lOMoARcPSD| 61409713
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Họ và tên sinh viên :
Mã số sinh viên
:
Lớp tín chỉ
:
Số thứ tự
:
Hà Nội, tháng 10 năm 2023
lOMoARcPSD| 61409713
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
NỘI DUNG .............................................................................................. 1
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ......... 1
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc ....................... 1
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ........................................... 1
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc .................... 2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................ 4
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủnghĩa
xã hội ........................................................................................................ 4
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa
xãhội ............................................................................................... 4
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam .................. 5
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dântộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ............................................. 6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân ............................................................................ 8
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự
nghiệpcách mạng: .................................................................................... 8
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ....... 9
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng
lớp xã hội dễ bị tổn thương nhất ............................................................. 9
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay ...................... 10
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất
yếu, khách quan của cách mạng Việt Nam ......................................... 10
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch
sử mới ..................................................................................................... 12
2. Một số vấn đề rút ra .............................................................................. 14
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ........................................................ 17
KẾT LUẬN ............................................................................................ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 19
lOMoARcPSD| 61409713
PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người,
quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được
nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các
quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội được chú trọng hoàn
thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức
hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật Người
mong muốn thực hiện. Không độc lập chân chính, bền vững thì không thể thực
hiện được quyền con người thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền bản, thiết
thực của con người.
Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện làng”, tên Hồ
Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945, Bác viết: “Nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
gì”.
Quán triệt tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống
mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó sự thống nhất giữa quyền
lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công dân, như
tâm nguyện của Bác kính yêu.
Thực chất quan điểm trên của Người là muốn nói đến mối quan hệ khăng
khít giữa độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trên
sphân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây
dựng chủ nghĩa hội theo tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm luận
điểm trên xem rằng ý nghĩa của còn giá trvới Việt Nam hiện nay không.
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Mác Ăngghen nêu ra các quan điểm tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” tao sở cho đường
lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền
lOMoARcPSD| 61409713
tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tưởng Hồ Chí Minh vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc
địa trong thời đại cách mạng sản độc lập, tự do quyền thiêng liêng, bất
khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường
dân tộc với lập trường giai cấp sản trong bản chất tổng thể. Nhưng trong
giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân
tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do
vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Xét đến cùng trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về
dân tộc cũng là giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp
vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên
thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu
sâu hơn vai trò sứ mệnh lịch scủa giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc
hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp
công nhân dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạng sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực cách mạng.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Một là, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của
Tổ quốc, tdo của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: Cái tôi cần nhất
trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm
nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc chủ động, tích cực đấu
tranh giành lại quyền thiêng liêng đó:
Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng sản thông
qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá trị
trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những chân lý
bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập bất
lOMoARcPSD| 61409713
hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi
được”.
Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân tộc:
a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến. b, Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập
Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước Việt
Nam quyền hưởng tự do độc lập, và thực sự đã thành một nước tdo và độc
lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần lực lượng, tính mạng của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vđộc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Trong tgửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập dân không được hưởng hạnh phúc tự do tđộc lập cũng
chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung
Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân,
làm cho dân ăn mặc, chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực
hiện thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho
tự do độc lập.
Ba là, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để:
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân tộc
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự tức
các quyền dân tộc bản phải được đảm bảo, dân tộc đó quyền tự quyết trên
tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước độc lập
phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
Bốn là, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước chân lý, quy luật tồn tại phát triển đất
nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
thể khẳng định tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc
tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 61409713
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với
cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt
tới mục tiêu.
Hai là, dù còn tồn đọng nhiều tàn của xã hội nhưng chủ nghĩa hội
không còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tưởng Hồ Chí Minh,
cần phải chống chủ nghĩa nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách,
bảo đảm cho mỗi nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài
hoà giữa cá nhân xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh
đưa ra quan niệm, chủ nghĩa hội là hội trong đó mình mọi người, mọi
người vì mình.
Ba là, mục đích của chủ nghĩa hội, theo Hồ Chí Minh không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân một trong những vấn đề quan trọng
Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ của quý báu nhất của
nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bvà phát triển. Quan niệm này đã đặt
nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam
hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cách mạng hội chủ
nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ hai nhiệm vụ chiến lược bản, trong đó
giải phóng dân tộc nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến
trình từng bước phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. thế, giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt,
cấp bách.
