Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả
có ý nghĩa gì". Làm rõ đối với Việt Nam hiện nay.
- Họ và tên: Vũ Việt Anh. - MSV: 11218502.
- Lớp: 63A Logistics và QLCCƯ.
- Lớp HP: LLTT1101(223)-19.
- GVHD: TS. Nguyễn Hồng Sơn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 2 năm 2024. lOMoAR cPSD| 45734214 I. Phần mở đầu.
Việt Nam là một quốc gia hình thành từ rất sớm và có lịch sử phát triển lâu
đời, có vị trí địa chính trị chiến lược quan trọng, là nơi giao lưu và hội tụ của nhiều
nền văn hoá, nên thường bị ngoại bang “dòm ngó”, xâm lược, người dân phải sống
dưới ách nô lệ lầm than. Và thực tế là trong suốt chiều dài bốn nghìn năm dựng
nước và giữ nước của ông cha ta, trải qua bao hy sinh mất mát, hẳn mỗi người Việt
Nam đều thấu hiểu giá trị to lớn của độc lập dân tộc. Chả vì thế mà dòng tiêu ngữ
“Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” từ năm 1945 đến nay vẫn không thay đổi nội dung,
hình thức trình bày, chỉ là ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa
lịch sử thiêng liêng, trọng đại. Dân tộc nào cũng muốn độc lập, không con người
nào lại không hướng tới Tự do- Hạnh phúc, nên tiêu chí của Nhà nước ta cũng
chính là mẫu số chung để đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc ta với sức
mạnh của nhân loại tiến bộ, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại.
Hồ Chí Minh là kết tinh những gì tốt đẹp nhất, là vị lãnh tụ vĩ đại của dân
tộc, tiêu biểu cho cốt cách, bản lĩnh dân tộc, cho bản sắc văn hóa Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại. Người là một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà tư
tưởng lý luận lớn của cách mạng Việt Nam. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh nhận thức rất
rõ, không có độc lập tự do chả khác nào sống kiếp trâu ngựa, và độc lập dân tộc
theo quan điểm của người cũng rất mới mẻ, không chấp nhận độc lập dân tộc theo
con đường tư sản, phong kiến, độc lập dưới chế độ quan chủ chuyên chế, càng
không chấp nhận độc lập dưới chế độ thực dân khi mà người dân bị đầu độc cả về
tinh thần lẫn thể xác, bị đầu độc bằng thứ thuốc phiện và thuốc lá một cách thê
thảm, bộn ăn cướp đó cũng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thực hiện chính
sách ngu dân để dễ bề cai trị. Vì vậy, theo Bác: “Nước độc lập mà người dân không
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Tự do, hạnh
phúc của con người Việt Nam chính là nội dung của độc lập dân tộc, làm hoàn
chỉnh ý nghĩa của độc lập dân tộc, giúp cho độc lập và độc lập dân tộc là điều kiện
đảm bảo để ngày càng hoàn thiện các giá trị tự do và hạnh phúc cho con người Việt
Nam. Tự do, hạnh phúc cho con người Việt Nam là nội lực, là sức mạnh, là sự đảm
bảo duy nhất cho Độc lập dân tộc với tư cách là lực lượng, là chủ thể của đất nước.
Trong mối kết đó, Độc lập dân tộc là trước hết, trên hết, là tiền đề, là cơ sở cho tự
do, hạnh phúc của con người Việt Nam. Không có độc lập dân tộc không thể nói tự
do, hạnh phúc thực sự cho con người Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45734214
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm
rõ luận điểm trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam hiện nay không. II. Nội dung.
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc.
• Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc:
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" tao cơ sở cho đường
lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa với
ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể
tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn
đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc.
Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính
sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
• Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần
nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng
thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống lOMoAR cPSD| 45734214
nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền
với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì
cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà
Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ
giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên
trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối
đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành
chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
- Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của
Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “Cái mà tôi cần nhất
trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm
nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu
tranh giành lại quyền thiêng liêng đó:
• Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông
qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận
những yếu tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người lOMoAR cPSD| 45734214
đã khái quát nên những chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các
dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
• Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân
tộc: a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b, Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập
• Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước
tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
• Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng
nhân dân chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân: Nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có
ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn
về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Dân
chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi
vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh
đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân
dân, làm cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng
phải thực hiện thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập
và giúp sức cho tự do độc lập. lOMoAR cPSD| 45734214
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để: Hồ Chí
Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân tộc –
chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự tức
là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự
quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là
nước độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ: độc lập
dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển đất
nước. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư cách là một
chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây
dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không
còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo
đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hoà
giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh
đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình. lOMoAR cPSD| 45734214
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà
Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm
này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa:
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước
và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết
luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những
mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang
tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo
vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và
dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc
lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của lOMoAR cPSD| 45734214
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó
là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân
tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến
lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách
mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
• Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
• Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
• Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ,
khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có
ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những
nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết
định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu
hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm
cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với lOMoAR cPSD| 45734214
con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định
vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông
- trí thức. Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát
triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được
chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách triệt để:
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ
giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của
một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu
trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được
mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn
toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách
mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách
mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm
no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để
không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ
củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều
kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. lOMoAR cPSD| 45734214
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt
để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những
giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện
để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô
lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ
mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội
có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã
hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí,
anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm
bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực
phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với
các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận
động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên
phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc,
đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác
chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc
chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất lOMoAR cPSD| 45734214
nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ.
Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng
chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể
hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế
độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn
đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa
phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật,
được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao
dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề
kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động
nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc
lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một
cách hoàn toàn và triệt để.
II. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt
Nam; độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm có
quan hệ khăng khít và biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Quan
điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng: lOMoAR cPSD| 45734214
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập nhưng hậu
quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống trong cảnh
khốn cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới là phải
chăm lo cho đời sống của nhân dân. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đề ra sáu nhiệm cụ cấp bách cần
giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống nạn đói,
chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế đò, …
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc ra sức
cứu đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất
ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững
quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi no” mà
Người đã gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát