Phân tích quan điểm của PH. Ăngghen về nữ quyền và vấn đề giải phóng phụ nữ trong tác phẩm nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước; liên hề chính sách bảo vệ quyền lợi phụ nữ của pháp luật Việt Nam hiện nay
Phụ nữ chiếm một nửa dân số và thị trường lao động trên thế giới. Do đó mà vai trò của phụ nữ ngày nay là vô cùng to lớn. Không chỉ đóng góp vào công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp chăm lo cho gia đình và nuôi dưỡng nên những thế hệ mai sau có ích cho xã hội. Tuy nhiên, đối với các vùng lãnh thổ, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA PH. ĂNGGHEN VỀ
NỮ QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ
TRONG TÁC PHẨM NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH,
CHẾ ĐỘ TƢ HỮU VÀ NHÀ NƢỚC;
LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH BẢO VỆ QUYỀN LỢI
PHỤ NỮ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT120405_17
GVHD: TS. Đặng Thị Minh Tuấn
NHÓM THỰC HIỆN: NHỮNG BÔNG HOA NHỎ
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2021 - 2022
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12/NĂM 2021
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài: 1. Huỳnh Thanh Bân - 20158141
2. Trần Thanh Hậu - 19158113
3. Võ Phƣơng Trà My - 19158132 4. Bùi Thanh Sang - 20135060
5. Trần Nguyễn Anh Thy - 19116223 ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ......................................................................... 2
3. Phƣơng pháp thực hiện đề tài ............................................................................. 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA PH. ĂNGGHEN VỀ NỮ QUYỀN VÀ
VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ TRONG TÁC PHẨM NGUỒN GỐC
GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƢ HỮU VÀ NHÀ NƢỚC ................................................ 3
1.1. Sơ lƣợc về tác phẩm Nguồn gốc gia đình, chế độ tƣ hữu và Nhà nƣớc ....... 3
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm ................................................................. 3
1.1.2. Kết cấu và nội dung của tác phẩm ............................................................ 4
1.2. Quan điểm của Ph. Ăngghen về nữ quyền ...................................................... 7
1.3. Quan điểm của Ph. Ăngghen về vấn đề giải phóng phụ nữ ........................ 11
CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH BẢO VỆ QUYỀN LỢI P Ụ H NỮ CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................... .14
2.1. Thực trạng vấn đề nữ quyền hiện nay ở Việt Nam ...................................... 14
2.2. Quyền bình đẳng giới ...................................................................................... 15
2.3. Quyền đƣợc pháp luật bảo hộ tính mạng, thân thể, bí mật đời tƣ, danh dự
uy tín ........................................................................................................................ 17
2.4. Quyền tự do kết hôn, chế độ hôn nhân gia đình .......................................... 18
2.5. Quyền lao động, bảo hiểm xã hội ................................................................... 18
2.6. Quyền bảo vệ phụ nữ trong luật hình sự ...................................................... 19
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 20
KẾ HOẠCH CHUNG Gồm 3 giai đoạn Giai đoạn 1
Xác định đề tài và tìm kiếm tài liệu tham khảo Giai đoạn 2
Triển khai làm đề tài về nội dung Giai đoạn 3
Hoàn thiện về hình thức trình bày trên file word
KẾ HOẠCH CHO TỪNG THÀNH VIÊN Tuần Tuần 7, 8 Tuần 9, 10 Tuần 11, 12 13, 14, 15, 16 Tìm tài liệu Hoàn chỉnh Huỳnh Thanh Bân Soạn nội dung tham khảo nội dung Viết đề Tổng hợp và Viết phần Trần Thanh Hậu cương chi lọc tài liệu kết luận tiết tham khảo Tìm tài liệu Hoàn chỉnh Võ Phương Trà My Soạn nội dung tham khảo nội dung Tìm tài liệu Hoàn chỉnh Bùi Thanh Sang Soạn nội dung tham khảo nội dung Hoàn thiện và
Viết mở đầu Chỉnh sửa đề Chỉnh sửa đề Trần Nguyễn Anh Thy chỉnh sửa sai só
bài tiểu luận cương chi tiết cương chi tiết bài tiểu luận
KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM Nhóm những bông hoa nhỏ Lớp: LLCT120405_21_1_17 Ngày: 12/12/2021 THANG ĐIỂM NHÓM STT NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ ĐIỂM
TỰ ĐÁNH GIÁ Lập 2 bản kế hoạch:
Kế hoạch phân công cho các thà
viên trong nhóm để thực hiện toàn bộ
bài tập. Kế hoạch có nội dung côn 1 2đ 2đ
việc, phân công, thời gian hoàn thàn (1đ)
Kế hoạch thực hiện dự án (thể hiện
được tiến độ thực hiện). (1đ) Kết quả
Có bản đề cương chi tiết. (1.5đ) 2 3đ 3đ
Có bản tóm tắt nội dung bài tiểu luận (1.5đ)
Có minh chứng kết quả lấy ý kiến phản biệ 3 2đ 2đ
của 5 nhóm sinh viên trong lớp. 4
Nộp đề cương đúng hạn. 1đ 1đ
Có thể hiện rõ vai trò của từng thành viê 5 2đ 2đ
trong toàn bộ hoạt động của nhóm. 6
Nộp bài không đúng hạn. -3đ 0 Tổn g 10đ 10 Mức độ
Về kết quả của
Về giao tiếp và hoàn thành Họ và tên
Về hợp tác công việc/xử lý
sự chủ động công việc công việc
trong công việc (thang điểm 5) Huỳnh Thanh Bân Tốt Tốt Tốt 5 Trần Thanh Hậu Tốt Tốt Tốt 5 Võ Phương Trà My Tốt Tốt Tốt 5 Bùi Thanh Sang Tốt Tốt Tốt 5 Trần Nguyễn Anh Thy Tốt Tốt Tốt 5 Ghi chú:
Nhóm tự nhận chung về kỹ năng thể hiện trong quá trình thực hiện bài tập:
thông qua quá trình thực hiện tiểu luận thì nhóm em đã học hỏi và nâng cao được
kỹ năng làm việc nhóm, xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, tìm kiếm thông tin, xử
lý tài liệu, phát triển thêm ký năng thuyết trình và giao tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ bài tiểu luận: tìm hiểu kỹ vấn đề cần giải quyết, tìm
kiếm thông tin có nguồn gốc chính thống rõ ràng, trình bày tiểu luận rõ ràng, hợp lý, logic.
MINH CHỨNG PHẢN BIỆN
Ý kiến của nhóm Coconut
Ý kiến của nhóm Tụi Tui Nè
Ý kiến của nhóm 3 Chàng 2 Cô
Ý kiến của nhóm K20
Ý kiến của nhóm COMBATANT 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phụ nữ chiếm một nửa dân số và thị trường lao động trên thế giới. Do đó mà
vai trò của phụ nữ ngày nay là vô cùng to lớn. Không chỉ đóng góp vào công cuộc
xây dựng, đổi mới, phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp chăm lo cho gia đình và
nuôi dưỡng nên những th ế hệ mai sau có ích cho xã hội. Tuy nhiên, đối với các
vùng lãnh thổ, quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến như Ấn
Độ, tại đây phụ nữ vẫn còn phải chịu khinh thường, bị đối xử cay nghiệt và bất
công. Họ không có tiếng nói dẫn đến không ít những trường hợp họ bị đánh đập,
cưỡng hiếp và bị coi như nô lệ. Không những vậy mà nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam, đang phải đối mặt với vấn đề về dân số, đó là sự chênh lệch giới tính.
Nguyên nhân là do người dân tại các nước này ai cũng đều có tư tưởng “trọng nam
khinh nữ”. Người ta cho rằng sinh con gái sẽ không làm được việc lớn, không được
xã hội công nhận và bảo vệ, nên tư tưởng trọng nam khinh nữ ngày càng nghiêm
trọng, sự chênh lệch về giới tính ngày càng diễn ra phức tạp hơn, dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng như: tệ nạn xã hội, tỉ lệ sinh con giảm mạnh, thiếu nguồn lao động…
Vì vậy ta cần tìm hiểu về nữ quyền để có thể lên tiếng đòi lại công bằng cho phụ
nữ, giải phóng phụ nữ khỏi những áp bức, bóc lột, chì chiết của những người mang
tư tưởng phong kiến. Và một trong những tác phẩm có thể lột tả một cách chân
thực nhất về những vấn đề đó chính là Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và
Nhà nước được xuất bản năm 1884 bởi Ph. Ăngghen. Hiểu được vấn đề cấp thiết
trên nhóm em đã chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của Ph. Ăngghen về nữ
quyền và vấn đề giải phóng phụ nữ trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình,
chế độ tƣ hữu và Nhà nƣớc; liên hệ chính sách bảo vệ quyền lợi phụ nữ của
pháp luật Việt Nam hiện nay”, làm đề tài tiểu luận cuối kỳ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu và phân tích quan điểm của Ph. Ăngghen về
nữ quyền và vấn đề giải phóng phụ nữ trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, chế
độ tư hữu và Nhà nước, liên hệ với chính sách bảo vệ quyền lợi phụ nữ của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích những quan điểm của Ph. Ăngghen về nữ quyền và vấn đề giải
phóng phụ nữ trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước.
- Khái quát bối cảnh hiện nay ở Việt Nam và liên hệ chính sách bảo vệ phụ
nữ của pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Phƣơng pháp thực hiện đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Cùng với đó là sự vận dụng và kết hợp các
phương pháp khác như: khái quát hóa, trừu tượng hóa, lịch sử và logic, phân tích và
tổng hợp… để làm sáng tỏ vấn đề. 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA PH. ĂNGGHEN VỀ NỮ QUYỀN VÀ
VẤN ĐỀ G Ả
I I PHÓNG PHỤ NỮ TRONG TÁC PHẨM N GUỒN GỐC
GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƢ HỮU VÀ NHÀ NƢỚC
1.1. Sơ lƣợc về tác phẩm Nguồn gốc gia đình, chế độ tƣ hữu và Nhà nƣớc
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Vào những năm của giữa thế kỷ 19, khi mà chưa có đủ điều kiện để giải
thích được giai đoạn tiền sử của thời đại văn minh thì nhà Bác học Mỹ L. H.
Moócgan đã viết tác phẩm "Xã hội thời cổ hay các cuộc khảo cứu những con
đường tiến bộ của loài người từ thời đại mông muội qua thời đại dã man đến thời
đại văn minh". Tác phẩm này làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử trước khi loài
người bước vào thời đại văn minh - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Công lao vĩ đại của Moóc gan là đã phát hiện và khôi phục lại những nét chủ
yếu của cái cơ sở tiền sử đó của lịch sử. Ông đã tìm thấy chiếc chìa khóa để mở
những điều bí ẩn hết sức quan trọng của lịch sử Hy Lạp, La Mã và Đức cổ đại.
Trong gần 40 năm ông nghiên cứu các tư liệu của mình và viết xong tác phẩm.
Năm 1884 sau khi C. Mác mất được 1 năm, Ph. Ăngghen tìm thấy bản thảo viết tay
của Mác: "Tóm tắt tác phẩm của L. Moócgan". Mác có dự định viết một tác phẩm
giải thích giai đoạn dã man này nhưng chưa kịp viết vì vậy Ph.Ăngghen đã quyết
định sử dụng các nhận xét và phê phán của C. Mác về tác phẩm của Moócgan và
các tư liệu của mình để viết tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước" nhằm chứng minh sự đúng đắn của quan điểm duy vật lịch sử của
Mác. Đồng thời vạch trần quan điểm sai trái của giai cấp tư sản cho rằng chế độ gia
đình từ xưa đến nay là gia đình phục quyền và họ t ầ
h n thánh hóa gia đình kiểu tư
sản xem đó là kiểu gia đình mẫu mực. Tác phẩm được Ăngghen viết từ cuối tháng
3 năm 1884 và xong vào hết tháng 5 năm 1884 trong vòng 2 tháng. Tác phẩm được
xuất bản vào đầu tháng 10 năm 1884 tại Xuy rích nước Đức. 4
Chủ đề tư tưởng xuyên suốt của tác phẩm là làm rõ quá trình phát triển của
xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thủy tới chế độ văn minh. Khẳng định
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử là trình độ phát triển của sản xuất, của vận
động, trình độ chinh phục làm chủ thiên nhiên của con người là nguồn gốc, là nhân
tố quy định sự phát triển của con người, của xã hội loài người. Vạch ra quy luật tất
yếu của sự phát triển sản xuất, của kinh tế sẽ đưa loài người tiến tới xã hội cộng sản
văn minh mà ở đó chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp và Nhà nước không còn tồn tại nữa.
1.1.2. Kết cấu và nội dung của tác phẩm
Tác phẩm gồm có 2 lời tựa: lời tựa cho lần xuất bản thứ nhất vào đầu tháng
10 năm 1884 và được in ở Xuy rích (Đức); lời tựa cho lần xuất bản thứ 4 năm 1891
và 9 chương. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ n ấ h t, Ăngghen nêu rõ mục
đích viết tác phẩm là nhằm hoàn thành nhiệm vụ của Mác để lại, dùng công trình
của Moócgan để chứng minh quan điểm duy vật lịch sử của hai ông. Ăngghen
khẳng định công lao của Moócgan đối với khoa học, là tìm ra: "Chìa khóa để mở
những điều bí ẩn hết sức quan trọng cho đến nay vẫn chưa giải đáp được của lịch
sử Hy Lạp, La Mã và Đức cổ đại". Mặt khác, Ăngghen phê phán thái độ không
đúng đắn của các nhà khoa học đương thời vừa sử dụng kết quả khoa học, vừa dìm
công lao, thành tích khoa học của Moóc gan. Trong lời tựa thứ hai viết cho lần xuất
bản thứ 4 năm 1891, do trong tình hình mới đã xuất hiện những công trình nghiên
cứu các hình thức nguyên thủy của gia đình đã đạt được những thành tựu mới nên
Ăngghen đã giới thiệu kỹ hơn những công trình này nhất là về lịch sử phát triển của
gia đình của Bacophen, Maclenna song Ăngghen vẫn khẳng định công lao đều
thuộc Moócgan. Trong lời tựa này, Ăngghen đã làm rõ những điểm mà ông tán
thành, những điểm mà ông chưa đồng ý, những điểm mà ông phê phán Moócgan
do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan của xã hội đương thời. 5
Chương 1: Những giai đoạn văn hóa tiền sử Ăngghen viết về lịch sử loài
người phát triển qua các giai đoạn từ thấp đến cao từ thời đại mông muội, thời đại
dã man đến thời đại văn minh và sự phát triển ấy nó luôn gắn liền với sự phát triển
của trình độ lao động sản xuất. Ăngghen đã giới thiệu sự sắp xếp thời kỳ tiền sử
của loài người theo hệ thống của Moócgan, qua đó nó đã vẽ nên một bức tranh toàn
cảnh của xã hội loài người đồng thời chỉ ra những hạn chế của Moócgan trong cách
phân kỳ này. Chỉ ra nguồn gốc phát triển của xã hội loài người là do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, của lao động, đây là nhân tố quyết định nhất.
Chương 2: Gia đình. Ăngghen viết về quá trình hình thành và phát triển của
gia đình trong lịch sử. Trong chương này, Ăngghen đã làm rõ thời kỳ thơ ấu của
loài người, giải thích một thời kỳ lịch sử mà trước đó chưa lý giải được thông qua
nghiên cứu lịch sử phát triển của các hình thức gia đình theo công trình nghiên cứu
của Moócgan từ gia đình huyết tộc, gia đình Ru-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia đình
một vợ một chồng. Trong đó gia đình huyết tộc đó là giai đoạn đầu của gia đình ở
đây các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế hệ: trong phạm vi gia đình tất cả ông
và bà đều là vợ chồng với nhau, các con họ cũng đều là vợ chồng với nhau, các con
của những người này cũng hợp thành một nhóm vợ chồng chung thứ ba... Gia đình
Ru-na-lu-an đây là bước tiến thứ hai của sự phát triển gia đình. Ở gia đình này đã
hủy bỏ quan hệ tình dục giữa anh em trai và chị em gái cùng một mẹ đẻ ra và sau là
cấm những cuộc hôn nhân gồm những anh em trai và chị em gái trong các bàng hệ.
Gia đình cặp đôi, một loại hình thức kết hôn từng cặp đã tồn tại trong một thời gian
hoặc ngắn hoặc dài dưới chế độ quần hôn và sau cùng là gia đình một vợ một
chồng nó được nảy sinh từ gia đình cặp đôi, nó là một trong những dấu hiệu của
buổi đầu của thời đại văn minh. Gia đình ấy dựa trên quyền thống trị của người
chồng, những đứa con sinh ra có cha đẻ rõ ràng và nó được thừa hưởng tài sản của
cha với tư cách là người kế thừa trực tiếp. 6
Chương 3: Thị tộc Iroqua. Ăngghen viết về thị tộc điển hình sống ở châu Mỹ
theo lối sống cổ đại.
Chương 4: Thị tộc Hy Lạp mà chế độ mẫu quyền đã nhường chỗ cho chế độ phụ quyền.
Trong hai chương 3 và chương 4, Ăngghen đã mô tả tổ chức xã hội trước khi
có nhà nước, mô tả sự ra đời, nguồn gốc của chế độ sở hữu tư nhân và của giai cấp
nhân tố làm tan rã chế độ thị tộc. Từ những phân tích về quá trình phát triển kinh tế
- xã hội do sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và giai
cấp, Ăngghen đi tới khẳng định nhà nước nhất định phải xuất hiện như một tất yếu
lịch sử, như một quá trình tự nhiên và vạch rõ bản chất giai cấp của nhà nước.
Khẳng định nhà nước là một hình thức của giai cấp thống trị, bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
Chương 5: Sự ra đời của nhà nước A-ten và chương 6: Thị tộc và nhà nước ở
La Mã, Ăngghen đã phân tích về mặt lịch sử những biến đổi về xã hội trong xã hội
thị tộc dẫn tới sự hình thành và phát triển của nhà nước A - ten và Nhà nước La
Mã, phân tích hai phương thức hình thành nhà nước khác nhau. Nhà nước A - ten
nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp ngay trong nội bộ xã hội
thị tộc, một hình thức ra đời nhà nước thuần túy nhất, cổ điển nhất thì Nhà nước La
Mã là kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa những người bình dân sống ngoài thị
tộc La Mã với những người quý tộc La Mã. Tuy có sự khác nhau về phương thức
hình thành nhà nước song Ăngghen vạch rõ nguyên nhân chính làm cho xã hội
nguyên thủy sụp đổ chính là sự xuất hiện và phát triển những mâu thuẫn về kinh tế - xã hội.
Chương 7: Thị tộc của người Kentơ và người Giec - manh.
Chương 8: Sự hình thành nhà nước của người Giec - manh, Ăngghen giới
thiệu đây là sự ra đời của nhà nước trong trường hợp đặc biệt, không phải là kết
quả trực tiếp của những biến đổi kinh tế - xã hội mà là kết quả của hành động bạo 7
lực. Song suy cho cùng thì sự xuất hiện nhà nước này vẫn xuất hiện từ nguồn gốc
sâu xa, tất yếu từ sự biến đổi của kinh tế xã hội.
Chương 9: Thời đại dã man và thời đại văn minh. Ăngghen tổng hợp lại và
chỉ rõ quá trình phát triển của loài người từ thời đại dã man sang thời đại văn minh
trên cơ sở phát triển của sản xuất, của sự phát triển kinh tế - xã hội và Ăngghen
cũng chỉ ra những đặc trưng của thời đại văn minh và khẳng định tính tất yếu trong
sự phát triển của lịch sử là ở chỗ xã hội hiện đại phải được thay thế bằng chế độ
mới mà ở đó không còn chế độ tư hữu, không còn giai cấp và nhà nước sẽ tự tiêu
vong và mọi người sống trong bình đẳng - tự do và hạnh phúc thực sự.
1.2. Quan điểm của Ph. Ăngghen về nữ quyền
Luận điểm mà Ph. Ăngghen đưa ra
Ph. Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước” đã viết: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ, đó là sự t ấ
h t bại lịch sử có tính
chất toàn thế giới của phụ nữ. Ngay cả ở trong nhà, người đàn ông cũng nắm quyền
cai quản, còn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch…”. Và Ph. Ăngghen cũng đã
giải thích thêm: “Sự đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là trùng với sự
phát triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ trong hôn nhân cá thể, và sự áp bức
giai cấp đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà.
Các quan điểm của Ph. Ăngghen về người phụ nữ trong gia đình
Ph. Ăng ghen và Moócgan có chung quan điểm rằng, kiểu hình gia đình một
vợ một chồng gia trưởng truyền thống không phải là tự nhiên và bất biến. Ngược
lại, nó chỉ là một kiểu hình gia đình được hình thành gần đây trong lịch sử xã hội
loài người nhằm duy trì và củng cố các xã hội tư hữu, bao gồm cả xã hội tư bản chủ
nghĩa. Ông cho rằng trong thực tế, phải mất một thời gian dài để xã hội loài người
phát triển tới kiểu hình gia đình một vợ một chồng này. Nhưng nó cũng chỉ là một
trong số các giai đoạn phát triển và không ai có thể chắc chắn rằng đây sẽ là kiểu
hình cuối cùng. Ăngghen cũng nhấn mạnh rằng ngay từ khi bắt đầu xuất hiện, gia 8
đình một vợ một chồng đã chỉ là “một vợ một chồng đối với người đàn bà mà thôi,
chứ không phải đối với đàn ông. Và cho đến nay, chế độ một vợ một chồng vẫn còn giữ tính chất ấy.
Từ các kết quả nghiên cứu của Moócgan, Ăngghen đã đưa ra giả thuyết về sự
áp bức đối với phụ nữ sẽ tăng lên cùng với sự phát triển của tư hữu tư bản và xã hội
giai cấp. Ông mặc định về một sự phân công lao động giữa nam và nữ trong các xã
hội săn bắn - hái lượm. Nam giới nhận trách nhiệm tham gia chiến trận, săn bắn, và
sau này là thuần hóa động vật, trong khi phụ nữ đảm trách việc tìm kiếm thức ăn
(trong xã hội săn bắn - hái lượm), trồng trọt, trông nom nhà cửa, nấu nướng, và
may vá. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, công việc của phụ nữ có vị trí đặc biệt
quan trọng liên quan đến sự tồn tại của cả thị tộc vì phụ nữ không chỉ làm ra nhiều
thức ăn hơn nam giới mà trong nhiều trường hợp, họ còn cung cấp hầu hết t ứ h c ăn
cho cả thị tộc Ăngghen cho rằng phụ nữ, với khả năng cung cấp và duy trì sự sinh
tồn của thị tộc thông qua hoạt động lao động sản xuất và tái sinh sản, có ưu thế hơn
nam giới trong các xã hội này. Ông tin rằng đây là đặc điểm chính của xã hội
nguyên thủy, và do đó những xã hội này hầu hết đều tuân theo chế độ mẫu quyền.
Dòng giống chỉ có thể được truy nguyên qua người mẹ, và “vì vậy, chỉ có nữ hệ là được thừa nhận”.
Tuy nhiên, Ăng ghen tin rằng xã hội loài người đã thay đổi cùng với sự ra
đời và phát triển của “chăn nuôi gia súc, nghề đúc và rèn kim loại, dệt, và sau cùng
là nông nghiệp”. Trong xã hội sản xuất nông nghiệp, nam giới thường đảm nhận
những công việc nặng, ví dụ như cày cấy và thuần hóa gia súc. Trong khi đó, vai
trò tái sinh sản của phụ nữ cũng đã thay đổi khi mà sản xuất nông nghiệp đòi hỏi số
lượng lớn lao động để trồng trọt và chăn nuôi gia súc. Do đó, nhiệm vụ sinh sản
của phụ nữ đã được tối ưu hóa và họ được khuyến khích sinh đẻ càng nhiều càng
tốt. Những thay đổi này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc phân công
lao động giữa hai giới. Nam giới bắt đầu gia tăng vai trò đặc thù của họ trong việc 9
lao động sản xuất ở ngoài gia đình, trong khi phụ nữ bị giữ chân nhiều hơn ở nhà
để tập trung vào vai trò tái sinh sản. Khi đó, ngôi nhà dần trở thành nơi dành riêng
cho việc tái sản xuất sức lao động. Theo Sharon Smith, một học giả và là nhà hoạt
động xã hội người Mỹ, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, khả năng sinh đẻ của
người phụ nữ đã ngăn cản họ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.
Theo thời gian, lượng của cải mà nam giới làm ra dần dần nhiều hơn và tỏ ra vượt
trội so với lượng của cải mà phụ nữ sản xuất được. Điều này dẫn đến việc thay đổi
vị thế của nam giới và phụ nữ không chỉ trong gia đình mà còn trên phạm vi toàn
xã hội. Với tư cách là những người trực tiếp làm ra và nắm giữ của cải, nam giới
giờ đã có vị thế và uy quyền lớn hơn phụ nữ.
Khi mà của cải được làm ra ngày càng nhiều và được cất giữ trong mỗi gia
đình, vấn đề cốt lõi bây giờ là cá nhân nào sẽ có quyền nắm giữ chúng và chúng sẽ
được truyền lại cho thế hệ sau như thế nào. Trong trường hợp một cặp vợ chồng
chia tay, người phụ nữ sẽ giữ lại cho mình những đồ đạc trong nhà, và người nam
giới sẽ mang theo mình các công cụ lao động (ví dụ như gia súc, nô lệ…). Theo
Ăngghen, điều này sẽ dẫn đến việc người đàn ông mong muốn được truyền lại
những tài sản mà họ tích lũy được cho con của chính họ. Gia đình mẫu hệ với
quyền lực tập trung trong tay người phụ nữ, đến lúc này lại là một trở lực chính
ngăn cản những đứa con nhận quyền thừa kế từ cha của mình. Hơn thế nữa, nếu
như quan hệ tình dục trong xã hội vẫn là tĩnh giao hỗn tạp thì sẽ rất khó cho người
cha có thể xác định chính xác đâu là con của mình. Trước những thực tế này, “cần
phải xóa bỏ chế độ huyết tộc theo mẫu quyền đi đã, và chế độ đó đã bị xóa bỏ”.
Ăngghen cho rằng chính trong bối cảnh này, gia đình phụ quyền gia trưởng bắt đầu được hình thành.
Kết luận
Tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước đã vấp phải
một số sự chỉ trích (đặc biệt là từ các nhà nữ quyền phương Tây) về những thiếu sót 10
và một vài điểm không chính xác của nó. Thứ nhất, Moócgan và Ăngghen có vẻ
như đã hơi cường điệu hoặc có sự nhầm lẫn khi tổng kết rằng tất cả các xã hội
nguyên thủy đều là xã hội mẫu hệ. Có các bằng chứng chứng minh rằng chế độ
mẫu quyền đã từng tương đối phổ biến trong thời kỳ đó (xem Douglas, 1964),
nhưng rất nhiều (nếu không muốn nói là hầu hết) các xã hội tiền tư bản đều là xã
hội phụ hệ. Có vô vàn những bằng chứng của sự thống trị của nam giới trong các
xã hội tiền tư bản (xem Reiter, 1975; Jacobs, 2010). Hơn nữa, Ăngghen đã không
thể lý giải được một cách xác đáng bằng cách nào mà chế độ mẫu quyền và các xã
hội mẫu hệ lại chuyển sang chế độ phụ quyền và các xã hội gia trưởng (Smith,
1997). Nếu điều này diễn ra là do mối quan hệ tự nhiên giữa người cha và con của
mình, thì sự xuất hiện của gia đình một vợ một chồng cũng mang tính chất tự nhiên
chứ không phải tính chất xã hội như Ăngghen vẫn quan niệm (Weikart, 1994).
Ngoài ra, một số nhà hoạt động nữ quyền phê phán Ăngghen vì đã quá quan
tâm đến sản xuất kinh tế và chủ nghĩa tư bản mà coi nhẹ các yếu tố liên quan đến
gia đình và phụ nữ. Nhà xã hội học người Anh D. Chambers cho rằng khi mà
Ăngghen khẳng định việc giải phóng phụ nữ chỉ có thể xảy ra sau khi đã giải phóng
nền kinh tế thì ông đã “xếp hành vi tái sản xuất sức lao động xuống dưới hành vi
sản xuất”. Ăngghen cũng bị chỉ trích vì đã không để tâm đến tầm quan trọng của
các công việc nội trợ, tình nguyện, cũng như việc chăm sóc người già và trẻ nhỏ
(Adams và Sydie, 2001). Cuối cùng, khi phân tích gốc rễ của sự áp bức của phụ nữ
trong gia đình một vợ một chồng, Ăngghen đã không tính đến bất kỳ yếu tố nào
khác ngoài chế độ tư hữu. Trong thực tế, có rất nhiều yếu tố khác đã tồn tại từ rất
lâu trong lịch sử có thể kể đến như văn hóa, truyền thống, hoặc tôn giáo đã tác
động, hình thành và duy trì sự lệ thuộc của phụ nữ vào nam giới. Do đó, nếu chỉ tập
trung xóa bỏ chế độ tư hữu mà không đề cập đến các vấn đề văn hóa, tôn giáo và ý
thức hệ thì khó có thể giải phóng người phụ nữ một cách hoàn toàn. “Sự đánh đổ
chức năng kinh tế của gia đình sẽ không tự động dẫn tới việc thiết lập chủ nghĩa xã 11
hội, nhưng đó nên được coi là một trong những mục tiêu trọng tâm cần phải đấu
tranh trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản”.
1.3. Quan điểm của Ph. Ăngghen về vấn đề giải phóng phụ nữ
Vai trò của phụ nữ trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Trong gia đình một vợ một chồng, vị thế của nam giới và nữ giới bị thay đổi
hoàn toàn. Người đàn ông nắm lấy quyền cai quản, còn người đàn bà thì bị mất cái
vị trí vinh dự của họ, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ để giải trí cho đàn ông, thành
một công cụ sinh đẻ đơn thuần. Người chồng - người cha là ông chủ của toàn bộ
các thành viên trong gia đình còn người vợ - người mẹ trở thành đối tượng bị bóc lột.
Quan điểm của Ph. Ăngghen về sự cần thiết phải giải phóng phụ nữ
Ph. Ăngghen nhận thấy rằng sự hình thành và tồn tại của gia đình một vợ
một chồng không phải là căn nguyên mà chính là hệ quả của một xã hội phân chia
tầng. Cái được gọi là chế độ một vợ một chồng đã cung cấp những cách thức mà
thông qua đó của cải có thể được trao truyền và thừa kế một cách cá nhân. Tư hữu
cho một vài người có nghĩa là không có gì cho những người khác. Điểm cốt lõi
trong hệ thống quan điểm của Ăngghen nằm ở mối quan hệ một cách mật thiết giữa
sự nổi lên của gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế bị thống trị bởi nam giới
và sự phát triển của các giai cấp trong xã hội.
Thực chất vấn đề giải phóng phụ nữ là xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ nữ
Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, “người
chồng là đại diện của giai cấp tư sản còn người vợ đại diện cho giai cấp vô sản”.
Do đó, bản đăng ký kết hôn giữa vợ và chồng còn có thể được coi là bản hợp đồng
mà giai cấp vô sản (người vợ) ký kết với giai cấp tư sản (người chồng) để bán sức
lao động của mình. Ăngghen nhận xét rằng kiểu hình gia đình này tạo điều kiện
cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Hơn thế nữa, ông cũng lưu ý rằng
phụ nữ trong các gia đình tư sản sẽ phải chịu nhiều áp bức hơn so với phụ nữ trong 12
các gia đình vô sản. Theo phân tích của Ăngghen, trong các gia đình tư sản, người
chồng là người duy nhất lao động kiếm tiền để nuôi sống gia đình trong khi người
vợ ở nhà, đóng vai trò của “người quản gia chính”, đảm trách toàn bộ công việc
nhà và nuôi dạy con cái. Do đó, mối quan hệ giữa hai vợ chồng sẽ không bình đẳng
vì người vợ phải phụ thuộc vào chồng mình và có trách nhiệm sinh ra những người
thừa tự hợp pháp để t ừ
h a kế tài sản của người chồng. Ngược lại, trong các gia đình
vô sản, mối quan hệ giữa vợ và chồng có thể bình đẳng hơn do cả hai đều tham gia
lao động kiếm tiền để nuôi sống gia đình. Ở đây, không có tài sản nào cả, tài sản
mà để duy trì và thừa kế nó người ta đã lập ra chế độ một vợ một chồng và sự
thống trị của người đàn ông; như vậy là ở đây không có một cái gì kích thích để lập
ra sự thống trị đó cả.
Quan điểm của Ph. Ăngghen về n ữ
h ng điều kiện để giải phóng phụ nữ
Quan điểm của Ph. Ăngghen về những điều kiện cơ bản để vạch rõ xu hướng
thay đổi địa vị người phụ nữ theo hướng tiến tới sự bình đẳng nam nữ trong xã hội
gắn với sự tất yếu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng toàn thể
nhân loại khỏi sự áp bức, bất công. Để xu hướng đó trở thành hiện thực, theo
Ăngghen đòi hỏi phải tiến hành:
Thứ nhất: thủ tiêu chế độ bóc lột của tư bản, tức phải xóa bỏ chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và từng bước thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất. Đây chính điều kiện đầu tiên nhằm thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế của người phụ
nữ vào người đàn ông. Điều này sẽ tạo ra cơ sở quan trọng nhất để thực hiện bình
đẳng giới. Trong thư gửi Gertrud Guil aume - Schack ở Beuthen (tháng 7 - 1885)
Ph. Ăngghen đã viết: “Một sự bình đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới chỉ có
thể trở thành hiện thực khi đã thủ tiêu được chế độ bóc lột của tư bản đối với cả hai giới”.
Thứ hai, xác lập sự bình đẳng nam nữ về mặt pháp lý trong đời sống xã hội
cũng như trong gia đình. Khẳng định điều này, Ph. Ăngghen viết: “…Đặc tính của