Độc lập dân tộc khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó n một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ giữ gìn bởi
máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc dân chủ. Đó nền độc lập
thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa
lOMoARcPSD| 61409713
vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng HChí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập đđi tới hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân
chủ, mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, đồng thời điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng hội chủ nghĩa. Do vậy,
cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt đthì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa
hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân
lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa hội, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa hội con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những
người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo
vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng
đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Chỉ có
chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức
khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc
lập thật sự, chân chính”.
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo sức chiến
đấu của Đảng Cộng sản điều kiện bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam
không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân
tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực
hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tưởng tổ chức, trong đó công tác
cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường
lOMoARcPSD| 61409713
khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân trí thức làm nền tảng khối đại
đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông gốc, là chủ lực của cách mạng,
các giai tầng, nhân yêu nước bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức đoàn kết lại. Tất
cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để
đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân toàn dân mối quan hệ biện chứng
được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt
chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người
nhiều chủ trương, đường lối biện pháp phù hợp để tranh thsự ủng hộ, giúp
đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội là một tất yếu khách
quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hkhi gắn liền với những điều kiện bảo
đảm, trong đó yếu tquan trọng nhất xác lập tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời phát triển thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội trên
phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20
và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội đã thành
ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành
những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt
Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
con đường cách mạng sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai
của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân
quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”; xác định đối
tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp
tư sản địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng cách mạng Việt
Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư
lOMoARcPSD| 61409713
sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các nhân yêu nước, trong đó nòng cốt liên
minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
một bộ phận của cách mạng sản thế giới, mối quan hệ khăng khít với cách
mạng sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc tính chủ động, thể
giành thắng lợi trước cách mạng sản “chính quốc”, tác động tích cực tới cách
mạng “chính quốc”.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm tcách mạng sản.
Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến kiến quốc”. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh tiếp tục bsung, phát triển những quan điểm luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên
trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra
sức tranh thủ sự ủng hgiúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tưởng
Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra
và thực thi nhất quán đường lối :”vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó
phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi với giữ nước,
bảo vệ độc lập của Tổ quốc xây dựng từng bước chế độ mới; là nguyên nhân
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng vđộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội trong điều kiện mới. thời
kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng
và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ
nghĩa hội miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối quan hệ giữa
cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng
miền tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây là sự cụ thể h
nội dung con đường cách mạng sản, sự gắn chặt chẽ giữa nhiệm vdân tộc,
dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì
bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh phát triển luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định kẻ thù số một dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng
để đánh đổ đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh những quan
lOMoARcPSD| 61409713
niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược
đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho cách mạng Việt
Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba
tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối
hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có
nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã làm đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Người đã có những chỉ
dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt
Nam; độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm
quan hệ khăng khít biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Quan điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập nhưng
hậu quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống trong
cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch H
Chí Minh đã đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới
phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. vậy ngay trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đra sáu nhiệm cụ cấp
bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống
nạn đói, chống nạn dốt và các tệ nạn hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế
đò,…
lOMoARcPSD| 61409713
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc
ra sức cứu đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi
no” Người đã gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt
cũng được phát động, phong trào thanh toán nạn chữ được dâng cao trên cả
nước. Công tác văn hóa, giáo dục ng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh.
Để thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến
pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước các quyền tự do, dân chủ khác của
nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân
một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Đảng
Nhà nước ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm của Người về chủ nghĩa
hội. Người nói Chủ nghĩa hội làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được
thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa bỏ. Tóm lại, họi
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa
xã hội”.
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng Nhà nước đối với nhiệm
vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu
sau Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng
định Đảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân ra, vừa người lãnh đạo, vừa
người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
thế, cán bộ Đảng viên chính quyền ttrên xuống dưới phải hết sức quan
tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định hội phát
huy được tiềm lực của toàn dân.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp
xã hội dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các tầng
lớp nhân dân mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người đã dũng
cảm hy sinh một phần xương máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã anh dũng
hy sinh cho Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các lực lượng
trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ coi “đó
lOMoARcPSD| 61409713
là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội nước
ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn quan tâm
đến quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy sinh,
chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân đàn
áp, bóc lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người quan niệm
“chỉ khi nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển, nền
đôc lâp mới bền vững”.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu,
khách quan của cách mạng Việt Nam
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập, Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược:
Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới hội cộng sản. Từ đây, dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đi theo con đường cách mạng
đúng đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách lệ, giành độc lập, tự do; sự nghiệp
giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao động bị áp
bức, bóc lột; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam gắn liền với cuộc
đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới. Mục
tiêu này được thực hiện nhất quán qua các giai đoạn cách mạng:
Đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Đảng xác định nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng
tâm trước hết, mục tiêu chủ nghĩa hội chưa đặt ra trực tiếp phương hướng
tiến lên. Đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi tạo điều kiện, tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa hội. Mục tiêu, phương hướng tiến lên chủ nghĩa hội ảnh
hưởng quyết định đến tính chất triệt đtạo ra sức mạnh của cách mạng giải
phóng dân tộc.
Từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhất từ Hội nghị Trung ương lần
thứ tám (5-1941), Đảng đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đây là
Nghị quyết ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong đấu tranh
giành chính quyền, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam quyền hưởng tự do độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”
1
.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3.
lOMoARcPSD| 61409713
Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội (1945-1975)
Ngay sau khi Việt Nam vừa giành được độc lập, thực dân Pháp quay lại
xâm lược nước ta, Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, Đảng ch
trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống
đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây
dựng củng cố chính quyền cách mạng, chống “giặc đói”, “giặc dốt”, không
ngừng nâng cao nội lực cách mạng, tạo sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống
thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng chủ trương
thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại xâm vừa xây
dựng chế độ dân chủ mới. Chế độ mới không chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần
còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng chiến lâu dài, càng đánh càng
thắng, càng đánh càng mạnh, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp. Chế độ dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động lực cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành công, đồng thời
là tiền đề trực tiếp cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ tiếp theo.
Trong giai đoạn 1954-1975, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội thể
hiện đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam. Sức mạnh của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam kết quả của sự kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy
trên nền tảng của tinh thần dân tộc chủ nghĩa yêu nước. Trong Lời kêu gọi
chống Mỹ, cứu nước, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân
lý Không có gì quý hơn độc lập tự do. Nhân dân hai miền Nam - Bắc cùng chung
sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước. Miền Nam đã
thể hiện xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế
độ tay sai, đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả nước
từ năm 1975 đến nay
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải đưa ra
được các giải pháp, bước đi, cách làm thực sự khoa học, nhằm thực hiện được
mục tiêu đó. Trước đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội, Đảng đã
phạm những khuyết điểm trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nền
lOMoARcPSD| 61409713
kinh tế từng bước rơi vào khó khăn, khủng hoảng. Những yếu kém về kinh tế - xã
hội, những hạn chế về duy luận, khuyết điểm về lãnh đạo, tổ chức thực hiện...
còn làm ảnh hưởng đến các nguồn lực củng cố quốc phòng, an ninh và vị thế đất
nước. Do đó, đổi mới trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát từ đòi hỏi của
thực tiễn phát triển đất nước và của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tìm ra con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam.
Đổi mới không phải thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, nhằm làm
cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương thức biện pháp phù hợp
hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa nhân dân
ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”
2
.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử
mới
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ năm 1975 đến nay cho thấy, độc lập
dân tộc mang những nội dung mới: Phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc; bảo vlợi ích
quốc gia, dân tộc và con đường phát triển của đất nước; nêu cao ý chí tlực, tự
cường, tự hào, tự tôn dân tộc; thể hiện tính cố kết, tinh thần đại đoàn kết toàn dân
tộc; bảo vệ phát triển sức sống của nền văn hóa dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế đhội chủ nghĩa bảo vnhân dân; hội nhập quốc tế nhưng bảo
đảm giữ vững độc lập, tự chủ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội không chỉ lý tưởng, mục tiêu còn
trở thành nguồn gốc, động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc
lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập
hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng
cách mạng rộng lớn sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
2
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.
lOMoARcPSD| 61409713
hội đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của nhân
dân.
Độc lập dân tộc trên sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô
dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần; quan
hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền
dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế giới,
sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chỉ con đường đi lên chủ nghĩa hội, độc lập dân tộc mới đạt được
chân giá trị của nó, đưa dân tộc phát triển phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh
thần, dân chủ được bảo đảm; phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã huy
động được lực lượng to lớn nhất của toàn dân tộc, các giai cấp, tầng lớp nhân dân
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân tộc không
đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phản bội lại sự hy sinh
của lớp lớp các chiến cách mạng tiền bối trong quá trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc.
Nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đổi mới và hội nhập, tại Đại hội XIII (năm
2021), Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo về tầm nhìn định hướng phát triển
đất nước, trong đó, nêu rõ bốn kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc chủ nghĩa hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các
nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”
3
.
Trải qua hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về chủ
nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Nhờ sự nỗ lực, thống nhất cao
của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đất nước đã sự phát triển mạnh mẽ, toàn
diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế phát triển với tốc độ tương đối cao.
Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6%/năm. Năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng tăng
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.109
lOMoARcPSD| 61409713
trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%, mức tăng trưởng thuộc nhóm cao
nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD. Chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011-
2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016-2020
45
. Các cân đối lớn của nền kinh tế
tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện; tài chính - ngân sách nhà nước
được tăng cường. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống của nhân
dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (năm 1993), 9,88% (năm
2016) giảm xuống còn dưới 3% (năm 2020)
6
.
Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ,
bảo vệ môi trường phát triển. Xây dựng hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, lấy
chất lượng hiệu quả đầu ra làm thước đo. Văn hóa, xây dựng con người Việt
Nam nhiều chuyển biến ch cực, mặt khá nổi bật. Từng bước hoàn thiện
đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo;
phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hlao động hài hòa, ổn
định, tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Một trong những thành tựu quan trọng
của 35 năm đổi mới, đó là: “Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được
giữ vững và tăng cường quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đạt nhiều thành tựu nổi bật”
7
.
2. Một số vấn đề rút ra
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, trong hoàn cảnh khó khăn, thử
thách nthế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa hội. Đó cũng sự nhất quán giữa tưởng Hồ Chí Minh với
Đảng ta về con đường của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam và phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử.
Nhờ đường lối đúng đắn ấy, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Sau hơn 36 năm đổi mới, luận về đường lối đổi mới, vchủ
4
ăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.
5
-61
6
Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một
giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020)
7
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.67.
lOMoARcPSD| 61409713
nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội của nước ta ngày càng hoàn
thiện. Đất nước đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân được
nâng lên rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó, Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng
định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là nguồn lực và là động lực to lớn, là niềm tin
lớn lao để toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức, tiếp tục
vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Để chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực
thù địch điên cuồng ra sức chống phá từ việc phủ nhận luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tưởng Hồ Chí Minh quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa hội
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội đến việc thành lập các tổ chức, mua chuộc,
xúi dục, kích động, gây bạo loạn lật đổ, cổ súy cho con đường tư bản chủ nghĩa,
nhằm tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đang đạt nhiều thành tựu, đặc biệt về khoa học
công nghệ, giải phóng sức lao động, nhưng những khuyết tật trong lòng xã hội tư
bản vẫn bộc lộ mạnh mẽ và không thể khắc phục. Các cuộc khủng hoảng kinh tế
liên tiếp xảy ra, xung đột sắc tộc, tôn giáo chiều hướng gia tăng, bất công
hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt… Từ đó, xuất hiện ngày càng nhiều
các phong trào phản kháng xã hội, biểu tình, bạo loạn xảy ra ở nhiều quốc gia
bản.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua những năm tháng đau thương do
chiến tranh gây ra. Giờ đây, hơn bao giờ hết, cần một môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, xây dựng một xã hội thân ái, đoàn kết, tiến bộ, nhân
văn, phát triển bền vững, xây dựng hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về nhân
dân, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên… Tất cả những điều đó chỉ được
trong chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Từ sluận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và từ thực tiễn thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng minh,
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội là con đường duy nhất đúng của Việt
Nam. Điều đó một lần nữa được khẳng định trong bài viết “Một số vấn đề lý luận
thực tiễn về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam”
của Tổng thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV đại biểu hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đây là cơ sở lý luận và khoa học để xây dựng,
củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
lOMoARcPSD| 61409713
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và
tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân
dân. vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ C
Minh, nhất về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm
lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cần tập
trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói
riêng gắn với nhiệm vụ chính trị của quan, địa phương, đơn vị nhân. Đưa
nội dung này vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương, đơn vị
và cá nhân hằng năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi bộ gắn
với nhiệm vụ chuyên môn, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động
của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập
trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ quan,
đơn vị; với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2020 và
những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ.
Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng tuyên truyền sâu rộng những
nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác vsự
tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa
trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật
nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ
chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại a sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện,
diễn ra trên mọi mặt của đời sống sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng
chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật
và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị
vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người trình độ tay nghề, nắm vững
công nghệ, khoa học, thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động
công nghiệp, lao động sáng tạo.
lOMoARcPSD| 61409713
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, sinh viên nói chung, bản thân nói riêng phải tích cực tham gia
học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong
sáng.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng sinh
viên, tác động một cách toàn diện lên tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của
từng sinh viên. Do đó, sinh viên phải rèn luyện để lập trường tưởng vững
vàng, lòng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa hội, đạo đức trong sáng lối sống lành mạnh; tích cực
tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước bảo vệ cương lĩnh,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống laaij
âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn
hội, tham nhũng…
Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề.
Trong thời kphát triển kinh tế - hội trong nước hội nhập quốc tế,
sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kỹ
năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước thị trường lao
động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương
châm: người sinh viên nào cũng phải học đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải
học, người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường xuyên, suốt
đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Bản thân phải tích cực tham gia bảo vệ xây dựng hệ thóng chính trị
các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững
chắc; tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
Thứ tư, tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.
Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh.
lOMoARcPSD| 61409713
Tích cực tham gia các chương trình, dán của địa phương; tự nguyện, tự
giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc
và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Thứ sáu, cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia
hiệu quả vào giải quyết các vấn đtoàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy
chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí
hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh
hiểm nghèo…
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
hội là nội dung xuyên suốt trong tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Môt đ
ất
nước phát triển, môt x ã hôi trong ạch, môt c ế đô dân c ước mong của
nhân dân ta. Người dân Viêt Nam t ực sự có hạnh phúc ngay trên Tổ quốc mình
khi những điều đó trở thành hiên t ực. Đôc lậ p dân tộ c  à hạnh phúc nhân dân
mãi mãi gắn liền với nhau như đôi cánh nâng đất nước Việt Nam vô cùng yêu dấu
bay cao, vươn xa, cùng nhân loại tiến về phía trước.
Qua hơn 36 năm đổi mới,“Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
8
. Đó chính là thành quả của quá trình
kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và nhận thức mới về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong công cuộc
đổi mới đất nước.
8
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2021, tr.25.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61409713
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------- -------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay Họ và tên sinh viên : Mã số sinh viên : Lớp tín chỉ : Số thứ tự :
Hà Nội, tháng 10 năm 2023 lOMoAR cPSD| 61409713 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
NỘI DUNG .............................................................................................. 1
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ......... 1
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc ....................... 1
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ........................................... 1
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc .................... 2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................ 4
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủnghĩa
xã hội ........................................................................................................ 4

3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa
xãhội ............................................................................................... 4
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam .................. 5
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dântộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ............................................. 6

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân ............................................................................ 8
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự
nghiệpcách mạng: .................................................................................... 8
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ....... 9
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng
lớp xã hội dễ bị tổn thương nhất ............................................................. 9
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay ...................... 10
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất
yếu, khách quan của cách mạng Việt Nam ......................................... 10
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch
sử mới ..................................................................................................... 12

2. Một số vấn đề rút ra .............................................................................. 14
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ........................................................ 17
KẾT LUẬN ............................................................................................ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 19 lOMoAR cPSD| 61409713 PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người,
quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được
nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các
quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng và hoàn
thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức
và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà Người
mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không thể thực
hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, thiết thực của con người.
Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ký tên Hồ
Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945, Bác viết: “Nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống
mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa quyền
và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công dân, như
tâm nguyện của Bác kính yêu.
Thực chất quan điểm trên của Người là muốn nói đến mối quan hệ khăng
khít giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trên
cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm rõ luận
điểm trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam hiện nay không. NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc

Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” tao cơ sở cho đường
lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền lOMoAR cPSD| 61409713
tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc
địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất
khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường
dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng trong
giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân
tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do
vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về
dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp
vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên
thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu
sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc
hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp
công nhân và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực cách mạng.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Một là, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của
Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất
trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm
nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu
tranh giành lại quyền thiêng liêng đó:
Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông
qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá trị
trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những chân lý
bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập bất lOMoAR cPSD| 61409713
hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân tộc:
a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b, Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập
Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc
lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung
Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân,
làm cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực
hiện thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập.
Ba là, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để:
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân tộc
– chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự tức là
các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự quyết trên
tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước độc lập
phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
Bốn là, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển đất
nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Có
thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc là tư
tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 61409713
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư
cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Hai là, dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội
không còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
cần phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách,
bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài
hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh
đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình.
Ba là, mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng
mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã đặt
nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam
có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến
trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi
máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập
thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa lOMoAR cPSD| 61409713
vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân
chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã
hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân
lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những
người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo
vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng
đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức
khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc
lập thật sự, chân chính”.
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam
không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân
tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực
hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác
cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường lOMoAR cPSD| 61409713
khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại
đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng,
các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức đoàn kết lại. Tất
cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để
đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng
được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt
chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người
có nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp
đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo
đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20
và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành
ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành
những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai
của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; xác định đối
tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp
tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng cách mạng Việt
Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư lOMoAR cPSD| 61409713
sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên
minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách
mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính quốc”, tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc”.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản.
Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên
trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra
sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra
và thực thi nhất quán đường lối :”vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó
phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi với giữ nước,
bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới; là nguyên nhân
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời
kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng
và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối quan hệ giữa
cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng
miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây là sự cụ thể hoá
nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc,
dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng
để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan lOMoAR cPSD| 61409713
niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược
đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho cách mạng Việt
Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba
tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối
hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có
nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Người đã có những chỉ
dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt
Nam; độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm
có quan hệ khăng khít và biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Quan điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập nhưng
hậu quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống trong
cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới là
phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đề ra sáu nhiệm cụ cấp
bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống
nạn đói, chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế đò,… lOMoAR cPSD| 61409713
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc
ra sức cứu đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi
no” mà Người đã gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt
cũng được phát động, phong trào thanh toán nạn mù chữ được dâng cao trên cả
nước. Công tác văn hóa, giáo dục cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh.
Để thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến
pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân
là một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm của Người về chủ nghĩa
xã hội. Người nói “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được
thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã họi
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm
vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu
sau Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ rõ “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng
định Đảng ta, Nhà nước ta là từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
Vì thế, cán bộ Đảng viên và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan
tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và phát
huy được tiềm lực của toàn dân.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp
xã hội dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các tầng
lớp nhân dân mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người đã dũng
cảm hy sinh một phần xương máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã anh dũng
hy sinh cho Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các lực lượng
trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ coi “đó lOMoAR cPSD| 61409713
là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn quan tâm
đến quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy sinh,
chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân đàn
áp, bóc lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người quan niệm
“chỉ khi nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển, nền
đôc lâp mới bền vững”.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu,
khách quan của cách mạng Việt Nam
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập, Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược:
Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Từ đây, dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đi theo con đường cách mạng
đúng đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập, tự do; sự nghiệp
giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao động bị áp
bức, bóc lột; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam gắn liền với cuộc
đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới. Mục
tiêu này được thực hiện nhất quán qua các giai đoạn cách mạng:
Đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Đảng xác định nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng
tâm trước hết, mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là phương hướng
tiến lên. Đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi tạo điều kiện, tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội có ảnh
hưởng quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhất là từ Hội nghị Trung ương lần
thứ tám (5-1941), Đảng đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đây là
Nghị quyết có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong đấu tranh
giành chính quyền, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”1.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3. lOMoAR cPSD| 61409713
Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội (1945-1975)
Ngay sau khi Việt Nam vừa giành được độc lập, thực dân Pháp quay lại
xâm lược nước ta, Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, Đảng chủ
trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống
đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chống “giặc đói”, “giặc dốt”, không
ngừng nâng cao nội lực cách mạng, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống
thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng chủ trương
thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại xâm vừa xây
dựng chế độ dân chủ mới. Chế độ mới không chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần mà
còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng chiến lâu dài, càng đánh càng
thắng, càng đánh càng mạnh, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp. Chế độ dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động lực cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành công, đồng thời
là tiền đề trực tiếp cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ tiếp theo.
Trong giai đoạn 1954-1975, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Sức mạnh của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy
trên nền tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Trong Lời kêu gọi
chống Mỹ, cứu nước, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chân
lý Không có gì quý hơn độc lập tự do. Nhân dân hai miền Nam - Bắc cùng chung
sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước. Miền Nam đã
thể hiện xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế
độ tay sai, đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả nước
từ năm 1975 đến nay
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải đưa ra
được các giải pháp, bước đi, cách làm thực sự khoa học, nhằm thực hiện được
mục tiêu đó. Trước đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội, Đảng đã
phạm những khuyết điểm trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nền lOMoAR cPSD| 61409713
kinh tế từng bước rơi vào khó khăn, khủng hoảng. Những yếu kém về kinh tế - xã
hội, những hạn chế về tư duy lý luận, khuyết điểm về lãnh đạo, tổ chức thực hiện...
còn làm ảnh hưởng đến các nguồn lực củng cố quốc phòng, an ninh và vị thế đất
nước. Do đó, đổi mới trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát từ đòi hỏi của
thực tiễn phát triển đất nước và của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tìm ra con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam.
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà nhằm làm
cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương thức và biện pháp phù hợp
hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”2.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ năm 1975 đến nay cho thấy, độc lập
dân tộc mang những nội dung mới: Phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc và con đường phát triển của đất nước; nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, tự hào, tự tôn dân tộc; thể hiện tính cố kết, tinh thần đại đoàn kết toàn dân
tộc; bảo vệ và phát triển sức sống của nền văn hóa dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nhân dân; hội nhập quốc tế nhưng bảo
đảm giữ vững độc lập, tự chủ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà còn
trở thành nguồn gốc, động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc
lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập
hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng
cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
2 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70. lOMoAR cPSD| 61409713
hội đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của nhân dân.
Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô
dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần; quan
hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền
dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế giới, vì
sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chỉ có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được
chân giá trị của nó, đưa dân tộc phát triển phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh
thần, dân chủ được bảo đảm; phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã huy
động được lực lượng to lớn nhất của toàn dân tộc, các giai cấp, tầng lớp nhân dân
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân tộc mà không
đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phản bội lại sự hy sinh
của lớp lớp các chiến sĩ cách mạng tiền bối trong quá trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc.
Nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đổi mới và hội nhập, tại Đại hội XIII (năm
2021), Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo về tầm nhìn và định hướng phát triển
đất nước, trong đó, nêu rõ bốn kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các
nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3.
Trải qua hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Nhờ sự nỗ lực, thống nhất cao
của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đất nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, toàn
diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế phát triển với tốc độ tương đối cao.
Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6%/năm. Năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng tăng
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.109 lOMoAR cPSD| 61409713
trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao
nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD. Chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011-
2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016-202045. Các cân đối lớn của nền kinh tế
tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện; tài chính - ngân sách nhà nước
được tăng cường. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống của nhân
dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (năm 1993), 9,88% (năm
2016) giảm xuống còn dưới 3% (năm 2020)6.
Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ,
bảo vệ môi trường phát triển. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy
chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Văn hóa, xây dựng con người Việt
Nam có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Từng bước hoàn thiện
đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo;
phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn
định, tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Một trong những thành tựu quan trọng
của 35 năm đổi mới, đó là: “Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được
giữ vững và tăng cường quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đạt nhiều thành tựu nổi bật”7.
2. Một số vấn đề rút ra
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử
thách như thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự nhất quán giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với
Đảng ta về con đường của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam và phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử.
Nhờ đường lối đúng đắn ấy, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Sau hơn 36 năm đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
4 ăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 5 -61
6 Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một
giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020)
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.67. lOMoAR cPSD| 61409713
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng hoàn
thiện. Đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân được
nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó, Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng
định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là nguồn lực và là động lực to lớn, là niềm tin
lớn lao để toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức, tiếp tục
vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Để chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực
thù địch điên cuồng ra sức chống phá từ việc phủ nhận lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc thành lập các tổ chức, mua chuộc,
xúi dục, kích động, gây bạo loạn lật đổ, cổ súy cho con đường tư bản chủ nghĩa,
nhằm tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đang đạt nhiều thành tựu, đặc biệt về khoa học
công nghệ, giải phóng sức lao động, nhưng những khuyết tật trong lòng xã hội tư
bản vẫn bộc lộ mạnh mẽ và không thể khắc phục. Các cuộc khủng hoảng kinh tế
liên tiếp xảy ra, xung đột sắc tộc, tôn giáo có chiều hướng gia tăng, bất công xã
hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt… Từ đó, xuất hiện ngày càng nhiều
các phong trào phản kháng xã hội, biểu tình, bạo loạn xảy ra ở nhiều quốc gia tư bản.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua những năm tháng đau thương do
chiến tranh gây ra. Giờ đây, hơn bao giờ hết, cần một môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, xây dựng một xã hội thân ái, đoàn kết, tiến bộ, nhân
văn, phát triển bền vững, xây dựng hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về nhân
dân, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên… Tất cả những điều đó chỉ có được
trong chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và từ thực tiễn thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng minh,
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng của Việt
Nam. Điều đó một lần nữa được khẳng định trong bài viết “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đây là cơ sở lý luận và khoa học để xây dựng,
củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta lOMoAR cPSD| 61409713
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và
tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân
dân. Vì vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm
lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cần tập
trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói
riêng gắn với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân
. Đưa
nội dung này vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương, đơn vị
và cá nhân hằng năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi bộ gắn
với nhiệm vụ chuyên môn, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động
của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập
trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ quan,
đơn vị
; với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2020 và
những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những
cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về sự
tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa
trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật
nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ
chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện,
diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng
chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật
và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị
vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững
công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động
công nghiệp, lao động sáng tạo. lOMoAR cPSD| 61409713
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, sinh viên nói chung, bản thân nói riêng phải tích cực tham gia
học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng sinh
viên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của
từng sinh viên. Do đó, sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững
vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực
tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ cương lĩnh,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống laaij
âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề.
Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế,
sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kỹ
năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao
động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương
châm: người sinh viên nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải
học, người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường xuyên, suốt
đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Bản thân phải tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng hệ thóng chính trị ở
các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững
chắc; tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
Thứ tư, tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.
Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh. lOMoAR cPSD| 61409713
Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự
giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc
và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Thứ sáu, cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có
hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo… KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là nội dung xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Môt đ ̣ ất
nước phát triển, môt x ̣ ã hôi trong ṣ ạch, môt cḥ ế đô dân cḥ ủ là ước mong của
nhân dân ta. Người dân Viêt Nam tḥ ực sự có hạnh phúc ngay trên Tổ quốc mình
khi những điều đó trở thành hiên tḥ ực. Đôc lậ p dân tộ c ṿ à hạnh phúc nhân dân
mãi mãi gắn liền với nhau như đôi cánh nâng đất nước Việt Nam vô cùng yêu dấu
bay cao, vươn xa, cùng nhân loại tiến về phía trước.
Qua hơn 36 năm đổi mới,“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”8. Đó chính là thành quả của quá trình
kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và nhận thức mới về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong công cuộc đổi mới đất nước.
8 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25.