








Preview text:
lOMoAR cPSD| 61409713
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập
mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Phương Thảo
GVHD: TS Nguyễn Hồng Sơn Mã sinh viên: 11215414
Lớp: Quản trị marketing clc 63A HÀ NỘI 4/2022 lOMoAR cPSD| 61409713
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................3
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC...................................4
1. TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC...............................................................4
2. TƯ TƯỞNG HCM VỀ TỰ DO, HẠNH PHÚC.............................................................6
3. MỐI QUAN HỆ KHĂNG KHÍT GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC.........................7
II. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối với Việt Nam Hiện
nay…………………………………………………………………………………..8
Kết thúc……………………………………………………………………………10
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................11 lOMoAR cPSD| 61409713 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng
của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức.Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức.Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu
tranh dựng nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư
tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của Người được Đảng Cộng Sản
Việt Nam tổng kết, hệ thống hoá. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm
về những vấn đề cơ bản cuả cách mạng Việt Nam, từ cách mạng xã hội chủ nghĩa;
vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo
Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.Trong toàn bộ di sản về tư
tưởng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể hiện rõ ràng,
xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng trong nước và trên thế
giới. Giá trị của độc lập, tự do là vô giá mà không gì có thể so sánh được, đây là giá
trị mà đất nước ta dành cả ngàn năm đấu tranh để đổi lấy.Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định rõ ràng: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.”Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với sự lãnh đạo
tài tình của Đảng, với đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
tộc Việt Nam đã giành được độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thắng
lợi to lớn, căn bản, có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
I.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập đọc tại Vườn hoa Ba Đình sáng ngày mồng 2 tháng
9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với đồng bào cả nước và
với toàn thế giới: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra,
câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và xuất phát từ đoạn
mở đầu Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa lừng danh lOMoAR cPSD| 61409713
ấy mà trên các văn bản hành chính của nước ta hơn bảy mươi năm qua, đi liền với
quốc hiệu luôn là tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc
bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao; còn độc lập
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập hoàn toàn triệt để và có chủ quyền
thực sự về mọi lĩnh vực. Dân tộc của ta có quyền quyết định vận mệnh của chính
mình mà không phụ thuộc sự ràng buộc, phụ thuộc vào bất kỳ nước nào.
Bác đã hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Chính vì thế, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới chính là nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước. Chừng nào còn có kẻ đánh bạc cả triệu đôla, nhưng cả triệu người
dân còn thiếu thốn nhiều bề, chừng nào còn có cán bộ hách dịch, xếch mé với dân,
không làm tròn trách nhiệm là công bộc của dân, chừng nào người dân còn chịu oan
khuất, phải đi khiếu kiện kêu cầu công lý, chừng nào bộ máy hành chính còn hành
dân, thì chủng đó, tư tưởng Hồ Chí Minh còn chưa được quán triệt trở thành hành
động trong thực tế. " Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề
của hạnh phúc, tự do". Bác không bao giờ chấp nhận độc lập dân tộc dưới chế độ
quân chủ chuyên chế, càng không bao giờ chấp nhận chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế. Bởi vì đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về tinh thần và thể
xác, bị bịt miệng và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã Hội Pháp,
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất
nước chúng tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức, bóc lột một cách nhục nhã
mà còn bị hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một cách tàn ác. Đó chính là
một chế độ tàn bạo mà quân ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương Nhà tù nhiều hơn cả trường học
và lúc nào cũng ở trong trạng thái chật ních người. Với một nền " công lý" ở Đông Dương,
một sự phân biệt đối xử không có những bảo đảm về quyền con người như vậy, một
kiểu sống như vậy thì sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ
trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới.Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh lại hoàn toàn mới vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ
mới, một cấp mới. Người không chấp nhận độc lập dân tộc theo con đường phong
kiến, tư sản, độc lập kiểu Cách mạng Mỹ năm 1776 hay độc lập kiểu giả hiệu, bánh
vẽ. Người chọn kiểu độc lập dân tộc theo cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân
tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tựdo.
Tự do" không phải là giá trị bất biến, tự nó luôn thay đổi theo thời gian và theo bối
cảnh xã hội. "Tự do" của sáu mươi sáu năm trước hẳn sẽ khác với những giá trị của
tự do ngày hôm nay. Ngày nay, nhân dân chỉ có được tự do đích thực khi nào mà
quyền lực của nhà nước bị giới hạn bởi một bản hiến pháp dân chủ được phúc quyết
bởi toàn dân, trong đó xác định rõ những quyền cơ bản, cũng như xác định rõ việc
người dân có quyền được lựa chọn, quyền thay đổi Quốc hội, Chính phủ thông qua
cuộc bầu cử chân chính. Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải
được hưởng hạnh phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không phải
ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là
mong ước thẩm sâu nhất của cả dân tộc ta nói riêng và thế giới nói chung. Nhiều dân
tộc đã bước đi những bước rất dài để hướng tới thịnh vượng văn minh, trong khi đó lOMoAR cPSD| 61409713
cũng có nhiều dân tộc vẫn ngủ quên trong lạc hậu, đói nghèo do bảo thủ hoặc tự bằng lòng với tư duy cũ.
Hồ Chí Minh từng nói: “ Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Giữ vững độc lập, tự chủ
vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc
gia, dân tộc mình. Đó chính là kết tinh sự nghiệp đối ngoại của Hồ Chí Minh. Trong
tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh, muốn có được độc lập hoàn toàn thì phải đúng về
lập trường giai cấp vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin, và đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực sự, mang lại ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân.Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc
với chủ nghĩa phong kiến ( cuối thế kỷ XIX ) hoặc chủ nghĩa tư bản ( đầu thế kỷ XX
) con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
nêu ra chân lý mang tính thời đại “Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và
giảiphóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường vô sản.” Độc lập
dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Năm 1920, ngay khi quyết định phương
hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí
Minh đã có sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.Năm 1960, Người nói “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ.”
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ DO, HẠNH PHÚC
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.” Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc ”
mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng.
Trong Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chủ tịch nói rõ
“Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc (10/1/1946), Người lý giải: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình
đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,
niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân
được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản
thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất,
tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến
chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến. Điều đó trong chế độ dân
chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải
thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn lOMoAR cPSD| 61409713
diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành
quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.
3. MỐI QUAN HỆ KHĂNG KHÍT GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính những quyền làm người cao cả nhất theo Hiến
chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người, song những quyền
đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập. Vì những giá trị cao quý đó, suốt
chiều dài lịch sử, nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Việt Nam đã không quản
ngại hy sinh, gian khổ đấu tranh để giành lấy/giành lại.
6 chữ quý giá Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ghi dưới quốc hiệu nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hiện thân khát vọng của
toàn dân tộc; là sự hiện thực hóa tâm nguyện và ý chí "tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi
muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” của Hồ Chí Minh từ thập niên 1920; đồng
thời cũng là sự chắt lọc, vận dụng chất tinh túy trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ ham muốn tột bậc của Người là “làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm áo mặc, ai cũng được học hành”, Người nguyện cùng Đảng ta, nhân
dân ta cùng nhau thực hiện ham muốn tột cùng đó.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đầy gian nan và hy sinh,
những lần đổ máu để giành chiến thắng cho dân tộc ta; có thể kể đến chiến thắng
Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và thắng lợi
của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ (
1954-1975).Miền Nam đã được giải phóng tự do, hai miền Nam Bắc từ chia cắt giờ
đã “ sum họp”, cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những nỗ lực của Đảng cùng nhân dân Việt Nam ta trong đấu tranh giành độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc trải dài mấy thập niên cũng chính là cũng chính là đảm
bảo cho người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người, trong đó
có quyền được sống trong hoà bình, độc lập tự do và quyền tự quyết của dân tộc-
được quyết định chính vận mệnh, sự phát triển của mình. Có thể nói, trong thời đại
Hồ Chí Minh lịch sử, Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc đã không chỉ là khát vọng mà còn
là hệ giá trị vô giá và trở thành trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân kiên định thực hiện. Chính lý tưởng ấy, lẽ
sống ấy và niềm tin được sống Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc trong một nước Việt
Nam hòa bình, độc lập và thống nhất đã trở thành động lực để nhân dân ta nguyện
một lòng đi theo Ðảng, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục trong hành trình
đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
II. Ý NHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Chúng ta hãy luôn luôn giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền dân tộc. Bảo vệ nền
độc lập trước các thế lực ngoại xâm, thế lực thù địch. Trước diễn biến của tình hình
thế giới và trong nước, đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch, Đại hội XII
của Đảng khẳng định “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững nền độc lập, chủ lOMoAR cPSD| 61409713
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, yêu
cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu, trong đó khẳng định ý trí
quyết tâm “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh để giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng
liêng của Tổ quốc, không để đất nước bị động, bất ngờ, không để mất đất, mất đảo,
mất dân. Đảm bảo độc lập đi cùng hạnh phúc tự do cho nhân dân. Đồng thời ngày
càng hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Đảng ta đã đúc kết
thanh cơ chế, chính sách quản lý, điểu hành đất nước : Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Cớ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các
tổ chức chính trị-xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp
ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng như sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Chúng ta luôn chủ động phát hiện, ngăn
chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau
giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa các nước có thể chế chính trị - xã hội
khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các âm mưu chống phá
từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng cách xa về không gian và
sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu cấp thiết phải làm để có thể
chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu
quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập
quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài
lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao
túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín
dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng
xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các
mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các
ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.
Quan điểm trên ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng một nhà nước pháp
quyền dân chủ, nhân dân- do dân làm chủ, nhất là trong giai đoạn các thế lực thù địch
đang sử dụng những chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn
khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ, chống phá cách mạng nước ta. Văn kiện Đại hội
lần thứ IX của Đảng khẳng định : “ Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của nhân, do dân, vì dân.” Tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về
mối quan hệ về toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của
nhà nước. Xét về mặt chính trị-xã hội thì nhân dân là cội nguồnquyền lực nhà nước,
là chủ thể quản lý nhà nước. Quyền lực của nhà nước pháp quyền chính là quyền lực
do nhân dân làm chủ trạp cho nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý xã hội. Xét
về mặt quản lý, Nhà nước là một tổ chức công quyền thực thi quyền lực. Dựa vào hệ
thống pháp luật và bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá
trình xã hội theo ý chí, nguyện vọng của dân. Vì vậy giữa quyền lực nhà nước và
quyền làm chủ của nhân dân là thống nhất, không có sự đối lập về mục tiêu và lợi
ích Pháp luật là ý chí của nhân dân lao động, thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Những quyền tự do, dân chủ, nghĩa vụ của lOMoAR cPSD| 61409713
nhân dân được đưa lên thanh luật, và nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo
đảm và bảo vệ những quyền lợi, nghĩa vụ ấy của nhân dân. Như vậy việc xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thực hiện công việc quản lý đất nước bằng
pháp luật, đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đòi hỏi nhà nước phải tự đặt
mình dưới pháp luật, tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Đồng thời nâng cao dân
trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, quyền tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Những gì đất nước
ta đang làm ngày càng khẳng định luận điểm đúng đắn của Bác về vấn đề độc lập và
tự do hạnh phúc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công
của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dẫn tiếp tục hưởng úng, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ đẳng và người dân Việt Nam, đây đúng là
kim chỉ nam hành động cho mỗi các bộ nằm trong hàng ngũ đảng, cho mỗi cá nhân
thực hiện trách nhiệm phụng sự nhân dân. Đối với các bạn sinh viên như chúng ta,
có thể coi thanh niên là nguyên khí của quốc gia. Mọi người phải nhận thức được
rằng, nhiệm vụ của chúng ta rất nặng nề. Phải tự hào là mình có quyền tự do, mà
không phải ai cũng có được điều đó, phải thấy được công lao của người đi trước,
phải thấy được truyền thống, tổ chất của người Việt Nam... để tin tưởng và đi
tới.Không thể quên được bài phát biểu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa sâu xa mà cụ thể
của Bác tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc ngày
10/1/1946:“Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì
tự do, độc lập cũng không làm gì” Có thể nói, tư tưởng HCM về CNXH về con đường
quá độ lên CNXH ở VN thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp
đổi mới của chúng ta hiện nay, chúng ta cần phải học tập và phát huy tinh thần của Bác. Kết thúc
Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn hướng nhân dân ta đến những giá trị cao
đẹp, với luận điểm trên đã cho thấy mối quan hệ khăng khít của “ Độc lập”, “ Tự do”
và “ Hạnh phúc”. Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng cháy bỏng, đồng thời cũng
là quyền của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Trong dòng chảy lịch sử nhân loại và
xuyên suốt hàng ngàn năm dựng xây gắn liền với bảo vệ giang sơn gấm vóc Việt
Nam, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn là khát vọng, là nỗ lực phấn đấu, hy sinh của
biết bao thế hệ. Với Việt Nam, 75 năm qua từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến
nay, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn xuất hiện cùng quốc hiệu Việt Nam, khẳng
định giá trị lớn lao và ý nghĩa trường tồn của 6 chữ quý báu này; và Hạnh phúc hiện
đang được coi là một điểm nhấn trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của
Đảng.Muốn như vậy chúng ta cần phải giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, đồng thời
phấn đấu xây dựng một nhà nước Việt Nam XHCN là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
III.Tài liệu tham khảo
1. https://khotrithucso.com/doc/p/phan-tich-luan-diem-cua-ho-chi-minh-nuoc- doc-lap-ma-nguoi-1539601 lOMoAR cPSD| 61409713
2. https://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/doc-lap-tu-do-hanh-phuc-tu-khat-vong- den-hien-thuc-129940
3. https://123docz.net/document/8882410-phan-tich-luan-diem-sau-cua-ho-chi-
minh-nuoc-doc-lap-ma-nguoi-dan-khong-duoc-huong-hanh-phuc-tu-do-
thidoc-lap-cung-chang-co-nghia-ly-gi.htm
4. https://luatduonggia.vn/phan-tich-tu-tuong-ve-doc-lap-tu-do-cua-ho-chi- minh/
5. Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh