lOMoARcPSD| 61409713
TRƯ
NG
Đ
I
H
C
T
QU
C
DÂN
VI
N NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
--------
o0o
-------
-
BÀI
T
P L
N
MÔN
NG H
CHÍ MINH
Đ
TÀI:
P
hân tích quan đi
m c
a H
Chí Minh: “ Văn
hóa ph
i soi
đư
ng cho qu
c dân đi”. Ý nghĩa c
a quan đi
m trên
đ
i v
i vi
c đ
nh hư
ng xây d
ng n
n văn hóa Vi
t Nam hi
n nay.
Họ và tên sinh
viên:
Phạm Ngọc Diệp
Mã sinh
viên:
11221302
Lớp tín
chỉ:
LLTT1101(323)_02
Giảng
viên:
TS. Nguyễn Chí Thiện
N
i, ngày 7 tháng 6 năm 2024
lOMoARcPSD| 61409713
Mc lc
A. LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 3
I- Cơ sở lí luận .............................................................................................................. 3
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về văn hóa............................................... 3
2. Các quan điểm khác về văn hóa .......................................................................... 4
II- Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa.............................................................. 4
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa ......................................................... 4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác . 5
2.1. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị .................................................................. 5
2.2. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế ..................................................................... 6
2.3. Quan hệ giữa văn hóa với xã hội ...................................................................... 6
2.4. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại ..................... 6
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa ........................................ 7
3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng .............. 7
3.2. Văn hóa là một mặt trận ................................................................................... 8
3.3 Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân............................................................. 9
4. Phân tích và đúc kết quan điểm “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” .......... 9
III- Phân tích giá trị định hướng của quan điểm đối với việc xây dựng nền văn hóa
của đất nước hiện nay ................................................................................................ 15
1. Tầm nhìn văn hóa phát triển chiến lược Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội hùng
cường ........................................................................................................................ 15
2. Vị thế nền tảng tinh thần xã hội và tính tiên phong của văn hóa ................... 16
3. Vấn đề truyền thống và hiện đại, bản sắc văn hóa và xu thế phát triển của
thời đại .................................................................................................................... 17
4. Sự phát triển thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam ............. 19
5. Chiến lược của chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam ................................ 20
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 22
lOMoARcPSD| 61409713
A. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh t đại, một nhà văn hóa, tưởng lỗi lạc
của Việt Nam cũng một danh nhân văn hóa của thế giới. Người được ghi nhận
“Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam” trong Nghị quyết
24C/18.6.5 của Khóa họp 24 Đại Hội đồng UNESCO được công nhận những đóng
góp quan trọng về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dc, nghệ thuật; tư tưởng
của Người là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam và
hiện thân cho khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và
tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, Người đã đúc kết được rất nhiều kinh
nghiệm quý báu, trở thành nền tảng cho việc hình thành nên tưởng Hồ Chí Minh
kết tinh của những giá trị văn hóa Đông Tây, truyền thống hiện đại, dân tộc
quốc tế, là sự vận dng sáng tạo những lý luận về văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Những cống hiến của Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc sáng tạo
văn hóa văn nghệ, xác lập hệ thống quan điểm về văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới
Việt Nam. Trong đó, quan điểm “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” một
trong những quan điểm đã giúp dẫn dắt, định hướng việc xây dựng, phát triển,
nâng cao tầm vóc nền văn hóa Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61409713
B. NỘI DUNG
I- Cơ sở lí luận
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về văn hóa.
- Trước Mác, các triết gia đã nhiều quan niệm về nguồn gốc của văn hóa, nhưng
chủ yếu chỉ tập trung vào các yếu tố như tôn giáo, trí tuệ, thiên nhiên và lịch sử.
- Quan điểm của Mác Lênin về nguồn gốc của văn hóa đã đột phá khác biệt
hoàn toàn với những quan điểm cũ:
+ Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định văn hóa sản phẩm của lao động. Lao
động hoạt động tạo ra các giá trị sản phẩm qua đó đóng góp vào sự phát
triển của hội của con người. Cũng tức là, lao động chính nguồn gốc của các nhu
cầu vật chất tinh thần của con người, theo Mác, một trong những nhu cầu đó
bao gồm văn hóa. Theo Mác Lênin, văn a bao gồm cả các giá trị, niềm tin, phong
tc, tập quán lối sống của một cộng đồng. Mác Lênin cho rằng văn hóa là một phần
không thể thiếu của xã hội và nó được tạo ra, phát triển và thay đổi thông qua quá trình
lao động của con người.
+ Văn hóa theo định nghĩa của Mác – Lênin không phải một yếu tố cố định mà
thay đổi theo thời gian sự phát triển của hội. được sản xuất truyền bởi
các tầng lớp hội khác nhau các tầng lớp này sẽ ảnh hưởng đến nội dung hình
thức của văn hóa. Đồng thời, nó cũng có vai trò quan trọng trong việc giải thích và định
hình các mối quan hệ xã hội. Văn hóa có thể truyền đạt các giá trị, niềm tin, tư
tưởng phong cách sống từ đó ảnh hưởng đến cách con người duy hành động.
Văn hóa một phần của tầng lớp hội phản ánh các mối quan hệ hội trong
xã hội đó. Điều này làm cho văn hóa trở thành một công c quan trọng để giải thích
định hình xã hội.
+ Văn hóa là một phần không thể thiếu trong việc xây dựng một xã hội mới, với
sự phát triển và tôn vinh các giá trị nhân văn. Việc phát triển và tạo ra văn hóa sáng tạo
không chỉ là để thỏa mãn nhu cầu giải trí, còn để khẳng định vai trò của con người
trong xã hội, tạo ra những giá trị nhân văn và nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, bản chất của văn hóa sự sáng
tạo và phát triển các giá trị nhân văn. Văn hóa không chỉ là sản phẩm của quá trình lao
động, mà n là kết quả của quá trình tư duy và sáng tạo của con người. Trong quá trình
lOMoARcPSD| 61409713
phát triển, văn hóa không chỉ giúp con người hiểu biết thế giới xung quanh mình,
còn giúp con người định hình và khẳng định bản thân, tạo ra các giá trị nhân văn như tự
do, công bằng và đạo đức.
+ Bản chất của văn hóa phát huy năng lực bản chất của con người. Mác – Lênin
cho rằng bản chất của con người là khả năng tư duy, khả năng sáng tạo và khả năng xây
dựng. Các năng lực y đặc trưng của loài người được phát huy thông qua lao
động, giao tiếp, học tập truyền đạt kiến thức. Văn a được coi một phương tiện
để phát huy các năng lực bản chất đó của con người. Việc phát triển tạo ra văn hóa
cũng đồng nghĩa với việc phát triển và tạo ra các năng lực bàn chất của con người.
- Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, văn hóa là sự sáng tạo và
phát triển liên tc của con người, mc đích tạo ra các giá trị nhân văn và đáp ứng nhu
cầu phát triển của hội. Văn hóa không chỉ sản phẩm của quá trình lao động,
còn là kết quả của quá trình tư duy và sáng tạo của con người.
2. Các quan điểm khác về văn hóa
Năm 1988, khi bàn về văn hóa, Tổng Giám đốc Tổ chức UNESCO Federico Mayor
khẳng định rằng: “Văn hóa tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các
nhân các cộng đồng) trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống c giá trị, các truyền thống các thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[1].
Dân tộc Việt Nam vốn nổi tiếng với những truyền thống, phẩm chất tốt đẹp như truyền
thống yêu nước, về ý chí độc lập, tự cường; tinh thần đoàn kết, tấm lòng nhân ái, khoan
dung, tinh thần cộng đồng, sự lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo, ….
Hồ Chí Minh trước phải một người Việt Nam yêu nước rồi mới trthành một chiến
sĩ cộng sản. Chính vì thế mà những văn hóa và truyền thông của dân tộc đã luôn có ảnh
hưởng sâu đậm đến quá trình hình thành nhân cách bản lĩnh của người thanh niên
Nguyễn Tất Thành, và đến những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
II- Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa:
lOMoARcPSD| 61409713
- Tiếp cận theo nghĩa rộng: Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt của con người.
- Tiếp cận theo nghĩa hẹp: Văn hóa đời sống tinh thần của xã hội, thuộc
kiến trúc thượng tầng.
- Tiếp cận theo nghĩa hẹp hơn: Văn hóa khi bàn đến các trường học, số
người đi học, xóa nạn chữ, biết đọc biết viết (cách tiếp cận này thường xuất hiện
trong các bài nói với đồng bào miền núi)
- Tiếp cận theo “phương thức sử dng công c sinh hoạt”.
Tháng 8 năm 1943, trong phần cuối của bản thảo cuốn Nhật ký trong tù, Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng nmc đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công c cho sinh hoạt hàng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
văn a. Văn hóa sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn”.
Quan niệm văn hóa nêu trên của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một bối cảnh thời
gian không gian đặc biệt: được Người viết khi còn trong nhà của Tưởng Giới
Thạch khi UNESCO chưa thành lập khi cnước đang tập trung cho nhiệm v giải
phóng dân tộc.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác
2.1. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có bốn vấn đề phải được coi là quan trọng
ngang nhau và có sự tác động qua lại lẫn nhau, đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhưng ở nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, xóa ách nô lệ, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó
chính là sự giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển.
lOMoARcPSD| 61409713
Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải
phc v nhiệm v chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải
có hàm lượng văn hóa.
2.2. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến
trúc thượng tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được. Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng
ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa văn hóa không hoàn toàn ph thuộc vào kinh
tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế. Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã
hội sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển, ngược lại, mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị,
xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
2.3. Quan hệ giữa văn hóa với xã hội
Giải phóng chính trđồng nghĩa với giải phóng hội, từ đó văn hóa mới điều
kiện phát triển. hội thế nào văn hóa thế ấy. Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam
rất phong phú, nhưng trong chế độ lệ của kẻ áp bức thì văn nghệ cũng bị lệ, không
thể phát triển được. Vì vậy phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền
về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam
lên địa vị cầm quyền thì mới giải phóng được văn hóa
2.4. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
Bản sắc văn hóa dân tộc những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, thành quả quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu giao lưu của
con người Việt Nam
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là
lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc… Về hình thức,
cốt cách văn hóa dân tộc được thể hiện ở ngôn ngữ, phong tc, tập quán, lễ hội, truyền
thống, cách cảm và nghĩ…
lOMoARcPSD| 61409713
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và một ý nghĩa quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. phản ánh nét độc đáo, đặc tính dân tộc.
là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mac-Lenin. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, âm nhạc dân
tộc ta rất độc đáo, phải khai thác và phát triển đi lên, rằng, những người cộng sản chúng
ta rất quí trọng cổ điển, nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó,
vậy, trách nhiệm của con người Việt Nam phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy,
phát triển văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm v cách mạng trong từng giai đoạn
lịch sử.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tiếp biến văn hóa (tiếp nhận biến đổi) một quy luật của văn hóa. Theo H
Chí Minh, “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương Tây
phương chung đúc lại… Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lại để tạo ra
một nền kinh tế Việt Nam. Nghĩa lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa văn hóa
nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh
thần dân chủ”
Hồ Chí Minh chỉ rõ mc đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu
cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung
tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt các khía cạnh. Tiếp thu
tiêu chí cái hay, cái tốt ta học lấy. Mối quan hệ giữ gìn cốt cách văn hóa
dân tộc tiếp thu văn hóa nhân loại phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó điều
kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa.
3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
- Văn hóa mục tiêu. Mc tiêu của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với kinh
tế, chính trị, hội, văn hóa nằm trong mc tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa mc tiêu nhìn một cách tổng quát quyền
sống, quyền sung sướng, quyền tự do quyền mưu cầu hạnh phúc; khát vọng của
nhân dân về giá trị chân, thiện, mỹ.
lOMoARcPSD| 61409713
- Văn hóa động lực. Động lực cái thúc đẩy cho sự phát triển. Di sản Hồ C
Minh cho thấy động lực phát triển đất nước bao gồm động lực vật chất tinh thần;
động lực cộng đồng và nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy t ở con người và đều
có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa
c thể trong tưởng Hồ Chí Minh, động lực thể nhận thức các phương tiện chủ
yếu sau:
+ Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc
dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. duy biện chứng,
độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn dẫn đến tư tưởng và
hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
+ Văn hóa văn nghệp phần nâng cao ng yêu nước, tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
+ Văn hóa giáo dc diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dc đào tạo con người
mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đạo đức gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay bại do cán bộ
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo đức
là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
+ Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
3.2. Văn hóa là một mặt trận
Nói đến mặt trận văn hóa nói đến một lĩnh vực hoạt động tính độ lập,
mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết
liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực
văn hóa tưởng. i dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực
tưởng , đạo đức, lối sống… của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác luận, đặc
biệt định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật. Mặt trận văn hóa là
lOMoARcPSD| 61409713
cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt
trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm v phng sự Tổ quốc,
phc v nhân dân.
Để làm tròn nhiệm v, chiến nghệ thuật phải lập trường tưởng vững vàng;
ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải bám sát thực tiễn, đi
sâu vào quần chúng, đphê bình nghiêm khắc những thói xấu như thâm, lười biếng,
lãng phí, quan liêu, ca tng chân thật những người tốt việc tốt để làm gương mẫu cho
chúng ta ngày nay và giáo dc con cháu đời sau. Đó chính “chất thép” của văn nghệ
theo tinh thần “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta một dân tộc anh hùng , thời đại ta một thời
đại vẻ vang. vậy chiến văn nghệ phải những tác phẩm xứng đáng với dân tộc
anh hùng và thời đại vẻ vang.
3.3 Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân n. Tư tưởng
văn hóa của Người cũng nhân dân, phc vnhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng
khát vọng của quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng những
người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những liệu
quý. Và chính họ những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản
phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là người được hưởng th các giá trị văn hóa.
4. Phân tích và đúc kết quan điểm “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
“Văn hoá soi đường cho quốc dân đi”!
văn hóa sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của hội; vừa là mc tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nên trong tưởng Hồ Chí Minh,
“văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, soi đường cho sự phát triển, tiến bộ của
hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng phát triển. Văn hóa, con
người Việt Nam - nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng để xây dựng bảo vệ Tổ
quốc.
lOMoARcPSD| 61409713
Để văn hóa đảm nhận đúng, đủ, tốt trọng trách "phải soi đường cho quốc dân",
theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa dân tộc con người mới cần
phải được xây dựng phát triển, phù hợp với thời đại. Lịch sử nhân loại cũng đã cho
thấy giá trị của văn hóa đối với mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình phát triển
không thể phủ nhận.
thế, trong quá trình kiến thiết bảo vệ nền cộng hòa dân chủ, phải tập
trung cho nhiệm v lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam) vẫn đặc biệt quan tâm,
chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mới.
Theo chỉ dẫn của Người, trước hết "phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một
dân tộc dũng cảm, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với Việt Nam độc lập" bằng
cách đẩy mạnh thực hiện công cuộc tiêu diệt "giặc dốt", nâng cao dân trí để mỗi người
dân hiểu được quyền lợi bổn phận của nh; bằng cách xây dựng nền văn hóa, văn
nghệ chân chính phc v nhân dân; bằng cách xây dựng đời sống mới, bài trừ các hủ
tc lạc hậu; xây dựng con người mới; đồng thời, phải "sửa soạn gây dựng cho đất nước
một nền n hóa mới"; trong đó, "văn a, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị".
tưởng của Người không chỉ nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa, ngang
với các lĩnh vực trọng yếu khác; cảnh báo, phê phán bệnh coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, coi
văn hóa như lĩnh vực ph, ăn theo các lĩnh vực khác, không thấy vai trò nền tảng, vai
trò sáng tạo, dẫn dắt, "soi đường" của văn a còn cho thấy kinh tế, chính trị cũng
phải nằm trong văn hóa, chịu sự tác động của văn hóa.
C thể, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa mới của dân tộcmối liên
hệ mật thiết với chính trị, cho nên trong quá trình xây dựng nền cộng hòa dân chủ, thực
hiện nhiệm v vừa kháng chiến vừa kiến quốc, mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền văn hóa của dân tộc đều
phải góp phần xác lập giá trị cốt lõi của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; đều phải hướng đến mc
tiêu vì con người - coi con người vừa là chủ thể vừa là trung tâm của sự phát triển
lOMoARcPSD| 61409713
Đặc biệt, nền văn hóa dân tộc mới được xây dựng phải hoàn thành trọng trách
"làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa
đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng
có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc
dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình"
[14]
.
Cùng với đó, phải: "Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán
bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa
ảnh hưởng dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hóa n tộc hấp th những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng".
Đây chính là mc tiêu xây dựng nền văn hóa dân tộc và con người Việt Nam mới
xã hội chủ nghĩa, phù hợp điều kiện c thể của Việt Nam. Đây cũng chính nhiệm v
quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa ở Việt Nam.
Bước vào thời kỳ cả nước cùng đồng thời thực hiện hai nhiệm v chiến lược:
Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế văn hóa. sao không nói
phát triển văn hóa và kinh tế? Tc ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh
tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân”, để văn hóa vừa "phải soi đường cho quốc dân đi" vừa "phải thiết thực
phc v nhân dân".
C thể, Người nhấn mạnh yêu cầu phải xây dựng văn hóa dân tộc mà trong đó,
"nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dc, phải giáo dc thế nào đời sống mới, thế
nào đạo đức cách mạng. Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất. Tóm lại, để
phc v sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức". Đồng thời, Người cũng chỉ rõ yêu cầu “muốn xây dựng
chủ nghĩa hội, phải con người hội chnghĩa tưởng xã hội chủ nghĩa.
Phải đánh bại những tưởng ng thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa nhân, phát
huy tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo về của công, chống tham ô, lãng
phí".
lOMoARcPSD| 61409713
Những con người xã hội chủ nghĩa tưởng đạo đức xã hội chủ nghĩa;
trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên; có tác phong xã
hội chủ nghĩa lòng nhân ái, vị tha, độ lượng… chính chủ thể sáng tạo xây dựng
chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Đó những người phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư và không ngừng học tập ở nhà trường, trong sách vở và học
lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị, văn a, kỹ thuật nhằm phng sự Tổ quốc, phc
v nhân dân; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa gắn với chính trị, kinh
tế ổn định hội cho thấy, vật chất tinh thần hai mặt của đời sống hội nói
chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Một quốc gia, dân tộc không thể phát triển
ổn định bền vững nếu chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế bỏ quên, thậm chí hy sinh
các giá trị văn hóa.
Cho nên, trong khi chú trọng phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất của
xã hội, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân,
Đảng Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng xây dựng phát triển nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa.
Vận dng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, xây dựng nền văn hóa dân
tộc và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm v, khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc kết thúc thắng
lợi, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI ngày
28-11-1987 đã khẳng định văn hóa “là bộ phận trọng yếu của cách mạng tưởng
văn hóa một động lực mạnh mẽ đồng thời là mc tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội… góp phần thực hiện các nhiệm v cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" ngày 16-7-1998 đã khẳng định: Văn
hóa nền tảng tinh thần của hội, vừa mc tiêu vừa động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội". thế, "xây dựng phát triển kinh tế phải nhằm mc tiêu văn
hóa, hội công bằng văn minh, con ngưi phát triển toàn diện. Văn hóa kết quả
lOMoARcPSD| 61409713
của kinh tế đồng thời động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải
gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh
tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát
triển”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng tại Đại hội XI đã tiếp tc khẳng định yêu cầu xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng đó một “nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Để đưa đất nước phát triển nhanh bền vững, Nghị quyết số 33 NQ/TW về
“Xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” ngày 9-6-2014 đã nêu rõ yêu cầu phải tăng cường huy động các nguồn
lực xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc trên tinh thần vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, để văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội…
Cùng với đó, phải “phát triển văn hóa sự hoàn thiện nhân cách con người
xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm
lo xây dựng con người nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Trong bối cảnh đổi mới hội nhập toàn diện, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
nêu quan điểm "phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần"; nêu nhiệm v trọng tâm của
nhiệm kỳ “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, hội nhập quốc tếnâng cao chất lượng cuộc sống chỉ số hạnh phúc của con
người Việt Nam”; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu "phát triển con người toàn diện và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất ớc bảo vệ
Tổ quốc".
lOMoARcPSD| 61409713
Vậy là, thể thấy, 75 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng "s
phận dân ta ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi", dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nền văn hóa dân tộc Việt Nam và hệ giá trị con người Việt Nam đã được
chăm lo xây dựng và phát triển trên tinh thần bồi t, tích hợp, phát triển cùng chiều dài
lịch sử dựng nước giữ nước của dân tộc; được kế thừa, phát huy giá trị tích cực, tốt
đẹp của truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thời đại.
Trước thời cơ, thuận lợi thách thức do bối cảnh toàn cầu hóa cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, bản sắc, cốt cách, bản lĩnh của chiều sâu văn hóa
dân tộc con người Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại, luôn tiếp biến hoàn
thiện nhân ch, luôn làm giàu tri thức, năng động, sáng tạo, đổi mới đã thực sự trở
thành nền tảng, nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng đối với sự phát triển bền vững đất
nước.
75 năm được chú trọng xây dựng và phát triển, con người Việt Nam có trí tuệ và
bản lĩnh, có văn hóa và đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, được giác ngộ, tổ chức phát huy đã trở thành
động lực của cách mạng; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo nên nền văn hóa Việt Nam
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với thời gian, các yếu tố văn hóa trong mỗi con người, mỗi cộng đồng dân
tộc của cả quốc gia, dân tộc như: Chnghĩa yêu nước các giá trị chân-thiệnmỹ;
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, bao dung nhân áisự tự lực, tự cường, ý chí
vươn lên khi đối diện cùng khó khăn, thử thách tiếp tc được đắp bồi, được phát huy,
khẳng định trong từng giai đoạn lịch sử đã góp phần làm nên những thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng.
Tiếp tc để chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi" đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trên nh trình đi lên chủ
nghĩa xã hội, cả hệ thống chính trị cùng phải nâng cao n nữa nhận thức về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của văn hóa, xây dựng nền văn hóa con người Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
lOMoARcPSD| 61409713
III- Phân tích giá trị định hướng của quan điểm đối với việc xây dựng nền văn
hóa của đất nước hiện nay
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11 năm 1946, Bác Hồ chỉ : “Văn hóa
phải hướng dẫn quốc dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”, “Văn hóa soi đường
cho quốc dân đi”, nhấn mạnh vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước. Tiếp nối tư tưởng, quan điểm của Người, nền văn hóa Việt Nam
đã chuyển biến mạnh mẽ, những đóng góp tích cực, quan trọng vào công cuộc phát
triển đất nước trong thời kỳ mới.
1. Tầm nhìn văn hóa phát triển chiến lược Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội hùng
cường
Sự lựa chọn định hướng của tiến trình phát triển Việt Nam qua hơn 90 năm tất
yếu là chủ nghĩa xã hội. Xét từ chiều sâu bản chất của nó, chủ nghĩa xã hội chính
một hình thái phát triển của văn hoá tương lai.
Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước, là văn hóa, trên nền tảng chính trị chủ nghĩa
Mác -nin, tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa văn hóa, tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng, để vươn tới Văn hóa theo nghĩa viết hoa. Đó -gic
phát triển Việt Nam từ năm 1930 trong tầm nhìn tới năm 2030 - một trăm năm Đảng
Cộng sản Việt Nam! Đó là con đường xã hội chủ nghĩa hiện thực Việt Nam từ
năm 1945 tới năm 2045 - một trăm năm Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
thế, dưới góc nhìn văn hóa, đó chính sự gặp gỡ kỳ tthống nhất hết sức
tự nhiên của chúng ta với cách nhìn nhận và đánh giá sự phát triển của các quốc gia tiến
bộ trên con đường phát triển hướng tới con người, con người cho con người trên
sở đời sống hiện thực của mỗi quốc gia, dân tộc bằng hệ giá trị tổng thể, trong đó
văn hóa là một nhân tố căn bản.
Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ được đánh giá bằng
tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong nước mà còn bằng cách chỉ số: thu nhập cao,
giáo dc tốt, sức khoẻ dinh dưỡng mức cao, ngho khổ thấp, môi trường trong sạch,
cuộc sống văn hoá cao... Đi trên con đường hội chnghĩa, càng ràng, đối với
chúng ta, văn hoá một thành tố không thbị xem nhẹ, một bộ phận trong
lOMoARcPSD| 61409713
chỉnh thể hữu cơ: chính trị - kinh tế - văn hoá - hội. Hồ Chí Minh nói: Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cũng phải coi trọng ngang nhau:
kinh tế, chính trị, hội, văn hoá. Tổng hoà toàn bộ những thành tố đó hình thành
hệ thống giá trị, thang bậc giá trị hội mới tổ chức trong thực tiễn. Nghĩa phải
kiến lập hiện thực hóa cho được theo một hệ giá trị mới, bao hàm những thuộc tính
mang tính chuẩn mực không chỉ về kinh tế, chính trị, đối ngoại còn phong phú, sâu
sắc về xã hội, về đạo đức, về tinh thần, về phong tc,
tập quán, v.v... trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước.
Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hướng tới
mc tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có một hệgiá trị tương ứng với nó như
một chiến lược tổng thể về phát triển chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội - ngoại giao...
Chẳng hạn, văn hoá và phát triển kinh tế là hai mặt thống nhất, xuyên thấm trong nhau,
khó mà tách bạch. Hễ nước nào tự đặt cho mình mc tiêu phát triển kinh tế mà tách rời
văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá
tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Hơn nữa, thực tiễn ngày càng
cho thấy rất rõ, văn hoá cần coi mình là một nguồn gốc cổ xuý trực tiếp cho phát triển;
và ngược lại, phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều
tiết xã hội.
Do đó, hiển nhiên chúng ta cần xây dựng phát triển một chiến lược về văn
hoá của thời kỳ công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trước mắt với tầm nhìn tới năm
2030 và tới 2045. Nói một cách khái quát, đó là văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ
bền vững, với khát vọng Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập và hùng cường.
2. Vị thế nền tảng tinh thần xã hội và tính tiên phong của văn hóa
Trải mấy ngàn năm, một thời đất nước đắm chìm trong vòng lệthuộc tới cả
thiên kỷ, rút cuộc "Việt Nam bùn đứng dậy sáng loà". Bàn về điều kỳ diệu này,
một ý kiến rất lấy m thú vị. Đại ý rằng: Văn Lang cổ đại sở dĩ không chết, cho dù cả
nghìn năm Bắc thuộc, vì nó đã xây dựng cho mình một nền văn hoá mang đặc tính dân
tộc ngày càng được bảo vệ, củng cố phát triển, trong hoàn cảnh khắc nghiệt
đến đâu. Và chính trên cơ sở đó, Văn Lang đã hồi sinh.
lOMoARcPSD| 61409713
Rõ ràng, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam, là mc tiêu, là động
lực phát triển của lịch sử Việt Nam. Nói c thể là, cái nền tảng, cái mc tiêu, cái động
lực đối với Việt Nam suốt từ thời cổ đại không phải là gì khác, ấy chính là: nghĩa đồng
bào, nước quên mình, trừ bạo an dân, tinh thần đoàn kết rộng rãi, v.v... khí tinh
thần ấy, vũ khí văn hoá cơ bản nhất ấy được hun đúc tiếp tc được lưu truyền ngày
càng trở thành hùng kquật khởi đặc biệt vào những bước ngoặt lịch sử dân tộc, để
Việt Nam ta ngày càng vị trí quan trọng trên trường quốc tế. Đồng hành với lịch sử
dân tộc, sự vận động của văn hoá Việt Nam ngày càng sinh động với sự lan toả, thăng
hoa rộng lớn, với chiều sâu thẳm tạo dựng nên ơng mặt Việt Nam, với trí tuệ, khí
phách, cốt cách, phong thái bản lĩnh Việt Nam không thể trộn lẫn trên con đường xây
dựng chủ nghĩa hội, bảo vệ Tổ quốc hội nhập toàn cầu. Diễn đạt một cách xác
đáng, đó chính văn hoá với cách nền tảng tinh thần của xã hội, "tấm văn cước"
dân tộc hội nhập quốc tế đầy thách thức "mất, còn" hiện nay.
Mặt khác, văn hoá còn mang trong nó tính vượt trước hay tính tiên phong so với
kinh tế - hội. góc nhìn này, chúng ta thấy nổi bật lên những vấn đvề thế giới quan,
về chính trị, về khoa học và công nghệ, về giáo dc, về mô thức ứng xử dân tộc... thuộc
phạm trù văn hoá tinh thần, xét trong sự vận động tổng thể của toàn bộđời sống kinh tế
- hội đất nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hoá phải soi đường cho quốc
dân đi".
ràng, văn hoá không chỉ nền tảng tinh thần đồng thời một động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế hội, một mc tiêu phát triển của chủ nghĩa hội Việt
Nam.
3. Vấn đề truyền thống và hiện đại, bản sắc văn hóa và xu thế phát triển của thời
đại
Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, mang bản sắc dân tộc được Đảng nhân
dân ta xác định là một trong các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó
chính quá trình xử lý một cách khoa học các mối quan hệ hữu giữa truyền thống
văn hoá và tính hiện đại của văn hoá, giữa văn hoá dân tộc và văn hoá thời đại để nhằm
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam vừa mang bản sắc dân tộc vừa ngang tầm với thời
đại, một nhân tố bảo đảm cho cuộc hội nhập thế giới của đất nước một cách toàn diện,
lOMoARcPSD| 61409713
hiệu quả nhưng không bị "hoà tan", không biến thành bản sao của người khác hay rơi
vào vòng kiềm toả rồi trở thành nô lệ, ph thuộc trong tay người khác.
Nói văn hoá trước hết nói tới truyền thống. Văn hoá của bất kỳ dân tộc nào
cũng đều như thế, đều bắt đầu từ văn hoá truyền thống. Nó là sự tích t, hình thành nên
các giá trlâu đời trong lịch sử hội, dân tộc. Còn hiện đại hoá? Một mặt, kết quả
hoạt động sáng tạo chủ thể văn hoá dân tộc đương đại; mặt khác, sự thông thái
không hạn chế những tinh hoa từ mọi nguồn để tự bổ sung cho mình. Quan hệ giữa hai
mặt này như thế nào? Suốt thời gian dài, không ít người những tưởng rằng: càng hội
nhập càng tiến nhanh, muốn hiện đại hoá nhanh thì tất phải kích thích mạnh mẽ, nghĩa
phủ nhận, thay đổi truyền thống bằng sự thúc ép cải tạo dưới cái gọi thừa kế
nhưng thực ra nhập từ bên ngoài vào...và đã phải trả giá. Qua đây, bài học thành bại trở
nên hết sức rõ ràng là, để hiện đại hoá, quyết không phải là phủ nhận văn hoá cổ truyền
nào đó, trái lại vấn đề là, phải biết xử văn hoá truyền thống với các giá trị của
chúng trong tiến trình hiện đại hoá, chứ không phải xoá bỏ nó; phải duy trì sự phát
triển liên tc để đi vào hiện đại hoá. Nếu văn hoá truyền thống nền tảng thì tính
hiện đại phải là sự củng cố cho nền tảng ấy ngày càng bền vững, sự thống nhất phải đạt
tới mức tính hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố của truyền thống văn hoá. Bởi lẽ, xét
về mặt phương pháp luận, hệ thống tồn tại thay đổi dần tới trạng thái cuối cùng của
hệ thống hệ thống mới. biến đổi nhưng không bao giờ đứt đoạn, biến chất
nhưng kết quả của một quá trình liên tc. Phương thức này là tất yếu cho sự phát triển
mà chúng ta cần lựa chọn.
