-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích lực lượng lao động Việt Nam theo giới tính - Luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội
Phân tích lực lượng lao động Việt Nam theo giới tính - Luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Luật kinh tế 51 tài liệu
Đại học Lao động - Xã hội 592 tài liệu
Phân tích lực lượng lao động Việt Nam theo giới tính - Luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội
Phân tích lực lượng lao động Việt Nam theo giới tính - Luật kinh tế | Trường đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật kinh tế 51 tài liệu
Trường: Đại học Lao động - Xã hội 592 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Lao động - Xã hội
Preview text:
Phân tích lực lượng lao động Việt Nam theo giới tính
1. Tham gia lực lượng lao động:
a. Nam giới: Nam giới thường chiếm tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao
động cao hơn so với nữ giới (Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của
nữ là 61,6%, thấp hơn 12,7 điểm phần trăm so với nam (74,3%). Điều
này có thể xuất phát từ nhiều yếu tố văn hóa, truyền thống và sự phân
chia lao động truyền thống trong xã hội.
b. Nữ giới: Sự tham gia của nữ giới vào lực lượng lao động ngày càng
tăng, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp, dịch vụ và giáo dục.
Tuy nhiên, nữ giới vẫn gặp một số khó khăn như sự kỳ thị, giới hạn
vai trò và thâm hụt về cơ hội nghề nghiệp so với nam giới.
2. Phân bố ngành nghề:
a. Nam giới: Việc làm của nam giới được phân bổ đồng đều hơn, với
mỗi lĩnh vực sử dụng gần 1/3 LLLĐ nam. Nam giới thường chiếm tỷ
lệ lớn hơn trong các ngành nghề liên quan đến lao động nặng, xây
dựng, nông nghiệp, công nghiệp, kỹ thuật, công nghệ thông tin và các
ngành nghề truyền thống.
b. Nữ giới: Nữ giới thường chiếm tỷ lệ cao hơn trong các ngành nghề
liên quan đến dịch vụ, giáo dục, y tế, ngành thương mại và các ngành
nghề có tính chất nhân văn, chăm sóc và quản lý, nông nghiệp chiếm
36,1% việc làm của nữ giới; dịch vụ (cả thị trường và phi thị trường
gộp lại) là ngành có tỷ trọng việc làm của nữ giới lớn nhất so với các ngành khác (36,8%)
Phụ nữ Việt Nam phải mang gánh nặng kép với số giờ làm việc tương
đương với nam giới và số giờ làm việc gia đình gấp đôi so với nam
giới. Công việc gia đình này bao gồm các hoạt động như: dọn dẹp nhà
cửa, giặt quần áo, nấu ăn và đi chợ, chăm sóc gia đình và con cái. Hơn
nữa, hầu hết phụ nữ đều dành một quỹ thời gian nhất định cho các hoạt
động này hàng tuần, trong khi tỷ trọng này ở nam giới là thấp hơn và
có đến gần 20% nam giới cho biết họ không hề dành bất kỳ chút thời
gian nào phụ giúp việc nhà. Trong số những người tham gia làm việc
nhà, phụ nữ dành trung bình 20,2 giờ một tuần và nam giới dành trung bình 10,7 giờ.
3. Mức lương và chênh lệch giới tính:
a. Chênh lệch lương: Trên thực tế, chênh lệch lương giữa nam và nữ vẫn
tồn tại trong một số ngành nghề ở Việt Nam. Nguyên tắc trả lương
bình đẳng cho công việc có giá trị như nhau là một khía cạnh quan
trọng của bình đẳng trong vấn đề việc làm, như chỉ tiêu SDG 8.5 đã
đề ra. Việt Nam cũng đã cam kết theo đuổi nguyên tắc này khi phê
chuẩn Công ước số 100 về trả lương bình đẳng. Tuy nhiên, thu nhập
bình quân của phụ nữ luôn thấp hơn nam giới. Mức thu nhập bình
quân của một lao động có việc làm năm 2019 là 5,6 triệu đồng; trong
đó, lao động nam là 6,5 triệu và lao động nữ là 4,6 triệu. Thu nhập
bình quân của lao động nữ tại khu vực nông thôn đặc biệt thấp, chỉ 3,7
triệu đồng.so với nam giới trong cùng một vị trí công việc.
b. Chính sách bình đẳng giới: Chính phủ và các tổ chức xã hội đã nỗ lực
để thúc đẩy bình đẳng giới và giảm thiểu chênh lệch lương giới tính.
4. LLLĐ có trình độ văn hóa
- Nguồn lao động dồi dào và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao nhưng
chỉ hơn 1/5 số lao động có việc làm đã được qua đào tạo (22,6% năm
2019), cứ 4 lao động nam có việc làm thì có 1 người đã qua đào tạo, ở nữ
giới thì cứ 5 lao động có việc làm thì 1 người đã qua đào tạo. Tỷ lệ này
đặc biệt thấp với lao động nữ thuộc khu vực nông thôn (chỉ đạt 12,3%
năm 2019). Vì vậy, nhằm thúc đẩy việc thực hiện được chỉ tiêu 2, mục
tiêu 2 của Chiến lược bình đẳng giới quốc gia đề ra “Giảm tỷ trọng lao
động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ
có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030”,
các nguồn lực dành cho đào tạo, dạy nghề vẫn cần được ưu tiên nhiều hơn
cho khu vực nông thôn, đặc biệt là nữ tại khu vực nông thôn. Nhận xét:
Có thể nói, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã kéo theo sự thay
đổi đáng kể trên thị trường lao động Việt Nam. Lao động nữ ngày càng tham gia
nhiều hơn và bình đẳng hơn trên TTLĐ, tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch giữa lao
động nam và nữ bởi nhiều yếu tố truyền thống trong xã hội mà người phụ nữ được
kỳ vọng phải đảm nhận. Vì vậy, rất cần sự vào cuộc của các nhà quản lý, lãnh đạo
nhằm tiến tới thu hẹp khoảng cách chênh lệch, tạo sự bình đẳng cho tất cả người lao động./.