BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------o0o---------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN KINH TẾ MÔ 2
Chủ đề: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
TIỀN TỆ TRONG VIỆC HỖ TRỢ NÊN KINH TẾ VIỆT NAM VƯỢT QUA
KHỦNG HOÀNG KINH TẾ DO ĐẠI DỊCH COVID-19
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng
Lớp: KTE402(2425-2)GD.2.3
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
STT
Sinh viên
Mã sinh viên
Đóng góp
1
Nghiêm Văn Hải
2311410055
100%
2
Tống Thị Huyền Mai
2311410113
100%
3
Nguyễn Thanh Nga
2314410120
100%
4
Nguyễn Thùy Dương
2311410038
100%
5
Phạm Thành T
2315410156
100%
6
Trần Quốc Hiệu
2311410064
100%
7
Phạm Đức Lợi
2314410110
100%
8
Mai Nhật Minh
2311410117
100%
9
Trần Hiếu Gia Khánh
2311410082
100%

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ---------o0o---------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2
Chủ đề: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
TIỀN TỆ TRONG VIỆC HỖ TRỢ NÊN KINH TẾ VIỆT NAM VƯỢT QUA
KHỦNG HOÀNG KINH TẾ DO ĐẠI DỊCH COVID-19
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng Lớp: KTE402(2425-2)GD.2.3
Nhóm thực hiện: Nhóm 6 STT Sinh viên Mã sinh viên Đóng góp 1 Nghiêm Văn Hải 2311410055 100% 2 Tống Thị Huyền Mai 2311410113 100% 3 Nguyễn Thanh Nga 2314410120 100% 4 Nguyễn Thùy Dương 2311410038 100% 5 Phạm Thành Trà 2315410156 100% 6 Trần Quốc Hiệu 2311410064 100% 7 Phạm Đức Lợi 2314410110 100% 8 Mai Nhật Minh 2311410117 100% 9 Trần Hiếu Gia Khánh 2311410082 100% lOMoAR cPSD| 58605085 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............. 3
1.1. Lý thuyết về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ: ................................... 3
1.1.1. Khái niệm và công cụ của chính sách tài khóa: ........................................ 3
1.1.2. Khái niệm và công cụ của chính sách tiền tệ: ........................................... 4
1.1.3. Sự tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tê:̣ .................... 5
1.2. Tác động của logistics xanh đến thương mại quốc tế: Xu hướng, Cơ hội và .. 7
Thách thức ............................................................................................................... 7
1.2.1. Giới thiệu mô hình Mundell - Fleming ..................................................... 7
1.2.2. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều kiện tỷ giá hối đoái
thả nổi .................................................................................................................. 8
1.2.3. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều kiện tỷ giá hối đoái
cố định ................................................................................................................. 8
1.2.4. Ứng dụng mô hình Mundell - Fleming trong nền kinh tế Việt Nam ......... 9
1.3. Tổng quan nghiên cứu .................................................................................... 10
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH
SÁCH VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỂ ỨNG PHÓ VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19
TẠI VIỆT NAM ....................................................................................................... 14

2.1. Tình hình xuất khẩu tại Việt Nam .................................................................. 14
2.1.1. Tăng trưởng GDP trong giai đoạn đại dịch ............................................. 14
2.1.2. Tác động đến các ngành .......................................................................... 15
2.2. Những chính sách vĩ mô để ứng phó với đại dịch COVID-19 tại Việt Nam
16 ........................................................................................................................... 16
2.2.1. Những chính sách tài khóa đã được áp dụng .......................................... 16
2.2.2. Những chính sách tiền tệ đã được áp dụng ............................................. 19
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH ......................... 22
3.1. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu .................................................. 22
3.1.1. Phương pháp Moment Tổng quát (Generalized Method of Moments –
GMM) ................................................................................................................ 22
3.1.2. Thu thập số liệu ....................................................................................... 23
3.2. Đề xuất mô hình nghiên cứu .......................................................................... 24
3.3. Ước lượng mô hình và thảo luận kết quả ....................................................... 26
3.3.1. Mô tả thống kê các biến ................................................................................... 26
3.3.2. Kết quả hồi quy và kiểm định .......................................................................... 28 lOMoAR cPSD| 58605085
3.3.3. Ước lượng mô hình Mundell-Fleming....................................................31
KẾT LUẬN.............................................................................................................33
MỤC LỤC THAM KHẢO....................................................................................34
Downloaded by Giang Ly (lyg81387@gmail.com) lOMoAR cPSD| 58605085 LỜI MỞ ĐẦU
Đại dịch COVID-19 bùng phát từ đầu năm 2020 đã tạo ra một cú sốc y tế nghiêm
trọng và nhanh chóng lan rộng thành một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu với quy mô
và mức độ chưa từng có tiền lệ. Việt Nam, với đặc điểm là một nền kinh tế đang phát triển
và có độ mở lớn, đã chịu tác động trực tiếp và sâu rộng từ làn sóng khủng hoảng này. Sự
đứt gãy trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hoạt động sản xuất – kinh doanh đình trệ, tiêu dùng
giảm mạnh, cùng với các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài đã khiến nhiều ngành kinh tế
trọng điểm bị tê liệt. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, trong khi
nguồn thu ngân sách nhà nước suy giảm mạnh do sụt giảm sản lượng và các chính sách
miễn, giảm thuế được triển khai quy mô lớn. Tăng trưởng GDP năm 2021 chỉ đạt 2,58% –
mức thấp nhất trong thập kỷ, phản ánh rõ nét sức ép mà nền kinh tế phải gánh chịu trong giai đoạn đại dịch.
Trước những khó khăn đó, các công cụ điều tiết vĩ mô – đặc biệt là chính sách tài
khóachính sách tiền tệ – đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam triển
khai đồng bộ nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, ổn định đời sống người dân và duy trì tính bền
vững của hệ thống tài chính – tiền tệ. Các gói hỗ trợ tài khóa được đưa ra với quy mô lớn,
bao gồm miễn – giảm thuế, hỗ trợ trực tiếp cho người lao động và doanh nghiệp, tăng chi
ngân sách cho y tế và an sinh xã hội. Trong khi đó, chính sách tiền tệ được nới lỏng linh
hoạt thông qua việc giảm lãi suất, giãn nợ, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các thành
phần kinh tế bị ảnh hưởng. Sự phối hợp giữa hai chính sách này đã đóng vai trò trung tâm
trong nỗ lực đưa nền kinh tế vượt qua giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng do đại dịch COVID-19 gây ra.
Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là: Các chính sách tài khóa và tiền tệ đã thực sự phát
huy hiệu quả đến mức nào trong việc hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng
hoảng? Để trả lời câu hỏi này một cách khách quan, tiểu luận không chỉ tập trung vào giai
đoạn khủng hoảng mà còn quay trở lại phân tích dữ liệu thực nghiệm trong giai đoạn 2008–
2020, nhằm đánh giá tính hiệu quả của hai chính sách vĩ mô này trong điều kiện kinh tế
bình thường. Qua đó, bài viết xây dựng cơ sở để so sánh và lý giải tại sao và trong điều
kiện nào, các chính sách này phát huy hiệu quả, hoặc còn tồn tại những hạn chế. lOMoAR cPSD| 58605085
Với cách tiếp cận kết hợp giữa lý thuyết kinh tế vĩ mô (đặc biệt là mô hình Mundell
– Fleming cho nền kinh tế mở) và phân tích thực nghiệm bằng dữ liệu kinh tế vĩ mô Việt
Nam, tiểu luận hướng đến mục tiêu phân tích sâu sắc vai trò, tác động và giới hạn của
chính sách tài khóa và tiền tệ, qua đó góp phần đưa ra những gợi ý chính sách phù hợp
nhằm nâng cao khả năng ứng phó của Việt Nam trước các cú sốc kinh tế trong tương lai. lOMoAR cPSD| 58605085
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ:
1.1.1. Khái niệm và công cụ của chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa (Fiscal Policy) là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô do chính
phủ thực hiện thông qua việc điều chỉnh thu chi ngân sách nhà nước nhằm đạt được các
mục tiêu kinh tế như tăng trưởng, ổn định giá cả, tạo việc làm và phân phối thu nhập hợp
lý. Theo Blanchard và Johnson (2013), chính sách tài khóa là "việc sử dụng thuế và chi tiêu
công như những công cụ để tác động đến tổng cầu và ổn định chu kỳ kinh tế". Trong khuôn
khổ mô hình Keynes, chính sách tài khóa đóng vai trò trung tâm trong việc kích thích tổng
cầu, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, khi khu vực tư nhân có xu hướng giảm chi tiêu.
Các công cụ của chính sách tài khóa bao gồm: Thuế (Taxes), Chi tiêu công
(Government Expenditure) và Chuyển nhượng (Transfer Expenditure). Thuế là nguồn thu
chủ yếu của chính phủ, bao gồm thuế trực thu (thuế thu nhập cá nhân, thuế doanh nghiệp)
và thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt). Thay đổi trong mức thuế sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập khả dụng của hộ gia đình và chi phí sản xuất của doanh
nghiệp, từ đó tác động đến tiêu dùng và đầu tư (Mankiw, 2016). Chi tiêu công là khoản chi
của chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ công cộng (giáo dục, y tế, quốc phòng) hoặc cho
đầu tư công (cơ sở hạ tầng). Việc gia tăng chi tiêu công có thể thúc đẩy tổng cầu thông qua
hiệu ứng số nhân chi tiêu. Chuyển nhượng bao gồm các khoản chi không đối ứng như trợ
cấp xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu giúp hỗ trợ thu nhập cho các nhóm yếu thế và
ổn định sức mua trong nền kinh tế.
Chính sách tài khóa thuộc quyền hạn thực hiện của Chính phủ, các cấp chính quyền
địa phương không được thực hiện chức năng này. Có hai loại chính sách tài khóa chính:
Chính sách tài khóa mở rộng hay còn được gọi là chính sách tài khóa thâm hụt. Trong thời
kỳ suy thoái, chính phủ có thể giảm thuế hoặc/và tăng chi tiêu chính phủ (đầu tư công) để
kích thích tổng cầu, tăng thêm việc làm cho người lao động, từ đó giúp thúc đẩy các hoạt
động kinh tế. Ngược lại: Chính sách tài khóa thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế ở tình lOMoAR cPSD| 58605085
trạng lạm phát và có hiện tượng tăng trưởng nóng thì nhà nước có thể tăng thuế và/hoặc
giảm chi tiêu làm cho giảm tổng cầu, nhằm giảm lạm phát, ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi
vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ.
Trong mô hình IS-LM, chính sách tài khóa được thể hiện qua đường IS – đại diện cho
trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa. Khi chính phủ tăng chi tiêu hoặc/và giảm thuế,
đường IS dịch chuyển sang phải, cho thấy mức thu nhập cao hơn tương ứng với mức lãi suất cố định.
Tóm lại, chính sách tài khóa là một thành phần quan trọng trong bộ công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô, có vai trò điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo sự phân phối thu nhập công bằng
và duy trì ổn định kinh tế trong dài hạn.
1.1.2. Khái niệm và công cụ của chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ (Monetary Policy) là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô do Ngân
hàng Trung ương thực hiện thông qua việc điều chỉnh lượng cung tiền và lãi suất nhằm đạt
được các mục tiêu như ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
tạo việc làm. Theo Mishkin (2019), chính sách tiền tệ là “quá trình mà Ngân hàng Trung
ương kiểm soát cung tiền và chi phí tín dụng để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô như
ổn định giá trị đồng tiền và tăng trưởng bền vững”. Trong khuôn khổ mô hình Keynes,
chính sách tiền tệ đóng vai trò thiết yếu trong việc tác động đến tổng cầu thông qua ảnh
hưởng đến chi phí vay và khả năng tiếp cận tín dụng.
Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ được Ngân hàng Trung ương sử dụng nhằm
kiểm soát lượng tiền lưu thông và điều tiết lãi suất trong nền kinh tế. Một trong những công
cụ quan trọng là điều hành lãi suất, bao gồm: lãi suất tái cấp vốn – lãi suất Ngân hàng Trung
ương áp dụng cho các khoản vay đối với ngân hàng thương mại; lãi suất huy động – lãi suất
các ngân hàng trả cho người gửi tiền; và lãi suất cho vay – lãi suất áp dụng đối với khách
hàng vay vốn. Việc điều chỉnh lãi suất này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí tín dụng của nền
kinh tế (Blanchard & Johnson, 2017) và tác động trực tiếp đến tiêu dùng, đầu tư. Thứ hai,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định lượng vốn mà các ngân hàng thương mại phải giữ lại, không
được sử dụng cho vay. Khi tỷ lệ này được điều chỉnh, nó sẽ làm thay đổi khả năng cung
ứng tín dụng và lượng tiền trong lưu thông. Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động lOMoAR cPSD| 58605085
mua bán trái phiếu chính phủ do Ngân hàng Trung ương thực hiện nhằm điều tiết lượng
tiền trong nền kinh tế và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Cuối cùng, chính sách
tỷ giá hối đoái cũng là công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, đặc biệt trong nền kinh tế
mở, khi việc mua hoặc bán ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương có thể làm thay đổi cung
tiền nội tệ và giá trị đồng tiền quốc gia. Việc phối hợp linh hoạt các công cụ trên là nền tảng
để đạt được mục tiêu ổn định giá cả, hỗ trợ tăng trưởng và kiểm soát lạm phát một cách hiệu quả.
Chính sách tiền tệ thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Trung ương và không chịu sự
can thiệp trực tiếp từ chính phủ. Có hai loại chính sách tiền tệ chính: Chính sách tiền tệ mở
rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt. Trong giai đoạn suy thoái, Ngân hàng Trung ương
thường áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng bằng cách giảm lãi suất và tăng cung tiền để
khuyến khích tiêu dùng, đầu tư, qua đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngược lại, trong thời kỳ lạm
phát cao hoặc tăng trưởng quá nóng, chính sách tiền tệ thắt chặt được sử dụng bằng cách
tăng lãi suất, giảm cung tiền nhằm kiểm soát giá cả và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong mô
hình IS-LM, chính sách tiền tệ được thể hiện qua đường LM – đại diện cho trạng thái cân
bằng trên thị trường tiền tệ. Khi Ngân hàng Trung ương tăng cung tiền, đường LM dịch
chuyển sang phải, dẫn đến mức lãi suất thấp hơn và sản lượng cao hơn tại trạng thái cân bằng mới.
Tóm lại, chính sách tiền tệ là công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô, có vai
trò ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế dài hạn.
1.1.3. Sự tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tê:̣
Tác động của chính sách tài khóa đến chính sách tiền tệ:
Tác động trực tiếp: Chính sách tài khóa tác đông lên cḥ ính sách tiền tê thông quạ
viêc ḷ àm thay đổi cung và cầu tiền tê. C̣ ụ thể, khi Chính phủ áp dụng chính sách tài khóa
mở rông ṿ à tăng chi tiêu công, thu nhâp c ̣ ủa người dân và doanh nghiêp ṣ ẽ tăng lên theo.
Điều này sẽ làm tăng cầu tiền tê. Đ̣ ể đáp ứng nhu cầu này, Ngân hàng Nhà nước có thể làm
tăng cung tiền bằng cách mua những tài sản như trái phiếu và cổ phiếu trên thị trường mở.
Nói cách khác, chính sách tài khóa mở rông c ̣ ũng sẽ thúc đẩy chính sách tiền tê pḥ ải mở lOMoAR cPSD| 58605085
rông theo. Ngự ợc lại, khi Chính phủ thắt chăt cḥ ính sách tiền tê ṿ à giảm chi tiêu công,
cầu tiền tê c ̣ ũng sẽ giảm. Để tránh tình trạng dư thừa tiền tê, Ngân ḥ àng Nhà nước có thể
giảm cung tiền thông qua viêc ḅ án tài sản trên thị trường mở.
Tác động gián tiếp: Tác đông gị án tiếp của chính sách tài khóa lên chính sách tiền
tê ḷ à tác đông thông qua việ c ḷ àm thay đổi lãi suất và giá cả. Khi Chính phủ tăng chi tiêu
công và làm tăng thu nhâp c ̣ ủa người dân, tổng cầu về hàng hóa trong nền kinh tế sẽ tăng
lên và dẫn đến lạm phát. Trong trường hợp này, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tăng lãi suất
để kiềm chế lạm phát, Điều này sẽ khiến chi phí đi vay đi lên, làm giảm nhu cầu tiêu dùng
và đầu tư. Ngược lại, viêc Cḥ ính phủ giảm chi tiêu công sẽ làm giảm cầu hàng hóa và dịch
vụ. Để khuyến khích tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước có thể phải giảm lãi suất.