Mặt khác, không thể phát triển dân tộc nếu cắt đứt mối liên hệ với lịch sử, văn
hoá dân tộc và văn hoá thế giới. Đó là một quy luật. Phát triển phải được đặt trong tiến
trình lịch sử môi trường văn hoá dân tộc văn hoá nhân loại. Vấn đề bản sắc dân
tộc của văn hoá trong quá trình phát triển, vấn đề "hội nhâp nhưng có phải là hoà tan"?.
Trong xu thế toàn cầu hoá, đây vẫn là một trăn trở lớn, đang nổi lên như một yếu tố cần
thiết hàng đầu và dân tộc ta không thể lẩn tránh việc tìm ra đáp án đúng cho câu hỏi đó.
Nếu bản sắc văn hoá Việt Nam là sự tổng hoà những giá trị cơ bản, những yếu tố cốt lõi
được tích t, rn đúc ttrong trường kỳ lịch sử dựng nước giữ nước làm nên bản
lĩnh, cốt cách, ơng mặt của dân tộc một cách riêng biệt, không thể trộn ln với dân
lOMoARcPSD| 61409713
tộc khác thì cuộc hội nhập chính thời cơ, điều kiện, môi trường để dân tộc thể
hiện mình, thâu hoá những thành tựu mới làm phong phú mình, nâng Việt
Nam lên một tầm cao mới, nhịp bước cùng thế giới đương đại.
4. Sự phát triển thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam
Hiện nay, chúng ta không những sống trong một thời kỳ phát triển lịch sử ngắn
hạn mà còn là thời kỳ đa dạng của sự phát triển. Sự phát triển của văn hoá cũng không
nằm ngoài xu thế vận động ấy. Không nền văn hóa cao hay thấp, chỉ những nền
văn hóa khác nhau. Chúng ta xây dựng một nền văn hoá Việt Nam thống nhất không
nghĩa là biến nó thành một thứ khuôn sáo cứng nhắc đối với 54 dân tộc quần t và phát
triển trên mảnh đất Việt Nam buộc phải gò mình theo", mà trái lại. Sự thống nhất ở đây
là, hệ giá trị văn hoá Việt Nam, còn thực hiện như thế nào thì mỗi dân tộc, mỗi vùng
đất... với sự khác nhau về đặc điểm tâm lý, truyền thống riêng biệt sẽ lựa chọn và quyết
định các phương thức, bước đi, giải pháp và hình thức thể hiện một cách đa dạng và phù
hợp nhằm tự phát triển mình lên làm phong phú thêm hệ giá trị văn hoá Việt Nam
trong quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Thời đại ngày nay, văn hoá trở thành động lực, trở thành mc tiêu của sự phát
triển. Nhưng thực tiễn của quá trình phát triển từ nhiều quốc gia cảnh báo những cái giá
phải trả một cách khủng khiếp đối với văn hoá, thậm chí gieo tai hoạ cho chính n hoá,
khi phát triển bằng cách bất chấp tất cả: phá vỡ các nền văn hoá dân tộc, huỷ hoại nhiều
kiến thức quý giá của dân tộc, rút cuộc, phát triển biến thành phản phát triển.
Cho nên, chiến lược về văn hoá Việt Nam không chỉ dừng lại chỗ m một tiếng
nói chung về văn hcủa sự phát triển đất ớc mạnh mẽ bền vững, điều quan
trọng hơn, cần phải biến tiếng nói chung đó thành những giải pháp khả thi, tính đồng
bộ và phù hợp cho toàn bộ các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiên đại hoá mỗi cộng đồng trong quốc gia Việt Nam
thống nhất. Đó chính là việc thiết lập một cơ chế vận hành văn hoá và văn hóa vận hành
thật sự khoa học hiệu quả. Nói c thể hơn, phải kiến tạo phát triển hàng loạt mối
quan hệ hữu giữa văn hoá với chính trị, kinh tế với văn hoá, văn hoá với hội,
ngược lại, nhằm xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa một cách văn hóa, xứng đáng là chủ nghĩa nhân đạo hoàn mĩ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61409713
TRƯ NG Đ I H C KINH T QU C DÂN
VI N NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
-------- o0o ------- - BÀI
T P L N MÔN
TƯ TƯ NG H CHÍ MINH Đ
TÀI: P hân tích quan đi ể m c ủ a H ồ Chí Minh: “ Văn
hóa ph ả i soi đư ờ ng cho qu ố c dân đi”. Ý nghĩa c ủ a quan đi ể m trên
đ ố i v ớ i vi ệ c đ ị nh hư ớ ng xây d ự ng n ề n văn hóa Vi ệ t Nam hi ệ n nay.
Họ và tên sinh viên: Phạm Ngọc Diệp Mã sinh viên: 11221302
Lớp tín chỉ: LLTT1101(323)_02
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện
N i, ngày 7 tháng 6 năm 2024 lOMoAR cPSD| 61409713 Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 3
I- Cơ sở lí luận .............................................................................................................. 3
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về văn hóa............................................... 3
2. Các quan điểm khác về văn hóa .......................................................................... 4
II- Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa.............................................................. 4
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa ......................................................... 4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác . 5
2.1. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị .................................................................. 5
2.2. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế ..................................................................... 6
2.3. Quan hệ giữa văn hóa với xã hội ...................................................................... 6
2.4. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại ..................... 6
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa ........................................ 7
3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng .............. 7
3.2. Văn hóa là một mặt trận ................................................................................... 8
3.3 Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân............................................................. 9
4. Phân tích và đúc kết quan điểm “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” .......... 9
III- Phân tích giá trị định hướng của quan điểm đối với việc xây dựng nền văn hóa
của đất nước hiện nay
................................................................................................ 15
1. Tầm nhìn văn hóa phát triển chiến lược Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội hùng
cường ........................................................................................................................ 15

2. Vị thế nền tảng tinh thần xã hội và tính tiên phong của văn hóa ................... 16
3. Vấn đề truyền thống và hiện đại, bản sắc văn hóa và xu thế phát triển của
thời đại .................................................................................................................... 17

4. Sự phát triển thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam ............. 19
5. Chiến lược của chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam ................................ 20
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 22 lOMoAR cPSD| 61409713 A. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, là một nhà văn hóa, tư tưởng lỗi lạc
của Việt Nam và cũng là một danh nhân văn hóa của thế giới. Người được ghi nhận là
“Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam” trong Nghị quyết
24C/18.6.5 của Khóa họp 24 Đại Hội đồng UNESCO và được công nhận có những đóng
góp quan trọng về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật; tư tưởng
của Người là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam và
hiện thân cho khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và
tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, Người đã đúc kết được rất nhiều kinh
nghiệm quý báu, trở thành nền tảng cho việc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh –
kết tinh của những giá trị văn hóa Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, là sự vận dụng sáng tạo những lý luận về văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Những cống hiến của Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc sáng tạo
văn hóa văn nghệ, xác lập hệ thống quan điểm về văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới
Việt Nam. Trong đó, có quan điểm “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” – một
trong những quan điểm đã giúp dẫn dắt, định hướng việc xây dựng, phát triển,
nâng cao tầm vóc nền văn hóa Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61409713 B. NỘI DUNG I- Cơ sở lí luận
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về văn hóa.
