-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN Liên hệ thực tiễn Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN Liên hệ thực tiễn Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TP L N MÔN CH NGHĨA XÃ H I KHO A H C
ĐỀ TÀI: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Họ và tên SV: Lang Thị Thủy Ngân Lớp tín chỉ: Mã SV: 11217279 GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
........................................................................ HÀ NỘI, NĂM 2020 lOMoAR cPSD| 45740413 Mục lục 2 lOMoAR cPSD| 45740413 A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, theo số liệu thống kê, trên thế giới nói chung có khoảng hơn 2000 dân
tộc và Việt Nam nói riêng cũng có đến 54 dân tộc cùng chung sống trên một khu vực lãnh
thổ. Vì vậy vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc luôn là chủ đề hết sức nhạy cảm
cũng như được quan tâm của tất cả các dân tộc và của các quốc gia trong thời đại ngày
nay. Ở Việt Nam, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc được Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi là vấn đề hết sức quan trọng trong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước,
với quan điểm: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân
tộc, nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu
đề cập, ở nhiều nội dung khác nhau trong thời gian qua. Các công trình nghiên được đề
cập trên đã chỉ rõ vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam với những nội dung sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã phân tích và trên cơ sở vận dụng đúng đắn
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam một cách sáng
tạo. Hai là, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết cách mạng, sáng tạo, học thuyết mở. Ba
là, những giá trị lý luận, thực tiễn của chủ nghĩa V.L.Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết
vấn đề dân tộc đối với cách mạng nước ta hiện nay là hết sức quan trọng. Trong thời kỳ
đẩy mạnh sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc giải
quyết “Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc” của V.L.Lênin vẫn còn nguyên giá
trị. Đây là vấn đề luôn có tính thời sự và cấp bách trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia dân tộc, góp phần đấu tranh chống lại mọi luận điệu sai trái, phản động, phủ nhận bản
chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa V.L.Lênin trong giai đoạn hiện nay.
Những xu hướng đa dạng trong sự phát triển của dân tộc như: đấu tranh dân tộc
hoặc liên kết giữa các dân tộc không chỉ ảnh hưởng đến nội bộ dân tộc đó mà còn có tầm
ảnh hưởng châu lục, thậm chí trên cả phạm vi thế giới. Trong bối cảnh thế giới đang có
một thay đổi trong xu hướng dân tộc, việc nghiên cứu về vấn đề này là hoàn toàn cấp thiết và kịp thời.
Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, với bất kì quốc gia nào,
việc giải quyết vấn đề dân tộc cũng đóng vai trò chủ đạo chi phối đáng kể vào nền hoạt lOMoAR cPSD| 45740413
động của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy mà mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi
đúng đắn cho các dân tộc anh em trong nước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước,
phù hợp với khu vực thế giới và thời đại.
Xuất phát từ những điều trên, em đã lựa chọn đề tài: “ Phân tích quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam ” để có thể tìm hiểu, làm rõ hơn về lý luận này cũng như tìm
hiểu sâu hơn vào sự vận dụng của sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay.
Bài tiểu luận được trình bày dựa trên những gợi ý của thầy, và được nghiên cứu
bằng phương pháp cơ bản như phương pháp kế thừa các tài liệu thứ cấp; phương pháp thu
thập tài liệu sơ cấp, thứ cấp; phương pháp phân tích tổng hợp. Do những hạn chế cả về
mặt kiến thức và mặt thời gian bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn! 4 lOMoAR cPSD| 45740413 B. PHẦN NỘI DUNG
Phần I: Dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của dân tộc theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin 1. Dân tộc 1.1. Khái niệm dân tộc
Loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc,…cho đến khi dân tộc xuất hiện. Cũng như nhiều hình thức cộng đồng khác, dân
tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người và đến nay khái
niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Nghĩa thứ nhất: Dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định hợp
thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung
và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và dữ nước.
Nghĩa thứ hai: Dân tộc – tộc người : là một cộng đồng người được hình thành lâu
dài trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn
ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù.
Như vậy, dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập
một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ,
truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân.
1.2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc
Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử, dựa
trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng
văn hóa. Dân tộc là sản phẩm của quá trình vận động phát triển của xã hội loài người từ
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Dân tộc có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ:
Ngôn, ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng
đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có thể dùng nhiều lOMoAR cPSD| 45740413
ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau. Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều
quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các thành viên của dân
tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện trước
hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân
tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ:
Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt, tập trung cư trú trên một vùng lãnh
thổ của một quốc gia hoặc hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em, là cơ sở sinh
tồn và phát triển của cộng đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng
trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc, thường được thể chế hóa
thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào
việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong những đăc trưng
quan trọng nhất của dân tộc . Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các
thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc cho cộng đồng dân tộc.
Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách,…
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng biểu hiện kết tinh
trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với
nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.
Những đặc trưng trên có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp
với nhau một cách chặt chẽ trong lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc. Trong
đó cộng đồng về kinh tế có vai trò quyết định đối với dân tộc. Các đặc trưng khác có vai
trò nhất định đối với quá trình hình thành, phát triển dân tộc.
2. Xu hướng phát triển khách quan của dân tộc
Xu hướng thứ nhất: Do sự thức tỉnh của ý thức dân tộc về quyền sống, các dân
tộc đấu tranh chống áp bức dân tộc để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng
này nổi nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. 6 lOMoAR cPSD| 45740413
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều trở
ngại. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi
chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, đô hộ các dân tộc
khác mới bị xoá bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới
có điều kiện để thể hiện đầy đủ. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
quá độ lên một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghị giữa người và người trên toàn thế giới.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
Phần II: Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc theo cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác – Lenin.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp;
kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; dựa vào kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Nga về việc giải quyết
vấn đề dân tộc trong những năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã khái quát vấn đề dân tộc
trong Cương lĩnh dân tộc.
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
“Bình đẳng” là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các
dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc lớn hay nhỏ không phân
biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về
kinh tế, chính trị, văn hóa và đi áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp
bức giai cấp, trên cơ sở đó mới xóa bỏ được tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Với V.I.Lenin, vấn đề lOMoAR cPSD| 45740413
dân tộc luôn được xem xét khi đặt nó trong tính trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
như là một bộ phận không thể tách rời của cuộc cách mạng đó. Ông nhấn mạnh rằng, vấn
đề dân tộc là vấn đề bộ phận phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, vấn đề cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Awngghen đã nói: “Hãy
xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc kia sẽ mất
theo”. Vì vậy, trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa do lịch sử
để lại có ý nghĩa cơ bản. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực
hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền các dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình, quyền quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của
dân tộc mình. V.I.Lenin trình bày trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết” như sau:
“Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại: Đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế
giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”. Quyền tự quyết bao gồm quyền
tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập ra một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng cùng với lợi ích để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững
độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
3. Liên hiệp công nhân các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ảnh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp: phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chấn chính.
Nó là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản
ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức
mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng 8 lOMoAR cPSD| 45740413
tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết,
quyền bình đẳng dân tộc. Đòng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân
các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc
các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ
xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự
thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành một sức mạnh vô
cùng to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi
các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
Phần III: Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Tư tưởng lý luận Mác – Lenin về vấn đề dân tộc được vận dụng vào nước ta thông
qua Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cổng sản Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo và phương
pháp luận cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác –
Leenin về vấn đề dân tộc nói riêng là kết hợp tinh thần kiên định với phát triển sáng tạo.
Người đến với chủ nghĩa Mác – Leenin bắt đầu từ đọc thấm nhuần nội dung cốt lõi trong
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lenin
Theo tinh thần đó, trong mỗi thời kì cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Thực trạng vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề dân tộc luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của mỗi
quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại. Nó ảnh
hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính trị ở quốc gia đó
nếu không được giải quyết đúng đắn.
Ở nước ta, tuy vấn đề dân tộc chưa đến mức độ bùng nổ như một số nước trên thế
giới; nhưng hiện nay ở một số vùng và một số dân tộc đã và đang có những vấn đề bất lOMoAR cPSD| 45740413
cập như: các dân tộc bị giảm lòng tin với Đảng và Nhà nước; khoảng cách giàu nghèo
quá lớn dễ gây xung đột, bùng nổ,…
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc có những đặc điểm sau:
- Có sự chênh lệnh dân số giữa các tộc người
- Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
- Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giải quyết vấn đề dân tộc
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã thực hiện nhất quán những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, luôn coi trọng vấn đề
dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt và coi việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy để đưa
đất nước quá độ lên chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân
tộc và giải quyết quan hệ dân tộc:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác
dân vận tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống chính trị - xã hội của đất
nước. Mối quan hệ gắn bó giữa Mặt trận và các đoàn thể với các tầng lớp nhân dân ngày
càng được củng cố, tăng cường, phát huy. Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận
động xã hội rộng lớn do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động ngày càng đi vào
cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tích cực. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc
vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở’’; “Toàn dân chung sức xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh’’; “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’; hoạt
động bảo vệ biên giới, chủ quyền, biển đảo, phòng chống thiên tai, bão lũ và đoàn kết
giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, lá
lành đùm lá rách, các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng thiết thực, tạo
nên sự gắn kết cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước. 10 lOMoAR cPSD| 45740413
Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
và giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đầu tháng 10/2020, các khu vực miền Trung nước ta đã phải hứng chịu những
trận mưa bão lớn, gây ra lũ lụt và sạt lở đất, làm ít nhất 174 người thiệt mạng và hàng
nghìn người phải sơ tán; hơn 7,7 triệu người sống ở 9 tỉnh bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Các
cơn bão cũng đã làm hư hại cơ sở hạ tầng quan trọng như: đường giao thông, hệ thống
điện khiến nhiều huyện, xã bị cô lập; chính quyền, người dân gặp nhiều khó khăn khi hỗ trợ.
Trong hoàn cảnh này, chúng ta mới thấy rõ ràng hơn bao giờ hết truyền thống quý
báu của dân tộc ta đó là tinh thần tương thân tương ái, chung sức, đồng lòng đoàn kết,
giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Từng giờ, từng phút, các phương tiện truyền thông liên
tục cập nhật những thông tin về mưa lũ cũng là thời gian người dân cả nước không thể
ngủ yên. Từng đoàn xe cứu trợ nối đuôi nhau từ khắp mọi miền Tổ quốc để hướng về
miền Trung. Những dòng trạng thái trên mạng xã hội xuất hiện, kêu gọi mọi người chung tay cứu trợ miền Trung.
Thứ ba, vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải được phát triển toàn diện cả về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng, an ninh như: Thực hiện tốt chính sách
dân tộc; xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; phát huy, lưu giữ văn hoá dân tộc…
Thứ tư, hệ thống chính trị ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cấp huyện và cơ sở
phải được xây dựng, củng cố và phát triển từng bước vững chắc; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ, trí thức
là người dân tộc thiểu số.
Hội nghị Trung ương bảy (khóa IX) về công tác dân tộc đã cụ thể nhiệm vụ: “Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc và miền núi; tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt
chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất”. Thông qua các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo; chương trình lOMoAR cPSD| 45740413
135, 134, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc, miền núi đã có bước chuyển biến rõ nét.
3. Những hạn chế và giải pháp cho việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt
vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện
kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc
giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập:
Thứ nhất, các tộc người thiểu số chưa đề cao tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, ý
thức làm chủ, tinh thần tự lực, tự cường, lòng khát khao vươn lên, khai thác tiềm năng để
tự làm chủ vận mệnh của mình, để đồng hành cùng cả nước phát triển mạnh mẽ, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, việc lãnh đạo và quản lý công tác nhân dân chưa được đề cao, tình trạng
nhận thức của các cấp, các ngành và của nhiều cán bộ, đảng viên về vấn đề dân tộc, chính
sách dân tộc, công tác dân tộc chưa sâu sắc, chưa toàn diện, một bộ phận cán bộ, đảng
viên vùng dân tộc còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
Và giải pháp để khắc phục những hạn chế đó là:
Một là, khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa các tộc người thiểu số
với cộng đồng dân tộc quốc gia. Đó là triết lý xây dựng và phát triển, là cốt lõi của lý luận dân tộc.
Hai là, khẳng định “Vai trò làm chủ thực sự” của các tộc người thiểu số trong một
quốc gia thống nhất trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trước hết là làm chủ
về kinh tế (bao gồm làm chủ sở hữu tư liệu sản xuất, quá trình sản xuất, phân phối sản
phẩm), làm chủ về xác định thành phần tộc người. Khẳng định vai trò làm chủ thực sự
của các tộc người thiểu số có nghĩa là không chấp nhận sự làm thay và sự ban phát. Quan
điểm này từ lâu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, được khẳng định trong Cương lĩnh
và Hiến pháp của nước ta.
Ba là, xác định “Mục tiêu phát triển” của các tộc người thiểu số nằm trong mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của cả dân tộc, với nội hàm là “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Đó là chủ thuyết phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời 12 lOMoAR cPSD| 45740413
đại Hồ Chí Minh và được vận dụng cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của các tộc người thiểu số ở nước ta.
Bốn là, “Động lực chủ yếu để phát triển” của các tộc người thiểu số là phát huy
sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, với nội hàm là xử lý hài hòa mối quan
hệ lợi ích, không có sự phân biệt đối xử trong các tộc người thiểu số, giữa tộc người thiểu
số và đa số, phòng ngừa và khắc phục xung đột tộc người, phê phán và loại trừ những tư
tưởng ảnh hưởng đến đại đoàn kết toàn dân tộc, như tư tưởng dân tộc lớn, phân biệt kỳ
thị, tự ti, thành kiến, ly khai...
Năm là, “Con đường phát triển” của các tộc người thiểu số là con đường phát
triển đa dạng, phong phú, không dập khuôn máy móc, áp đặt mà căn cứ vào điều kiện cụ
thể từng lúc, từng nơi mà lựa chọn mô hình phát triển phù hợp theo nguyên tắc chung là
“tôn trọng, tin cậy, khoan dung, bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển”.
Sáu là, quan điểm về xây dựng chính sách đối với tộc người thiểu số theo hướng
đa dạng hóa chính sách, không chỉ là sự vận dụng chính sách chung cho các tộc người
thiểu số. Các loại chính sách có thể bao gồm: Chính sách áp dụng chung cho các tộc người
đa số và thiểu số; chính sách áp dụng cho các tộc người trong toàn dân tộc nhưng có phần
vận dụng cho các tộc người thiểu số,…
Bảy là, mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người với văn hóa dân tộc
nói chung, thể hiện sự thống nhất trong đa dạng, hài hòa giữa cái chung và cái riêng. Mọi
tộc người thiểu số đều là người Việt Nam, nhưng vẫn giữ tên riêng của tộc người. Ngôn
ngữ phổ thông gọi là quốc ngữ, lấy tiếng Việt làm cơ sở. Mỗi tộc người có ngôn ngữ riêng của mình.
Tám là, xây dựng con người các tộc người thiểu số, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo nguồn lao động có chất lượng cao nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững
của các tộc người thiểu số.
Chín là, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, bảo đảm quyền bình đẳng
trong tiếp cận các nguồn lực phát triển, các dịch vụ xã hội đối với các tộc người thiểu số,
khắc phục dần những hủ tục lạc hậu, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng
diện bao phủ an sinh xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413
Mười là, đấu tranh phê phán mọi sự xuyên tạc, lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ
khối đoàn kết dân tộc và đấu tranh chống ảnh hưởng của các tư tưởng cực đoan về dân
tộc xâm nhập vào nước ta, như những biến tướng của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân
túy, chủ nghĩa ly khai, sự xuyên tạc quan hệ dân tộc với tôn giáo và vấn đề tộc người
xuyên biên giới..., nhằm bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. 14 lOMoAR cPSD| 45740413 C. KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc luôn là vấn đề được quan tâm và chú trọng tại tất cả các quốc gia,
Việt Nam cũng không phải một ngoại lệ. Là một đất nước nhỏ đang phát triển với 54 dân
tộc anh em cùng chung sống trên một khu vực lãnh thổ, nhiệm vụ giữ vững sự toàn vẹn
lãnh thổ, phát triển kinh tế, công nghệ, trật tự an ninh xã hội đồng thời đảm bảo sự đoàn
kết, bình đẳng và phát triển đồng đều của các dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước đặt
lên hàng đầu và coi là chính sách quan trọng mang tầm chiến lược của Đất nước.
Vấn đề dân tộc không chỉ ảnh hưởng toàn diện đến một quốc gia về mọi mặt kinh
tế, chính trị, xã hội, quân sự, mà còn ảnh hướng đến cả khu vực lân cận, châu lục và xu
hướng dân tộc của một số quốc gia khác dưới tác động của toàn cầu hóa hiện nay.
Là một sinh viên, với tư cách là một trong những hạt mầm tương lai của đất nước
chúng ta cần tự nhận thấy bản thân có vai trò, trách nhiệm góp phần xây dựng khối đoàn
kết của dân tộc ta trong vấn đề dân tộc, tôn giáo. Cần trang bị cho bản thân đủ kiến thức
về các vấn đề dân tộc, “hòa nhập nhưng không hòa tan”, tỉnh táo trước mọi âm mưu tuyên
truyền chủ nghĩa dân tộc tiêu cực, tin tưởng và nghiêm túc tuân theo các chính sách của
Đảng, Nhà nước và quan nhất là luôn mang trong mình niềm tự hào dân tôc, sẵn sàng bảo
vệ dân tộc dưới mọi hình thức, phù hợp từng thời kỳ và hoàn cảnh cụ thể D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội và khoa học 2. Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghiencu/-/2018/495538/ve-dinh-
huong-va-giai-phap-gop-phan-hoan-thien-ly-luan-ve-dantoc-o-nuoc- ta%E2%80%89%28*%29.aspx 3. lOMoAR cPSD| 45740413 16