Tác động của chính sách tiền tệ đến chính sách tài khóa:
Tác động trực tiếp: Chính sách tiền tê c ̣ ó thể tác đông trực tị ếp đến chính sách tài
khóa thông qua viêc thay đ ̣ ổi lãi suất. Cụ thể, khi Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất, chi
phí đi vay của Chính phủ cũng sẽ giảm. Điều này đồng nghĩa với viêc Cḥ ính phủ có thể
vay tiền với chi phí thấp hơn, từ đó có thể tăng chi tiêu công hoăc gị ảm thuế. lOMoAR cPSD| 58605085
Tác động gián tiếp: Tác đông gị án tiếp của chính sách tiền tê lên cḥ ính sách tài
khóa được thể hiên thông qua việ c thay đ ̣ ổi tổng cầu và tổng cung tiền tê. Việ c Ngân ḥ
àng Nhà nước tăng cung tiền cũng sẽ đồng thời làm tăng tổng cầu. Điều này có thể dẫn đến
môt ṣ ố rủi ro, tiêu biểu là lạm phát. Để kiểm soát lạm phát, Chính phủ có thể phải thực
hiên c ̣ ác chính sách tài khóa thắt chăt hơn, bao g ̣ ồm tăng thuế, giảm chi tiêu công, hoăc ̣
kết hợp cả hai biên pḥ áp này. Có thể thấy, chinh sách tài khóa và chính sách tiền tê c ̣ ó sự
phụ thuôc ḷ ẫn nhau, mỗi thay đổi trong môt cḥ ính sách đều sẽ ảnh hưởng đến hiêu qụ ả
của chính sách còn lại. Hơn nữa, trong thực tế, hai chính sách này lại do hai cơ quan khác
nhau điều hành. Thực tế này đăt ra ṿ ấn đề cần phải có sự phối hợp trong viêc đị ều hành
chính sách tài khóa và chính sách tiền tê giữa Cḥ ính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
1.2. Tác động của logistics xanh đến thương mại quốc tế: Xu hướng, Cơ hội và Thách thức
1.2.1. Giới thiệu mô hình Mundell - Fleming
Mô hình Mundell - Fleming mang tên hai nhà kinh tế học là Robert Mundell và James
Marcus Fleming, được phát triển một cách độc lập trong những năm 1960, đã nghiên cứu
mối quan hệ giữa sản lượng với tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong ngắn hạn.
Khác với mô hình IS - LM truyền thống áp dụng cho nền kinh tế đóng, mô hình
Mundell - Fleming xem xét trong nền kinh tế mở với đường LM không thay đổi với ngụ ý
lượng cung tiền vẫn do Ngân hàng Trung ương kiểm soát. Đồng thời phương trình đường
IS được bổ sung thêm hai thành tố là xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M), trong đó xuất khẩu
ròng (NX) được tính bằng hiệu của xuất khẩu và nhập khẩu.
Mô hình Mundell - Fleming được nghiên cứu với giả định trong một nền kinh tế nhỏ,
mở của và còn nhiều nguồn lực chưa được sử dụng hết. Khi đó, tổng cầu đóng vai trò quyết
định mức sản lượng cân bằng, trong khi mức giá được giả định là cố định trong ngắn hạn.
Tiêu dùng (C) chỉ phụ thuộc vào thu nhập. Lãi suất (r) không ảnh hưởng đến tiêu dùng mà
chỉ ảnh hưởng đến đầu tư (I). Trong bối cảnh hội nhập mở cửa thương mại, lãi suất thế giới
đóng vai trò trung tâm, và do một nền kinh tế nhỏ không thể ảnh hưởng đến mức lãi suất
thế giới vậy nên lãi suất trong nước phải bằng mức lãi suất thế giới (r = r*). Đồng thời, tỷ lOMoAR cPSD| 58605085
giá hối đoái (e) được định nghĩa là giá của một đồng nội tệ được tính bằng số đơn vị ngoại
tệ, do đó tỷ giá hối đoái sẽ có ảnh hưởng ngược chiều đến xuất khẩu ròng.
Như vậy, với các giả định và cấu trúc mở rộng từ mô hình IS - LM, mô hình Mundell
- Fleming cho phép đánh giá cụ thể các tác động ngắn hạn của chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ trong bối cảnh hội nhập thương mại quốc tế.
1.2.2. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều kiện tỷ giá hối đoái thả nổi
Trong chế độ TGHĐ thả nổi, TGHĐ sẽ được xác định bởi quan hệ cung và cầu về tiền
trên thị trường ngoại hối mà không có sự can thiệp nào của Ngân hàng Trung ương.
Giả sử khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, Chính phủ sẽ cố gắng tăng sản
lượng bằng cách tăng chi tiêu chính phủ (G) hoặc giảm thuế (T), khi đó lãi suất trong nước
sẽ tăng (r > r*) khiến dòng vốn chảy vào nội tệ, đồng nội tệ lên giá, dẫn tới xuất khẩu ròng
(NX) giảm, điều này lại khiến lãi suất giảm dần cho đến khi về mức lãi suất thế giới (r*),
làm triệt tiêu ảnh hưởng mở rộng của chính sách tài khóa. Như vậy, trong chế độ TGHĐ
thả nổi và vốn tự do luân chuyển, CSTK không có hiệu quả trong việc điều tiết tổng cầu và sản lượng.
Còn giả sử khi thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW tăng cung tiền (MS)
làm giảm lãi suất trong nước tạm thời thấp hơn lãi suất thế giới (r < r*) khiến dòng vốn
chảy ra nước ngoài, giá trị của đồng nội tệ giảm, xuất khẩu ròng được đẩy mạnh. Kết quả
là sản lượng tăng, đúng bằng mức độ dịch chuyển của đường LM hay LM*. Do vậy, CSTT
rất có hiệu quả trong điều kiện TGHĐ thả nổi.
1.2.3. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
Trong chế độ TGHĐ cố định, NHTW phải hi sinh quyền kiểm soát cung tiền, vì vậy
Chính phủ và NHTW phải hoạt động đi ngược với thị trường để bảo vệ mức tỷ giá cố định được công bố trước.
Nếu Chính phủ cố gắng tăng sản lượng bằng cách thực hiện CSTK mở rộng (tăng
chi tiêu hoặc giảm thuế), điều này sẽ khiến tổng cầu và lãi suất trong nước tăng (r > r*),
dẫn đến dòng vốn đổ vào nội tệ khiến đồng nội tệ tăng giá. Để giữ được mức TGHĐ cố
định, NHTW phải bán nội tệ và mua ngoại tệ khiến cung tiền nội tệ của khu vực tư nhân lOMoAR cPSD| 58605085
tăng cho đến khi lãi suất trở về mức lãi suất ban đầu (r = r*). Kết quả là thu nhập được
khuếch đại theo số nhân chi tiêu, CSTK rất hiệu quả, không có hiện tượng thoái lui đầu tư
ở chế độ tỷ giá cố định.
Giả sử Chính phủ muốn tăng sản lượng bằng cách thực hiện chính sách tiền tệ mở
rộng, tăng cung tiền (MS) khiến lãi suất trong nước sẽ giảm xuống dưới mức lãi suất thế
giới (r < r*), dẫn đến dòng vốn chảy ra nước ngoài. Điều này khiến đồng nội tệ mất giá. Để
duy trì tỷ giá hối đoái cố định, NHTW buộc phải can thiệp bằng cách bán ngoại tệ và mua
vào nội tệ, làm giảm cung tiền. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi lãi suất trong nước trở
về mức ban đầu (r = r*). Kết quả là tổng cầu và sản lượng không đổi. Như vậy, trong chế
độ tỷ giá cố định với dòng vốn tự do lưu chuyển, chính sách tiền tệ hoàn toàn không có
hiệu quả trong việc điều tiết tổng cầu.
1.2.4. Ứng dụng mô hình Mundell - Fleming trong nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là một quốc gia đang phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế
ổn định và là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới, với năng lực giao
thương quốc tế ngày càng mạnh mẽ nhờ hội nhập sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu
và tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Bên cạnh đó, Việt Nam còn là điểm đến
hấp dẫn của dòng vốn quốc tế, đặc biệt là FDI, nhờ môi trường đầu tư được cải thiện và
mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, theo IMF, dòng vốn ngắn hạn vẫn tiềm ẩn
rủi ro cho ổn định vĩ mô, đòi hỏi chính sách tỷ giá linh hoạt và quản lý rủi ro hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có khả năng điều hành chính sách tiền tệ một cách
tương đối độc lập, trong khi Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và ổn định kinh tế. Hiện tại, Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi
có quản lý, theo đó Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá dựa trên cung cầu ngoại tệ và
các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong biên độ ±5% so với tỷ giá trung tâm. Đồng thời tỷ giá này
được NHTW xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả
nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ.
Với đặc điểm là một nền kinh tế đang phát triển có độ mở thương mại cao cùng dòng
vốn quốc tế linh hoạt và khả năng thực hiện các chính sách tài khóa - tiền tệ một cách độc lOMoAR cPSD| 58605085
lập, Việt Nam có đầy đủ điều kiện phù hợp để vận dụng mô hình Mundell Fleming trong
phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô ngắn hạn.
Nghiên cứu thực nghiệm từ giai đoạn 1995 - 2017 của Nguyễn Tiến Thức (2019) cho
thấy sự lựa chọn chính sách kinh tế hiệu quả của Việt Nam, trong đó việc kết hợp chính
sách tài khóa độc lập và ổn định tỷ giá có thể tạo ra hiệu quả tăng trưởng bền vững trong
điều kiện hội nhập quốc tế. Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hiện nay, chính sách tiền tệ
mở rộng (tăng cung tiền) có thể làm giảm lãi suất trong nước, qua đó thúc đẩy xuất khẩu
ròng, gia tăng tổng cầu và hỗ trợ phục hồi tăng trưởng sau các cú sốc như đại dịch COVID-
19. Ngược lại, chính sách tài khóa cũng giữ vai trò quan trọng khi được phối hợp hợp lý,
nhất là trong việc hỗ trợ trực tiếp cho các ngành bị ảnh hưởng nặng và các đối tượng yếu
thế trong xã hội nhằm duy trì tổng cầu và ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc ứng dụng mô hình Mundell – Fleming giúp làm rõ các kênh truyền dẫn chính
sách qua tỷ giá, lãi suất và dòng vốn quốc tế, đồng thời đánh giá hiệu quả tương đối của
chính sách tài khóa và tiền tệ trong từng giai đoạn phục hồi. Mô hình cũng là công cụ hỗ
trợ trong việc cân nhắc giữa các mục tiêu như ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát và thúc
đẩy tăng trưởng trong bối cảnh hậu khủng hoảng.
1.3. Tổng quan nghiên cứu
Đại dịch COVID-19 đã gây ra cú sốc sâu rộng và đa chiều đối với nền kinh tế toàn
cầu, trong đó Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ thông qua cả hai kênh cung và cầu. Về
phía cung, các biện pháp giãn cách xã hội và phong tỏa kéo dài đã làm gián đoạn chuỗi sản
xuất và chuỗi cung ứng, khiến nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, phải tạm dừng hoặc cắt giảm hoạt động. Về phía cầu, thu nhập giảm sút và tâm lý thận
trọng của người tiêu dùng đã kéo giảm mạnh chi tiêu nội địa, làm chậm quá trình phục hồi
kinh tế. Chính trong bối cảnh đó, các cơ quan hoạch định chính sách của Việt Nam đã phải
triển khai đồng loạt các gói hỗ trợ tài khóa và biện pháp nới lỏng tiền tệ với hy vọng duy
trì thanh khoản của hệ thống ngân hàng, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó và kích thích tổng cầu.
