Phân tích luận điểm của HCM: Nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của HCM: Nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---o0o---
BÀI TẬP LỚN Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐỀ: Phân tích luận điểm HCM: "Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì". Làm rõ ý nghĩa
của luận điểm đối với VN hiện nay.
SV: Nguyễn Thùy Dung
Lớp: Quản trị dịch vụ du lịch lữ hành 62B
Mã sinh viên: 11200898
Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh (221)_05
GVHD: PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn HÀ NỘI: 2-2022 1 lOMoAR cPSD| 45469857 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một vị lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân văn
hóa thế giới và một nhà lý luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Người ra đi
tìm đường cứu nước, mang trong mình truyền thống yêu nước của dân tộc, tiếp thu,
kế thừa, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đặc biệt coi trọng sức mạnh của Nhân dân. Sinh thời, Người khẳng định:
“Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân”,“Trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của Nhân dân”, “Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm
gốc”. Nhân dân, trong tư tưởng của Người không phải chỉ là lực lượng của cách
mạng mà đã trở thành đối tượng để ngợi ca, thành đối tượng mà Đảng, Nhà nước
phải có trách nhiệm chăm lo mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần. Trong toàn
bộ di sản về tư tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và
được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng
trong nước và trên thế giới. Hồ Chí Minh cho rằng tự do, hạnh phúc là thước đo giá
trị của độc lập dân tộc, vì vậy, phải thực hiện làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành, Người đã khẳng định “Nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì...".
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Em xin được phân tích luận
điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng không có nghĩa lý gì” trong tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Việt Nam hiện
nay để có thể thấy rõ được quan điểm của Người về độc lập dân tộc. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................ 2
MỤC LỤC ................................................................................................. 2
NỘI DUNG ................................................................................................ 3 2 lOMoAR cPSD| 45469857
A, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VẺ ĐỘC LẬP, TỰ DO,
HẠNHPHÚC .......................................................................................... 3
1. Tư tưởng hồ chí minh vẻ độc lập dân tộc ...................................... 3
2. Tư tưởng hồ chí minh vẻ tự do, hạnh phúc ................................... 4
3. Mối quan hệ khăng khít giữa độc lập, tự do, hạnh phúc ............. 8
4. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của
hạnh phúc, tự do ................................................................................. 9
5. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay ...................................... 11
B, Ý NGHĨA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY ........ 13
LỜI KẾT THÚC ...................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 18 NỘI DUNG
A, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VẺ ĐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC.
Hồ Chí Minh hết sức trân quý quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp nhận
những nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ,
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Từ quyền con
người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do “.
1. Tư tưởng hồ chí minh vẻ độc lập dân tộc.
Độc lập trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập hoàn toàn triệt để và có
chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực. Dân tộc Việt Nam có quyền quyết định vận mệnh
của mình. Dưới sự lãnh đạo của người tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành “sợi chỉ
đỏ” xuyên suốt các hoạt động đối ngoại từ khi lập nước đến nay. Hồ Chí Minh từng 3 lOMoAR cPSD| 45469857
nói “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta
bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc mình. Đó chính là kết tinh sự nghiệp đối
ngoại của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh, muốn có được độc
lập hoàn toàn thì phải đúng về lập trường giai cấp vô sản, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực
sự, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối thế kỷ XIX ) hoặc chủ nghĩa tư bản ( đầu thế kỷ XX) con đường
cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nêu ra chân
lý mang tính thời đại “Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường vô sản.” Độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự thống nhất giữa dân tộc
và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Người
nói “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
2. Tư tưởng hồ chí minh vẻ tự do, hạnh phúc.
2.1 Quan điểm về tự do và hạnh phúc
Trong tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh, tự do là tự do của toàn thể dân tộc
Việt Nam. Dân tộc chỉ có thể dành được tự do khi dân tộc đó giành được độc lập. Tự
do có nghĩa là thoát khỏi ách thống trị, áp bức bóc lột. Tự do là thoát khỏi thân phận
nô lệ của con người nô lệ mất nước. Dân tộc có quyền tự do lựa chọn con đường phát triển của riêng mình.
Hạnh phúc, tự do theo quan điểm của Người là người dân phải được hưởng đầy
đủ đời sống vật chất và tinh thần đo chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là
trên cơ sở một nền kinh tế cao, dựa trên một lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có 4 lOMoAR cPSD| 45469857
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người dân từ chỗ có ăn, có mặc, có chỗ ở,
đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì càng giàu thêm.
