay đổi trong nước mà còn là sự điều chỉnh phù hợp với những thay đổi
lớn trong môi trường quốc tế, đặc biệt là từ các quốc gia xã hội chủ nghĩa đang đối mặt với khủng hoảng.
Những yếu tố quốc tế như cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, xu thế đối thoại thay
vì đối đầu, và công cuộc cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo ra một bước ngoặt quan
trọng trong nhận thức và chiến lược phát triển của Việt Nam. Trước sự thay đổi mạnh mẽ
này, Việt Nam không thể đứng ngoài dòng chảy của thế giới. Việc hội nhập và đổi mới trở
thành yêu cầu cấp thiết để bắt kịp với những xu thế mới, vừa tận dụng cơ hội, vừa vượt qua
thách thức. Do đó, các yếu tố quốc tế đã thúc đẩy Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới,
mở ra hướng đi mới cho sự phát triển của đất nước.
2.2. Tình hình trong nước
2.2.1. Đất nước bị khủng hoảng kinh tế - xã hội
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với
những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chỉ tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với
các quyết định của mình.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều
hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng
không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh
ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.
Dễ dàng thấy được, cơ chế kế hoạch hóa tập trung không chỉ thủ tiêu cạnh tranh và
kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, mà còn triệt tiêu động lực kinh tế và sáng tạo của lOMoAR cPSD| 47206071
người lao động. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang phát triển dựa trên cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, cơ chế này càng bộc lộ những khiếm khuyết rõ rệt, khiến
nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng và không thể theo kịp sự phát triển toàn cầu. Chính vì vậy, sự khủng hoảng
kinh tế - xã hội và hạn chế của cơ chế cũ đã tác động mạnh mẽ, thúc đẩy Việt Nam phải
thực hiện các cải cách để tìm ra con đường phát triển mới, mở cửa hội nhập và áp dụng các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào thực tiễn.
2.2.2. Bị đế quốc và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận
Sau năm 1975, mặc dù đã giành được độc lập và thống nhất đất nước, ta vẫn phải đối
mặt với muôn vàn khó khăn, trong đó có sự bao vây, cấm vận từ các thế lực thù địch. Ngay
sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ đã áp đặt lệnh cấm vận toàn diện đối với Việt Nam, khiến
nước ta gặp vô vàn trở ngại trong việc tiếp cận thị trường thế giới. Các biện pháp cấm vận
của Mỹ bao gồm việc ngăn chặn mọi giao thương, viện trợ và hợp tác kinh tế giữa Việt
Nam với phương Tây cũng như các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB). Điều này làm gián đoạn dòng vốn và công nghệ từ
bên ngoài, khiến nước ta lâm vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ, sản xuất đình trệ và không
có điều kiện để phát triển công nghiệp.
Bên cạnh lệnh cấm vận từ Mỹ, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng xấu đi
nghiêm trọng sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Trung Quốc không chỉ cắt đứt viện
trợ mà còn hậu thuẫn cho các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, đặc biệt là ở Campuchia.
Việc bị cô lập về mặt chính trị và quân sự khiến nước ta rơi vào thế khó khăn khi vừa phải
tập trung khôi phục và phát triển đất nước, vừa phải đối mặt với nguy cơ xung đột khu vực.
Bên cạnh đó, trong những năm 1980, kinh tế trong nước rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm
trọng. Đặt trong bối cảnh trên, sự bao vây, cấm vận của đế quốc và các thế lực thù địch
càng làm trầm trọng thêm những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, đặt ra yêu cầu cấp
bách về việc tìm kiếm một con đường mới để phát triển.
2.2.3. Nhiều hiện tượng tiêu cực diễn ra phổ biến
Trước Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo mô hình kế hoạch hóa tập trung,
nhưng theo thời gian, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế nghiêm trọng. Cơ chế quản lý phức
tạp, cứng nhắc khiến quá trình ra quyết định chậm chạp và kém hiệu quả, làm suy giảm
động lực phát triển kinh tế. Sự kiểm soát quá mức của Nhà nước đối với sản xuất và phân
phối khiến doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận nguồn lực, trong khi các chính sách
điều hành không theo kịp thực tiễn, dẫn đến tình trạng trì trệ kéo dài. Nhiều doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kém hiệu quả do không chịu áp lực cạnh tranh, dẫn đến lãng phí tài lOMoAR cPSD| 47206071
nguyên và thất thoát ngân sách. Hệ thống quản lý tài sản công thiếu minh bạch cũng tạo cơ
hội cho các hành vi trục lợi, khiến nguồn lực không được phân bổ hợp lý và làm gia tăng
sự bất bình đẳng trong xã hội.
Ngoài ra, chất lượng dịch vụ công như y tế và giáo dục cũng chịu nhiều ảnh hưởng do
thiếu nguồn lực, khiến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Cơ hội việc làm hạn chế,
trong khi nền kinh tế trì trệ không tạo ra đủ động lực để thúc đẩy sản xuất và nâng cao thu
nhập. Những bất cập này đã tác động sâu sắc đến xã hội, làm giảm niềm tin của người dân
vào hệ thống quản lý, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách về cải cách để tháo gỡ những rào
cản đang kìm hãm sự phát triển chung của đất nước.
2.2.4. Đã có những bước đột phá trong lĩnh vực kinh tế
Trước khi công cuộc Đổi mới được tiến hành vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam
lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng do mô hình kế hoạch hóa tập trung kém hiệu quả. Sản
xuất trì trệ, hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân khó khăn, lạm phát tăng cao khiến nền
kinh tế rơi vào tình trạng bế tắc. Trong bối cảnh đó, nhiều địa phương và cơ sở sản xuất đã
tự tìm cách đổi mới phương thức hoạt động, tạo ra những bước đột phá quan trọng, trở
thành tiền đề thúc đẩy sự thay đổi trên quy mô toàn quốc.
Bước đột phá đầu tiên và quan trọng nhất diễn ra trong lĩnh vực nông nghiệp. Những
năm 1970, khi tình trạng thiếu lương thực diễn ra trầm trọng một số hợp tác xã ở Vĩnh Phúc
và một số địa phương khác đã tự ý thực hiện mô hình “khoán hộ” – trực tiếp giao đất cho
người lao động để từng hộ chủ động canh tác. Kết quả là năng suất lao động tăng mạnh,
sản lượng lúa gạo dồi dào, đời sống nông dân được cải thiện. Từ thực tế này, năm
1981, Nhà nước đã ban hành Chỉ thị 100, chính thức công nhận cơ chế khoán sản phẩm,
tạo đà cho sự ra đời của Khoán 10 vào năm 1988 – một chính sách mang tính cách mạng,
giúp nông nghiệp Việt Nam bứt phá.
Ngoài nông nghiệp, khu vực công nghiệp và thương mại cũng có những thay đổi mang
tính đột phá. Trước Đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, sản xuất
cứng nhắc theo kế hoạch, thiếu chủ động trong kinh doanh. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp
đã tự tìm cách linh hoạt hơn trong sản xuất, tìm kiếm đầu ra thay vì chỉ chờ chỉ tiêu từ Nhà
nước. Đặc biệt, ở TP. Hồ Chí Minh, chính quyền thành phố đã mạnh dạn thử nghiệm các
cơ chế linh hoạt hơn như mở rộng hợp tác kinh tế với khu vực bên ngoài, cho phép doanh
nghiệp tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Dù chưa được pháp luật công nhận
chính thức vào thời điểm đó, nhưng những bước đi này đã cho thấy sự thay đổi tất yếu trong
cách quản lý nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 47206071
Song song với những thay đổi trong sản xuất và thương mại, tư duy về quản lý kinh
tế cũng dần có sự thay đổi. Trước đó, cơ chế bao cấp tạo ra tình trạng ỷ lại, thiếu động lực
phát triển, khiến nguồn lực bị lãng phí. Nhưng thực tế chứng minh rằng, khi có quyền tự
chủ, cả nông dân lẫn doanh nghiệp đều có thể phát huy tối đa năng lực của mình, giúp nền
kinh tế vận hành hiệu quả hơn. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về một sự thay đổi toàn
diện về cơ chế quản lý, từ đó thôi thúc Đảng và Nhà nước đưa ra quyết định đổi mới vào năm 1986.
Như vậy, những bước đột phá trong thực tiễn trước Đổi mới đã đóng vai trò quyết
định trong việc thúc đẩy công cuộc cải cách kinh tế của đất nước. Đó không chỉ là một sự
chuyển đổi mang tính tất yếu mà còn là kết quả của những thử nghiệm đã thành công trong
thực tế, chứng minh rằng nền kinh tế cần một cơ chế vận hành linh hoạt hơn để có thể phát triển bền vững.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VIỆT NAM VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 3.1. Liên hệ Việt Nam về thực tiễn thực hiện đổi mới
3.1.1 Tình hình quốc tế và trong nước tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện đổi mới
Công cuộc Đổi mới của Việt Nam không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ bối cảnh quốc tế cũng như nhu cầu cấp thiết từ tình hình trong nước.
Những biến động lớn trên thế giới vào thập niên 1980 đã tạo ra áp lực buộc Việt Nam phải
điều chỉnh chính sách kinh tế. Đồng thời, nền kinh tế trong nước lúc bấy giờ cũng rơi vào
khủng hoảng nghiêm trọng, đòi hỏi một sự chuyển đổi toàn diện để có thể tồn tại và phát triển.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế toàn cầu trải qua nhiều biến chuyển quan trọng, đặc
biệt là sự suy yếu của các nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô và các quốc gia Đông Âu, vốn là
những đối tác then chốt của Việt Nam, dần rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến sự
suy giảm viện trợ. Việc mất đi nguồn hỗ trợ này ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam,
vốn đang phụ thuộc đáng kể vào sự giúp đỡ từ các nước đồng minh. Trong khi đó, nhiều
quốc gia khác đã bắt đầu dịch chuyển sang mô hình kinh tế linh hoạt hơn. Trung Quốc, với
chính sách "Cải cách và mở cửa" từ năm 1978, đã đạt được những thành tựu đáng kể, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy sản xuất. Sự chuyển đổi này không chỉ giúp Trung
Quốc thoát khỏi khủng hoảng mà còn tạo ra một mô hình tham khảo quan trọng cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên rõ
nét. Các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã tận dụng dòng vốn đầu lOMoAR cPSD| 47206071
tư nước ngoài, mở rộng hợp tác thương mại và phát triển vượt bậc. Trong khi đó, Việt Nam
vẫn duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thiếu linh hoạt và kém cạnh tranh. Nếu
không thay đổi, Việt Nam sẽ ngày càng thụt lùi so với khu vực.
Không chỉ chịu tác động từ bối cảnh quốc tế, bản thân nền kinh tế Việt Nam lúc bấy
giờ cũng đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sau chiến tranh, đất nước gặp
vô vàn khó khăn, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân vô cùng gian khổ. Hệ thống phân
phối bao cấp hoạt động kém hiệu quả, hàng hóa khan hiếm, lạm phát có thời điểm lên tới
hơn 700%, khiến đồng tiền mất giá trầm trọng. Trong nông nghiệp, mô hình hợp tác xã
không tạo động lực cho nông dân, khiến năng suất thấp, tình trạng thiếu lương thực trở nên
nghiêm trọng. Chính trong bối cảnh đó, một số địa phương đã chủ động thử nghiệm mô
hình "khoán hộ", trao quyền sản xuất cho người dân. Những thử nghiệm này mang lại kết
quả tích cực, cho thấy nền kinh tế cần có sự thay đổi lớn để phát triển bền vững hơn.
Ngoài ra, áp lực từ hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu cải cách. Nếu tiếp tục giữ cơ
chế cũ, Việt Nam sẽ không thể thu hút đầu tư, mở rộng thương mại và hội nhập với thế giới.
Những hạn chế của mô hình kế hoạch hóa tập trung ngày càng bộc lộ rõ ràng, khiến Đảng
và Nhà nước phải cân nhắc một hướng đi mới. Đến năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI đã
chính thức đề ra đường lối Đổi mới, chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ.
Công cuộc Đổi mới của Việt Nam không chỉ là hệ quả tất yếu từ những biến động
quốc tế mà còn xuất phát từ nhu cầu cấp bách trong nước. Những chuyển dịch mạnh mẽ
của các quốc gia xã hội chủ nghĩa cùng làn sóng hội nhập toàn cầu đã mang đến những bài
học quý giá, thúc đẩy Việt Nam tìm kiếm một hướng đi phù hợp. Đồng thời, tình trạng
khủng hoảng kinh tế kéo dài khiến việc cải cách trở thành yêu cầu sống còn để đưa đất nước
thoát khỏi trì trệ. Nhờ quyết định đổi mới kịp thời và đúng đắn, Việt Nam không chỉ vượt
qua giai đoạn khó khăn mà còn từng bước khẳng định vị thế, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
3.1.2 Sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới
Đại hội I: Khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng
Nhiệm vụ chính: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương,
từ trong nước đến nước ngoài.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng; các nghị quyết về vận động công
nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về lOMoAR cPSD| 47206071
đội tự vệ, về các dân tộc ít người...; Điều lệ của Đảng; Điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.
Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng
lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung
ương đến cơ sở. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ
đấu tranh mới với một đội ngũ cán bộ đã được tôi luyện. Đại hội II: Đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn
Ủy viên Nhiệm vụ chính: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội đã tổng kết 21 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, 5
năm lãnh đạo chính quyền non trẻ và công cuộc kháng chiến kiến quốc. Do sự phát triển và
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước
Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội thông qua Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một Đảng vô sản kiểu mới,
lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt căn bản của Đảng; phê bình, tự phê
bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu hoạt động của Đảng.
Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng
ta, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội III: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.
Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Cách mạng miền Nam có
nhiệm vụ giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước. 2 nhiệm vụ có mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc,
đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. lOMoAR cPSD| 47206071
Đại hội quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội IV: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.
Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng trong giai đoạn
mới, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam
và thông qua Điều lệ mới gồm 11 chương và 59 điều, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức
Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.
Ðại hội V: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Đại hội nhận định, đất nước đứng trước những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội mà
một phần nguyên nhân là do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về
lãnh đạo và quản lý. Do đó, Đảng phải lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hoá, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ
nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ
nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh
đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
Đại hội nhận định, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V là những năm đầy
thử thách đối với Đảng và nhân dân ta.
Tuy đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang gặp
khó khăn gay gắt; mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,… Nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội nhấn mạnh, trong những năm qua việc nhìn nhận,
đánh giá tình hình cụ thể về các mặt của đất nước có nhiều thiếu sót, dẫn đến nhiều sai lầm lOMoAR cPSD| 47206071
trong việc xác định mục tiêu và bước đi. Đó là những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhất là bệnh chủ quan
duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành
công cuộc đổi mới) . Khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, Đảng ta xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo”.
Đại hội VI cũng đã nêu lên quan điểm cần xúc tiến và hoàn thành việc xác định “chiến
lược phát triển khoa học và kỹ thuật, làm luận cứ khoa học cho chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội... phải lựa chọn và tổ chức áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ thuật
thích hợp”. Trong giai đoạn này, các quan điểm phát triển khoa học và kỹ thuật được đề
cập trong văn kiện mới chỉ xác định mô hình khoa học - công nghệ, chưa có những chỉ đạo
quyết liệt về việc áp dụng các mô hình này vào thực tiễn.
Từ đó, Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3
nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp dựa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng
quan điểm của Lênin về Kinh tế mới (NEP) coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng
quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ
quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội xác định, để chuyển biến tình hình, Đảng ta trước
hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức;
đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất lượng
đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong
Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng. Đi
đôi với việc xác định đúng chức năng, nhiệm vụ quản lý của các cấp, các ngành, phải đổi
mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất và năng
lực đáp ứng được yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý.
Đại hội VII: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 47206071
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi
mới. Đại hội khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững
chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991) nhấn mạnh: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò
then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một
động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
Từ việc nhấn mạnh vai trò của khoa học và giáo dục, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định quan điểm của Đảng là
“Khoa học và công nghệ,… phải được xem là quốc sách hàng đầu”, đồng thời khẳng định
nhiệm vụ trung tâm để từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
là “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại”. Cụ thể
hóa chỉ đạo này, Hội nghị Trung ương 7 khóa VII nhấn mạnh, phát triển khoa học và công
nghệ - nền tảng của phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa - là
sự nghiệp của toàn xã hội, của mọi thành phần kinh tế, do đó cần “gắn khoa học - công
nghệ với sản xuất, dịch vụ; gắn các chương trình phát triển khoa học - công nghệ với các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích sự sáng tạo của các nhà khoa học,
đồng thời coi trọng phát huy sáng kiến của mọi người lao động”.
Lúc này, trước yêu cầu của sự chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ theo hướng công nghiệp,
hiện đại, yếu tố khoa học, công nghệ được coi là “nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.Quan điểm này của Đảng cho thấy tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng, tốc độ
phát triển của nền kinh tế.
Những quan điểm và nguyên tắc được Đại hội VII khẳng định:
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội VII xác định vai trò của Đảng gắn liền với
việc xây dựng và thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, Chiến lược và công cuộc đổi mới. Đồng
thời gắn vai trò của Đảng với hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt trong bối cảnh
quốc tế, trong nước và tình hình Đảng ta hiện nay việc xác định đúng và phát huy vai trò
của Đảng càng có ý nghĩa đặc biệt. Từ đó, Đại hội VII khẳng định tăng cường sở lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu vì trong điều kiện nước ta Đảng Cộng sản là
lực lượng duy nhất lãnh đạo.