Theo phân tích của Phạm Đức Anh và Nguyễn Nhật Minh (2022), khi dư địa chính
sách tiền tệ truyền thống tại Việt Nam, như hạ lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu, đã gần lOMoAR cPSD| 58605085
tiệm cận mức thấp về kỹ thuật, Ngân hàng Nhà nước buộc phải áp dụng thêm các công cụ
phi truyền thống để bơm thanh khoản, bao gồm mua trái phiếu chính phủ, nới lỏng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và cơ cấu lại nợ cho các ngân hàng. Nghiên cứu trường hợp các nền kinh tế
mới nổi tương tự cho thấy, mặc dù các biện pháp này đã kịp thời ngăn chặn đà suy giảm tín
dụng, đồng thời góp phần ổn định mặt bằng lãi suất, nhưng cũng đồng thời làm gia tăng áp
lực lạm phát và tiềm ẩn rủi ro nợ xấu về trung hạn. Do đó, các tác giả nhấn mạnh nhu cầu
phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và tài khóa để vừa duy trì thanh khoản, vừa kiểm
soát rủi ro hệ thống và bảo vệ người dân, doanh nghiệp khỏi những tác động tiêu cực kéo dài.
Mở rộng sang góc độ định lượng, Asian Development Bank (2021) đã ứng dụng mô
hình stock-flow consistent (SFC) nhằm đánh giá đồng thời tác động của việc mở rộng chi
tiêu công và nới lỏng tín dụng lên tăng trưởng GDP và tính bền vững của nợ công tại Việt
Nam. Qua mô phỏng dữ liệu giai đoạn 2008–2020, nghiên cứu chỉ ra rằng khi phối hợp
hiệu quả giữa chi tiêu tài khóa và chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế có thể được duy trì
ở mức ổn định hơn so với trường hợp chỉ sử dụng một trong hai công cụ. Tuy nhiên, nếu
các biện pháp hỗ trợ kéo dài quá lâu hay không có lộ trình thu hẹp rõ ràng, thâm hụt ngân
sách và nợ công sẽ gia tăng, làm giảm dư địa chính sách cho giai đoạn sau. Kết quả này đã
khẳng định một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam trong cuộc khủng hoảng lần
này: cân bằng giữa mục tiêu kích cầu ngắn hạn và bảo đảm bền vững tài khóa dài hạn.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Trung Đức và cộng sự (2022) sử dụng mô hình
dynamic stochastic general equilibrium (DSGE) để ước lượng tác động của cú sốc y tế và
các biện pháp giảm lãi suất, tăng cung tiền lên tổng cầu, lạm phát cũng như tỷ lệ thất nghiệp.
Kết quả cho thấy việc nới lỏng chính sách tiền tệ có thể bù đắp một phần sụt giảm tổng cầu,
nhưng hiệu quả này phụ thuộc lớn vào kỳ vọng lạm phát và mức độ “bắt đáy” của sản xuất
– tức khả năng doanh nghiệp duy trì hoạt động trong bối cảnh rủi ro kéo dài. Nghiên cứu
nhấn mạnh rủi ro là chính sách tiền tệ khi quá mở rộng có thể đẩy CPI lên cao, tạo áp lực
phải thắt chặt trở lại khi đại dịch qua đỉnh, dẫn đến sự dao động mạnh mẽ hơn của chu kỳ kinh tế. lOMoAR cPSD| 58605085
Về phía chính sách tài khóa, Lê Mai Trang (2018) đã tổng hợp các lý thuyết kinh tế
về tác động của chi tiêu công, thuế và đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế bền vững,
đồng thời phân tích kinh nghiệm điều hành tài khóa của Việt Nam sau khủng hoảng 2008.
Tác giả phát hiện ra rằng tiến độ giải ngân đầu tư công chậm và quy mô ngân sách còn hạn
chế là hai điểm nghẽn lớn, khiến hiệu ứng lan tỏa kích cầu bị suy giảm. Lê Mai Trang đề
xuất hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến đầu tư công, đẩy mạnh huy động nguồn vốn
ngoài ngân sách thông qua hợp tác công – tư (PPP) và tăng cường minh bạch trong quản lý
dự án. Những gợi ý này đã góp phần làm nền tảng cho các gói hỗ trợ tài khóa trong mùa
dịch, đặc biệt là trong thiết kế quy trình giải ngân nhanh và kiểm soát chi tiêu hiệu quả.
Trên cơ sở đó, Hoàng Xuân Quế (2022) thực hiện khảo sát thực trạng áp dụng các gói
hỗ trợ tài khóa của Việt Nam trong hai năm 2020–2021, so sánh với kinh nghiệm quốc tế
và rút ra bài học cho khâu thực thi. Quế nhận định rằng mặc dù cơ chế điều hành nhanh
chóng – như giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế, hỗ trợ trực tiếp tiền mặt cho hộ nghèo
và doanh nghiệp nhỏ – đã giúp giảm thiểu gián đoạn sản xuất và bảo vệ thu nhập của nhiều
đối tượng yếu thế, song vẫn tồn tại nhiều vướng mắc về tốc độ giải ngân, tính minh bạch
và khả năng tiếp cận nguồn hỗ trợ. Tác giả đề xuất ứng dụng công nghệ thông tin để nâng
cao hiệu quả phân phối trợ giúp, đồng thời khuyến nghị rà soát, đánh giá liên tục để điều
chỉnh thiết kế gói theo diễn biến dịch bệnh và khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khu vực Đông Nam Á như Bùi Phương Anh và Trần
Thị Bích (2022) đã so sánh tác động của gói trợ cấp trực tiếp, giảm thuế và giãn thuế tại
Việt Nam và Thái Lan đối với tiêu dùng bền vững và tâm lý người tiêu dùng. Kết quả cho
thấy, mức độ hỗ trợ tài khóa có ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi chi tiêu, nhưng hiệu quả lan
tỏa phụ thuộc vào quy mô gói, thời gian áp dụng và khả năng giám sát của chính phủ.
Nghiên cứu này cung cấp góc nhìn hữu ích để chúng ta so sánh thiết kế gói hỗ trợ và những
bài học kinh nghiệm từ quốc tế.
Vấn đề phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ không chỉ được quan tâm ở phạm
vi thực tiễn mà còn là chủ đề nghiên cứu lý thuyết. Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
(CIEM, 2010) phân tích rằng thiếu sự đồng bộ giữa hai công cụ sẽ dẫn đến xung đột mục
tiêu: thắt chặt tài khóa có thể gây cản trở mở rộng tín dụng, ngược lại nới lỏng tiền tệ đơn lOMoAR cPSD| 58605085
lẻ lại làm gia tăng thâm hụt ngân sách. CIEM đề xuất xây dựng “khung phối hợp” linh hoạt,
trong đó chi thường xuyên, chi đầu tư và tỷ lệ lãi suất chính sách được điều chỉnh đồng thời
theo chu kỳ kinh tế, nhằm vừa ổn định giá cả ngắn hạn, vừa duy trì dư địa tăng trưởng dài
hạn. Đề xuất này đã tạo cơ sở cho việc hình thành lộ trình điều phối chính sách trong mùa
dịch, giúp cân bằng giữa nhu cầu ổn định ngay lập tức và bảo đảm bền vững vĩ mô.
Trong nghiên cứu mới nhất, Trần Minh Hoàng và Võ Thị Lan (2023) khảo sát kênh
truyền dẫn tín dụng qua hệ thống ngân hàng thương mại trong giai đoạn đại dịch. Mặc dù
Ngân hàng Nhà nước liên tục giảm lãi suất, họ nhận thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn
chậm lại do rủi ro nợ xấu gia tăng và tâm lý thận trọng của các ngân hàng trong bối cảnh
rủi ro nền kinh tế cao. Kết quả này nhấn mạnh rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ
thuộc không chỉ vào cắt giảm lãi suất mà còn ở việc cổ vũ niềm tin của các tổ chức tài chính
và doanh nghiệp vào triển vọng phục hồi kinh tế.
Tóm lại, theo tìm hiểu của nhóm tác giả, dù trên thế giới và trong khu vực đã có nhiều
nghiên cứu ứng dụng SFC, DSGE, VAR/GVAR để phân tích chính sách tài khóa và tiền tệ,
tại Việt Nam chỉ có rất ít công trình thực hiện phân tích song song và đồng thời hai kênh
này trên cơ sở dữ liệu chuỗi thời gian cụ thể cho giai đoạn tiền đại dịch. Chỉ một số ít nghiên
cứu mang tính mô phỏng chung hoặc tập trung vào từng khía cạnh riêng lẻ mà chưa kiểm
định đầy đủ khuyết tật mô hình hay điều chỉnh tham số theo bối cảnh Việt Nam. Như Asian
Development Bank (2021) và Toda Giang & Trần Đức Quân (2022) vẫn dừng ở mức mô
hình SFC chung cho “nền kinh tế mới nổi”; nghiên cứu DSGE của Nguyễn Trung Đức và
cộng sự vẫn chưa khảo sát đến các biện pháp tài khóa như giảm thuế hay hỗ trợ trực tiếp.
Chính vì vậy, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp giai đoạn 2008–2020 lấy từ
World Bank, được tổng hợp và tiền xử lý trên Excel trước khi thực hiện hồi quy và kiểm
định mô hình trên phần mềm Stata. Trên nền tảng mô hình IS–LM, phương pháp ước lượng
GMM được áp dụng không chỉ để khắc phục các vấn đề đa cộng tuyến, phương sai sai số
thay đổi, tự tương quan và tính nội sinh, mà còn để ước tính chính xác hệ số nhân tài khóa
(mk ) và hệ số nhân tiền tệ (mkₜᶠ ₜᵐ) đối với GDP. Việc định lượng đồng thời hai chính sách
trong giai đoạn trước COVID-19 không những tạo cơ sở so sánh với giai đoạn khủng hoảng, lOMoAR cPSD| 58605085
mà còn giúp đề xuất lộ trình phối hợp tối ưu cho quá trình phục hồi và hướng tới phát triển
bền vững sau đại dịch.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH VĨ
MÔ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỂ ỨNG PHÓ VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19 TẠI VIỆT NAM
2.1. Tình hình xuất khẩu tại Việt Nam
Đại dịch COVID-19, khởi phát từ đầu năm 2020, đã tạo ra một cơn bão khủng hoảng,
tác động sâu rộng và đa chiều đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, xã hội trên phạm vi
toàn cầu, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Với một nền kinh tế đang trên đà phát triển
mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng vào các chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam đã phải đối mặt
với vô vàn thách thức nghiêm trọng do những biến động khó lường mà dịch bệnh gây ra.
Các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội và sự gián đoạn trong thương mại quốc tế đã
khiến nhiều ngành kinh tế chủ chốt như sản xuất, xuất khẩu, du lịch và dịch vụ chịu tổn thất
nặng nề. Tuy nhiên, nhờ vào sự lãnh đạo quyết liệt và linh hoạt của Chính phủ, sự đồng
lòng của cộng đồng doanh nghiệp cùng tinh thần đoàn kết, kiên cường của toàn dân, Việt
Nam đã từng bước vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất và đem lại nhiều mục tiêu mới.
Những chính sách hỗ trợ kịp thời từ các gói cứu trợ kinh tế cùng chiến lược kiểm soát dịch
bệnh hiệu quả đã giúp ổn định tình hình và tạo đà cho sự phục hồi của đất nước. Những kết
quả đạt được trong giai đoạn này không chỉ thể hiện khả năng thích ứng đáng kinh ngạc
của nền kinh tế Việt Nam mà còn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong
giai đoạn hậu đại dịch, qua đó khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế toàn cầu.
2.1.1. Tăng trưởng GDP trong giai đoạn đại dịch
Trong năm 2020, dù phải đối mặt với những tác động nghiêm trọng từ đại dịch
COVID-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP đáng ghi nhận là 2,91%.
Mặc dù đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong một thập kỷ vừa qua, nhưng vẫn đưa Việt
Nam vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Thành tựu này phản ánh sự linh hoạt và khả năng ứng phó hiệu quả của Chính phủ lOMoAR cPSD| 58605085
thông qua các biện pháp kiểm soát dịch bệnh chặt chẽ kết hợp với các chính sách hỗ trợ
kinh tế kịp thời, giúp giảm thiểu thiệt hại và duy trì đà tăng trưởng trong bối cảnh khó khăn.
Tuy nhiên, đến năm 2021, tình hình đã trở nên phức tạp hơn khi làn sóng dịch bệnh
lần thứ tư bùng phát mạnh mẽ, đặc biệt do sự xuất hiện của biến chủng Delta với tốc độ lây
lan nhanh chóng. Dịch bệnh lan rộng tại nhiều tỉnh thành kinh tế trọng điểm như TP. Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, buộc các địa phương này phải áp dụng các biện pháp
phong tỏa và giãn cách xã hội nghiêm ngặt kéo dài. Những hạn chế này đã gây ra sự gián
đoạn nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và chuỗi cung ứng. Kết quả là
GDP cả năm 2021 chỉ đạt mức tăng trưởng 2,58%, thấp xa so với mục tiêu 6,5% đề ra ban
đầu. Đặc biệt, trong quý III/2021, GDP giảm mạnh 6,17% so với cùng kỳ năm trước – mức
giảm sâu nhất kể từ năm 2000. Con số này là minh chứng rõ nét cho những thách thức to
lớn mà đại dịch đã đặt ra đối với các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn này.
2.1.2. Tác động đến các ngành
Đại dịch COVID-19, bùng phát từ đầu năm 2020, đã gây ra những xáo trộn chưa từng
có đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo ra những thách thức nghiêm trọng đối với nền kinh
tế Việt Nam, đặc biệt là các ngành sản xuất chủ lực như dệt may, điện tử, da giày và chế
biến thực phẩm. Là một trong những trung tâm sản xuất trọng điểm của khu vực châu Á,
Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, trong đó Trung Quốc chiếm vai
trò chủ đạo. Khi các tuyến vận chuyển quốc tế bị đình trệ và nguồn cung nguyên liệu bị
gián đoạn do các biện pháp phong tỏa, nhiều nhà máy tại Việt Nam buộc phải tạm ngừng
hoạt động hoặc chỉ duy trì sản xuất ở mức cầm chừng. Hệ quả là doanh thu và lợi nhuận
của các doanh nghiệp sụt giảm nghiêm trọng, làm suy yếu sức cạnh tranh của các ngành
xuất khẩu – vốn là trụ cột của nền kinh tế. Sự suy giảm nhu cầu từ các thị trường lớn như
Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản càng làm trầm trọng thêm những khó khăn này,
đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Không chỉ lĩnh vực sản xuất, các ngành dịch vụ và tiêu dùng nội địa cũng phải hứng
chịu những tác động nặng nề từ đại dịch, đặc biệt trong các giai đoạn giãn cách xã hội
nghiêm ngặt. Các biện pháp hạn chế đi lại và tụ tập đông người đã khiến hoạt động kinh lOMoAR cPSD| 58605085
doanh dịch vụ gần như tê liệt. Theo số liệu thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2019, đánh
dấu sự suy giảm hiếm thấy trong một nền kinh tế vốn duy trì tốc độ tăng trưởng tiêu dùng
ổn định. Ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống chịu thiệt hại nghiêm trọng với doanh thu giảm
18,1%, trong khi ngành du lịch lữ hành gần như rơi vào bế tắc với mức giảm doanh thu lên
tới 53,2%. Hàng loạt doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch, nhà hàng, khách sạn
và các dịch vụ liên quan buộc phải đóng cửa, thu hẹp quy mô hoạt động hoặc tạm ngừng
kinh doanh do thiếu vắng khách hàng, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Những tác động
này không chỉ gây tổn thất về kinh tế mà còn làm suy giảm niềm tin và triển vọng phục hồi
của các doanh nghiệp trong ngắn hạn.
Thị trường lao động cũng chứng kiến những biến động chưa từng có trong bối cảnh
đại dịch. Các biện pháp giãn cách kéo dài và sự suy giảm hoạt động kinh tế đã đẩy hàng
triệu người lao động vào tình trạng mất việc làm, giảm giờ làm hoặc sụt giảm thu nhập.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong quý III/2021, hơn 1,7 triệu người trong độ tuổi
lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, tăng 0,5 triệu người so với quý II/2021. Tỷ lệ thất
nghiệp toàn quốc đạt mức 3,98%, phản ánh mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng
việc làm. Đồng thời, khoảng 12 triệu người lao động phải đối mặt với tình trạng cắt giảm
giờ làm, trong khi 18,9 triệu người khác ghi nhận mức thu nhập giảm đáng kể so với trước
đại dịch. Những con số này không chỉ phơi bày tác động tiêu cực của COVID-19 đối với
đời sống người lao động mà còn đặt ra những thách thức lớn trong việc đảm bảo an sinh xã
hội và khôi phục thị trường lao động. Trong bối cảnh đó, các chính sách hỗ trợ của Chính
phủ, bao gồm các gói cứu trợ tài chính và hỗ trợ việc làm, đã đóng vai trò quan trọng nhưng
vẫn cần được điều chỉnh và mở rộng để đáp ứng nhu cầu cấp bách, góp phần ổn định đời
sống người dân và tạo đà cho sự phục hồi kinh tế bền vững trong giai đoạn hậu đại dịch.
2.2. Những chính sách vĩ mô để ứng phó với đại dịch COVID-19 tại Việt Nam
2.2.1. Những chính sách tài khóa đã được áp dụng
Các gói kích thích, hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Nhà nước:
Từ năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 đã gây ra những tác động nghiêm trọng
đến kinh tế - xã hội, đặc biệt là cân đối ngân sách nhà nước. Giãn cách xã hội kéo dài khiến