- Trước Mác, các triết gia đã có nhiều quan niệm về nguồn gốc của văn hóa, nhưng
chủ yếu chỉ tập trung vào các yếu tố như tôn giáo, trí tuệ, thiên nhiên và lịch sử.
- Quan điểm của Mác – Lênin về nguồn gốc của văn hóa đã đột phá khác biệt
hoàn toàn với những quan điểm cũ:
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định văn hóa là sản phẩm của lao động. Lao
động là hoạt động tạo ra các giá trị và sản phẩm và qua đó mà đóng góp vào sự phát
triển của xã hội của con người. Cũng tức là, lao động chính là nguồn gốc của các nhu
cầu vật chất và tinh thần của con người, và theo Mác, một trong những nhu cầu đó có
bao gồm văn hóa. Theo Mác – Lênin, văn hóa bao gồm cả các giá trị, niềm tin, phong
tục, tập quán và lối sống của một cộng đồng. Mác – Lênin cho rằng văn hóa là một phần
không thể thiếu của xã hội và nó được tạo ra, phát triển và thay đổi thông qua quá trình
lao động của con người.
+ Văn hóa theo định nghĩa của Mác – Lênin không phải là một yếu tố cố định mà
thay đổi theo thời gian và sự phát triển của xã hội. Nó được sản xuất và truyền bá bởi
các tầng lớp xã hội khác nhau và các tầng lớp này sẽ ảnh hưởng đến nội dung và hình
thức của văn hóa. Đồng thời, nó cũng có vai trò quan trọng trong việc giải thích và định
hình các mối quan hệ xã hội. Văn hóa có thể truyền đạt các giá trị, niềm tin, tư
tưởng và phong cách sống và từ đó ảnh hưởng đến cách mà con người tư duy hành động.
Văn hóa là một phần của tầng lớp xã hội và nó phản ánh các mối quan hệ xã hội trong
xã hội đó. Điều này làm cho văn hóa trở thành một công cụ quan trọng để giải thích và định hình xã hội.
+ Văn hóa là một phần không thể thiếu trong việc xây dựng một xã hội mới, với
sự phát triển và tôn vinh các giá trị nhân văn. Việc phát triển và tạo ra văn hóa sáng tạo
không chỉ là để thỏa mãn nhu cầu giải trí, mà còn để khẳng định vai trò của con người
trong xã hội, tạo ra những giá trị nhân văn và nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của văn hóa là sự sáng
tạo và phát triển các giá trị nhân văn. Văn hóa không chỉ là sản phẩm của quá trình lao
động, mà còn là kết quả của quá trình tư duy và sáng tạo của con người. Trong quá trình lOMoAR cPSD| 61409713
phát triển, văn hóa không chỉ giúp con người hiểu biết thế giới xung quanh mình, mà
còn giúp con người định hình và khẳng định bản thân, tạo ra các giá trị nhân văn như tự
do, công bằng và đạo đức.
+ Bản chất của văn hóa phát huy năng lực bản chất của con người. Mác – Lênin
cho rằng bản chất của con người là khả năng tư duy, khả năng sáng tạo và khả năng xây
dựng. Các năng lực này là đặc trưng của loài người và được phát huy thông qua lao
động, giao tiếp, học tập và truyền đạt kiến thức. Văn hóa được coi là một phương tiện
để phát huy các năng lực bản chất đó của con người. Việc phát triển và tạo ra văn hóa
cũng đồng nghĩa với việc phát triển và tạo ra các năng lực bàn chất của con người.
- Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, văn hóa là sự sáng tạo và
phát triển liên tục của con người, có mục đích tạo ra các giá trị nhân văn và đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội. Văn hóa không chỉ là sản phẩm của quá trình lao động, mà
còn là kết quả của quá trình tư duy và sáng tạo của con người.
2. Các quan điểm khác về văn hóa
Năm 1988, khi bàn về văn hóa, Tổng Giám đốc Tổ chức UNESCO Federico Mayor
khẳng định rằng: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá
nhân và các cộng đồng) trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[1].
Dân tộc Việt Nam vốn nổi tiếng với những truyền thống, phẩm chất tốt đẹp như truyền
thống yêu nước, về ý chí độc lập, tự cường; tinh thần đoàn kết, tấm lòng nhân ái, khoan
dung, tinh thần cộng đồng, sự lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo, …. Và
Hồ Chí Minh trước phải là một người Việt Nam yêu nước rồi mới trở thành một chiến
sĩ cộng sản. Chính vì thế mà những văn hóa và truyền thông của dân tộc đã luôn có ảnh
hưởng sâu đậm đến quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người thanh niên
Nguyễn Tất Thành, và đến những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
II- Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: lOMoAR cPSD| 61409713 -
Tiếp cận theo nghĩa rộng: Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của con người. -
Tiếp cận theo nghĩa hẹp: Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc
kiến trúc thượng tầng. -
Tiếp cận theo nghĩa hẹp hơn: Văn hóa là khi bàn đến các trường học, số
người đi học, xóa nạn mù chữ, biết đọc biết viết (cách tiếp cận này thường xuất hiện
trong các bài nói với đồng bào miền núi) -
Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Tháng 8 năm 1943, trong phần cuối của bản thảo cuốn Nhật ký trong tù, Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Quan niệm văn hóa nêu trên của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một bối cảnh thời
gian và không gian đặc biệt: được Người viết khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới
Thạch khi UNESCO chưa thành lập và khi cả nước đang tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực khác
2.1. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có bốn vấn đề phải được coi là quan trọng
ngang nhau và có sự tác động qua lại lẫn nhau, đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhưng ở nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, xóa ách nô lệ, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó
chính là sự giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển. lOMoAR cPSD| 61409713
Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa.