2.2 Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời cho
mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không tưởng, mà là
câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm duy vật phê phán.
Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện
thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa, nông
nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí
Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên
cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai
làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Có
được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do.
Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh
phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi
người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập, tự do cho dân tộc,
hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc,
không lao động được thì nghỉ ngơi,...Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày 5 lOMoAR cPSD| 45469857
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách
thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội ớc hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt được dần dần
được xóa bỏ”, “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho dân giàu nước mạnh”. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người
dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem
lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tăng trưởng kinh
tế, thu nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, là phải không ngừng
nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời sống tinh thần,
văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực
hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh, nhân tố nào biến nước Việt Nam
lạc hậu thành một nước tiên tiến: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của
chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng
tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều
kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”. Ngay khi còn phải tập trung vào nhiệm vụ hàng
đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn
hóa, của đời sống tinh thần. Người cho rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa
tinh thần vì đó là lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sống chúng ta. Sau này, trong kháng
chiến ác liệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”.
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột
người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra, nhờ đó xoá bỏ cơ sở 6 lOMoAR cPSD| 45469857
kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh
thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục
tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên
của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc
vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc
khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng
trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này
với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được
tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con người khỏi
mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự do. Vì vậy Hồ Chí Minh rất
coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Văn hóa là lối sống, là
quyền con người, là cái chân, thiện, mỹ giữa người với người. Thống nhất với cách
tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh rất chú trọng sức phát triển sản xuất,
chú trọng chế độ sở hữu coi đó là những nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội. Nhưng điều đặc biệt mang sắc thái Hồ Chí Minh, đó là Người chú trọng tiếp
cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo đức. Con người có hạnh phúc trong chế
độ xã hội chủ nghĩa phải là những con người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ
xã hội chủ nghĩa mang lại hạnh phúc cho con người phải là chế độ không có chủ
nghĩa cá nhân, và những gì phản văn hóa và đạo đức. Hồ Chí Minh chỉ rõ chủ nghĩa
cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, là trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã
hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá trị của độc lập
dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và tự bảo vệ.
Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân tộc thật
sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ có
phát triển trên một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện. 7 lOMoAR cPSD| 45469857
3. Mối quan hệ khăng khít giữa độc lập, tự do, hạnh phúc.
Theo Hồ Chí Minh độc lập, tự do có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hồ Chí Minh
khẳng định độc lập, tự do là các quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc bị áp bức trên thế giới và là khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Người
đã từng nói “Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc, ham muốn là làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành.” Tự do, hạnh phúc của nhân dân bao giờ cũng là nỗi trăn trở
của Người. Chính vì tự do, hạnh phúc của con người mà Hồ Chí Minh đấu tranh cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có ý
nghĩa thực sự khi nó mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. Ở Hồ Chí Minh lòng
yêu tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với lòng yêu nhân dân sâu sắc. Người từng nói,
nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không
có nghĩa lý gì. Như vậy, theo Bác độc lập và tự do là hai vấn đề luôn luôn tồn tại
cùng nhau không thể tách rời.
Hồ Chí Minh xác định: Có độc lập mới có tự do,có giành được độc lập dân tộc
mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho
nhân dân. Trong tuyên ngôn độc lập, tư tưởng ấy đã thể hiện sự gắn bó các quyền
dân tộc cơ bản với các quyền cơ bản của con người. Người đã hoàn toàn thoát khỏi
các hệ tư tưởng cũ, đã khẳng định một cách hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc
thống nhất với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con người.
Theo Người, xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp
bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ khi thiết lập được
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp
bức bóc lột. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp
giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột thiết lập một nhà nước
thật sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ
mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc
và tự do hạnh phúc của con người. Người nói “Nước độc lập mà người dân không 8 lOMoAR cPSD| 45469857
được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Bởi vậy, sau
khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước
mạnh, mọi người được hưởng sung sướng tự do.
4. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do.
4.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Lịch sử dụng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn liền
với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên một
khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong nuốn có được một nền độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của
dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng, cái mà tôi
cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Nhân cơ
hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị
ở Vécxây (Pháp) năm 1919 mà ở đó Tổng thống Mỹ V.Wilson đã kêu gọi trao quyền
tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu nước Việt
Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam,
với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự
do, dân chủ. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên
cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà
trước hết là quyền bình đẳng và tự do đã hình thành. Căn cứ vào những quyền tự do,
bình đẳng và quyền con người - “những quyền mà không ai có thể xâm phạm được”
đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh tiếp
tục khẳng định những giá trị thiêng liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do...Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Trong Chảnh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định
mục tiêu chính trị của Đảng là:
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và
thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” Ý chí và quyết
tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong nuốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt
Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người
ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc
- giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt
đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân
tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
4.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh
giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do; dân tộc độc
lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong khi
viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”', Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. 10 lOMoAR cPSD| 45469857
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của
đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập...dân chúng
được tự do...thủ tiêu hết các thứ quốc trái...thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa
làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sau thuế cho dân cày nghèo...thi hành luật
ngày làm 8 giờ. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được
độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người
nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ..., Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải... Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,
Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân, như Người từng
bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
5. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn
hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong
phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng
đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc động
lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của con người được giải
phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của
con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức, truyền thống, quyền làm
chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội...Đó là khắc phục các trở lực 11 lOMoAR cPSD| 45469857
kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo
điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới...Đó cũng là những trở lực đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình hiện nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội đang ở vào giai đoạn thoái trào
tuy nhiên nó vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa chọn
đi theo con đườg xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn
cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định con đường mục tiêu của
mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không
chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy chục năm
qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong
đời sống kinh tế - xã hội. Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất,
căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa
là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn
bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và quá trình đó phải diễn
ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác
nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen
nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó 12 lOMoAR cPSD| 45469857
khăn. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta
có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày
dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng
yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng
tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã từng bước xây
dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”
Nhận thức đúng thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện
tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quê hương đất nước, góp phần
vào công cuộc đổi mới nước nhà.
B, Ý NGHĨA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Luôn luôn giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền dân tộc. Bảo vệ nền độc lập
trước các thế lực ngoại xâm, thế lực thù địch. Trước diễn biến của tình hình thế giới
và trong nước, đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch, Đại hội XII của
Đảng khẳng định “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững nền độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu, trong đó khẳng định ý chí quyết
tâm “kiên quyết, kiên trì đấu tranh để giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của
Tổ quốc, không để đất nước bị động, bất ngờ, không để mất đất, mất đảo, mất dân.
Đảm bảo độc lập đi cùng hạnh phúc tự do cho nhân dân. Đồng thời ngày càng hoàn 13 lOMoAR cPSD| 45469857
thiện bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Đảng ta đã đúc kết thanh cơ chế,
chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị-
xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phải quán
triệt sâu sắc tư tưởng và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ đất nước, xã hội của nhân dân. Đây là nền tảng lý luận quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do dân làm chủ.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững
mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập,
dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 hiến pháp năm 1992 khẳng định rõ:
“Nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.”
Quan điểm trên ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng một nhà nước
pháp quyền dân chủ, nhân dân- do dân làm chủ, nhất là trong giai đoạn các thế lực
thù địch đang sử dụng những chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ
đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ, chống phá cách mạng nước ta. Văn kiện Đại
hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của nhân, do dân, vì dân.” Tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về
mối quan hệ về toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của nhà
nước. Xét về mặt chính trị-xã hội thì nhân dân là cội nguồn quyền lực nhà nước, là
chủ thể quản lý nhà nước. Quyền lực của nhà nước pháp quyền chính là quyền lực
do nhân dân làm chủ trap cho nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý xã hội. Xét
về mặt quản lý, Nhà nước là một tổ chức công quyền thực thi quyền lực. Dựa vào hệ 14 lOMoAR cPSD| 45469857
thống pháp luật và bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá
trình xã hội theo ý chí, nguyện vọng của dân. Vì vậy giữa quyền lực nhà nước và
quyền làm chủ của nhân dân là thống nhất, không có sự đối lập về mục tiêu và lợi
ích Pháp luật là ý chí của nhân dân lao động, thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Những quyền tự do, dân chủ, nghĩa vụ của
nhân dân được đưa lên thanh luật, và nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo
đảm và bảo vệ những quyền lợi, nghĩa vụ ấy của nhân dân. Như vậy việc xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thực hiện công việc quản lý đất nước bằng
pháp luật, đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đòi hỏi nhà nước phải tự đặt
mình dưới pháp luật, tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Đồng thời phải nâng cao
dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, quyền tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Bên cạnh đó, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân thực sự thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình.
Nhà nước ta hiện nay đang tìm ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu
hiệu để nhân dân thực sự quyết định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN trước hết và trực tiếp ở cơ sở. Thực tiễn đã
chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện
phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ
quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền
cơ sở, thì chừng đó quyền lực nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trong quá trình phát huy dân chủ XHCN để nhân dân thực sự thực hiện quyền lực
và quyền làm chủ đất nước của mình, cần nắm vững bản chất và nội dung của vấn
đề dân chủ. Dân chủ ở nước ta là dân chủ XHCN, là nền dân chủ của khối đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp tri thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật,
kỷ cương, quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ, dân chủ được cụ thể hóa
bằng pháp luật , dân chủ trong khuôn khổ pháp luật, khắc phục tình trạng vô kỷ luật,
dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại XHCN. Đồng thời tuyệt đối không
mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị
văn hóa dân chủ XHCN. Cần phải kiên quyết chống lại những luận điệu xuyên tạc, 15 lOMoAR cPSD| 45469857
mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ” “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc
những giá trị dân chủ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã xây dụng, vun đắp trong
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam XHCN.
Chúng ta cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước. Về phẩm chất chính trị, đạo đức,
phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là “người đầy tớ
thật trung thanh của nhân dân” toàn tâm toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là
nhân tố cốt lõi bảo đảm sự thanh công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì nhân dân. Đồng thời tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, đáp ứng được sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN
thời kỳ đổi mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn lịch
sử Cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định và được xác định tại điều 4
Hiến pháp năm 1992. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là điều kiện
đảm bảo nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt
qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng XHCN.
Đã hàng thập kỷ trôi qua những lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị không chỉ
hiện tại mà còn cho đến cả tương lai. Chúng ta rút ra được bài học Dân tộc độc lập
thì phải đi đôi với hạnh phúc, tự do của nhân dân. Muốn như vậy cần phải giữ vững
nền độc lập của Tổ quốc, đồng thời phấn đấu xây dựng một nhà nước Việt Nam
XHCN là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì nhân dân.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội luôn
tập trung lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xây
dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD. Thường xuyên quan tâm, chăm lo bảo
đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; coi đây là trách nhiệm, là tình cảm
với bộ đội; hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và thương yêu cấp dưới, để
bộ đội yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, thật sự làm cho cấp dưới kính trọng,
tin tưởng, học tập và noi theo, góp phần giữ gìn và phát huy phẩm chất cao đẹp Bộ 16 lOMoAR cPSD| 45469857
đội Cụ Hồ - một nét đẹp văn hóa độc đáo, đặc sắc của Quân đội trong thời đại Hồ Chí Minh. LỜI KẾT THÚC
Độc lập đi liền với tự do, độc lập dân tộc đi liền với tự do của người dân. Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng nếu nước độc lập mà người dân không được
tự do thì cái độc lập đó cũng không để làm gì. Suốt cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mọi người, quyền có cuộc sống ấm no, được
học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già,
người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ…các quyền con người về chính trị, kinh tế,
văn hóa dược chú trọng và hoàn thiện. Không có độc lập chân chính, bền vững
thì không thể thực hiện được quyền con người và các quyền cơ bản khác không
được thực hiện tốt. Có thể nói con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là con đường phù hợp quy luật khách quan, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của
nhân dân ta, đó là có được độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc. Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội tạo nên sức mạnh kì diệu đánh bại mọi kẻ thù, giành
độc lập và xây dựng, bảo vệ đất nước.
Là một sinh viên, tôi tự hào vì mình mình được sinh ra và phát triển trong một
quốc gia có nền độc lập dân tộc vững chắc, và tôi cũng thấy được công lao của những
thế hệ trước, thấy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chúng ta phải vững tin vào
con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều
biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và tôn
giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng
viên và nhân dân luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận để bảo vệ nền độc
lập quý giá của dân tộc, bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa. 17 lOMoAR cPSD| 45469857
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình TTHCM - Mạnh Quang Thắng (2019)
2. https://noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/tin-trung-uong/202109/doc-lap-roi-dan-
phai-duoc-tu-do-hanh-phuc-310015/
3. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/ho-chi-minh-voi-khat-vong-%C3%B0oc-
lap---tu-do---hanh-phuc-cho-dan-toc-viet-nam.htm
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. 18