2.2. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến
trúc thượng tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được. Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng
ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh
tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế. Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã
hội sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển, ngược lại, mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị,
xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
2.3. Quan hệ giữa văn hóa với xã hội
Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội, từ đó văn hóa mới có điều
kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy. Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam
rất phong phú, nhưng trong chế độ nô lệ của kẻ áp bức thì văn nghệ cũng bị nô lệ, không
thể phát triển được. Vì vậy phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền
về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam
lên địa vị cầm quyền thì mới giải phóng được văn hóa
2.4. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là thành quả quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là
lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc… Về hình thức,
cốt cách văn hóa dân tộc được thể hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền
thống, cách cảm và nghĩ… lOMoAR cPSD| 61409713
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh nét độc đáo, đặc tính dân tộc. Nó
là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mac-Lenin. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, âm nhạc dân
tộc ta rất độc đáo, phải khai thác và phát triển đi lên, rằng, những người cộng sản chúng
ta rất quí trọng cổ điển, có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó, vì
vậy, trách nhiệm của con người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy,
phát triển văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tiếp biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa. Theo Hồ
Chí Minh, “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây
phương chung đúc lại… Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lại để tạo ra
một nền kinh tế Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa
nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu
cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung
tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt các khía cạnh. Tiếp thu
tiêu chí là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữ gìn cốt cách văn hóa
dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều
kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa.
3.1. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
- Văn hóa là mục tiêu. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu – nhìn một cách tổng quát – là quyền
sống, quyền sung sướng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của
nhân dân về giá trị chân, thiện, mỹ. lOMoAR cPSD| 61409713
- Văn hóa là động lực. Động lực là cái thúc đẩy cho sự phát triển. Di sản Hồ Chí
Minh cho thấy động lực phát triển đất nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần;
động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều
có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa
cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương tiện chủ yếu sau:
+ Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc
dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy biện chứng,
độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn dẫn đến tư tưởng và
hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
+ Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
+ Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con người
mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
+ Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay bại là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo đức
là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
+ Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
3.2. Văn hóa là một mặt trận
Nói đến mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độ lập, có
mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết
liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực
văn hóa – tư tưởng. Nôi dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực
tư tưởng , đạo đức, lối sống… của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lí luận, đặc
biệt là định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật. Mặt trận văn hóa là lOMoAR cPSD| 61409713
cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt
trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng vững vàng;
ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải bám sát thực tiễn, đi
sâu vào quần chúng, để phê bình nghiêm khắc những thói xấu như thâm, lười biếng,
lãng phí, quan liêu, và ca tụng chân thật những người tốt việc tốt để làm gương mẫu cho
chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu đời sau. Đó chính là “chất thép” của văn nghệ
theo tinh thần “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng , thời đại ta là một thời
đại vẻ vang. Vì vậy chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc
anh hùng và thời đại vẻ vang.
3.3 Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng
văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và
khát vọng của quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những
người sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu
quý. Và chính họ là những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản
phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
4. Phân tích và đúc kết quan điểm “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
“Văn hoá soi đường cho quốc dân đi”!
Vì văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nên trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
“văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, soi đường cho sự phát triển, tiến bộ của xã
hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển. Văn hóa, con
người Việt Nam - nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. lOMoAR cPSD| 61409713
Để văn hóa đảm nhận đúng, đủ, tốt trọng trách "phải soi đường cho quốc dân",
theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa dân tộc và con người mới cần
phải được xây dựng và phát triển, phù hợp với thời đại. Lịch sử nhân loại cũng đã cho
thấy giá trị của văn hóa đối với mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình phát triển là không thể phủ nhận.
Vì thế, trong quá trình kiến thiết và bảo vệ nền cộng hòa dân chủ, dù phải tập
trung cho nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam) vẫn đặc biệt quan tâm,
chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mới.
Theo chỉ dẫn của Người, trước hết "phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một
dân tộc dũng cảm, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với Việt Nam độc lập" bằng
cách đẩy mạnh thực hiện công cuộc tiêu diệt "giặc dốt", nâng cao dân trí để mỗi người
dân hiểu được quyền lợi và bổn phận của mình; bằng cách xây dựng nền văn hóa, văn
nghệ chân chính phục vụ nhân dân; bằng cách xây dựng đời sống mới, bài trừ các hủ
tục lạc hậu; xây dựng con người mới; đồng thời, phải "sửa soạn gây dựng cho đất nước
một nền văn hóa mới"; trong đó, "văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị".
Tư tưởng của Người không chỉ nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa, ngang
với các lĩnh vực trọng yếu khác; cảnh báo, phê phán bệnh coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, coi
văn hóa như lĩnh vực phụ, ăn theo các lĩnh vực khác, không thấy vai trò nền tảng, vai
trò sáng tạo, dẫn dắt, "soi đường" của văn hóa mà còn cho thấy kinh tế, chính trị cũng
phải nằm trong văn hóa, chịu sự tác động của văn hóa.
Cụ thể, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nền văn hóa mới của dân tộc có mối liên
hệ mật thiết với chính trị, cho nên trong quá trình xây dựng nền cộng hòa dân chủ, thực
hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền văn hóa của dân tộc đều
phải góp phần xác lập giá trị cốt lõi của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; đều phải hướng đến mục
tiêu vì con người - coi con người vừa là chủ thể vừa là trung tâm của sự phát triển… lOMoAR cPSD| 61409713
Đặc biệt, nền văn hóa dân tộc mới được xây dựng phải hoàn thành trọng trách
"làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa
đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng
có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc
dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình"[14].
Cùng với đó, phải: "Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán
bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa
và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng".
Đây chính là mục tiêu xây dựng nền văn hóa dân tộc và con người Việt Nam mới
xã hội chủ nghĩa, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây cũng chính là nhiệm vụ
quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa ở Việt Nam.
Bước vào thời kỳ cả nước cùng đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói
phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh
tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân”, để văn hóa vừa "phải soi đường cho quốc dân đi" vừa "phải thiết thực phục vụ nhân dân".
Cụ thể, Người nhấn mạnh yêu cầu phải xây dựng văn hóa dân tộc mà trong đó,
"nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục, phải giáo dục thế nào là đời sống mới, thế
nào là đạo đức cách mạng. Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất. Tóm lại, để
phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức". Đồng thời, Người cũng chỉ rõ yêu cầu “muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Phải đánh bại những tư tưởng công thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa cá nhân, phát
huy tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo về của công, chống tham ô, lãng phí". lOMoAR cPSD| 61409713
Những con người xã hội chủ nghĩa có tư tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa; có
trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên; có tác phong xã
hội chủ nghĩa và lòng nhân ái, vị tha, độ lượng… chính là chủ thể sáng tạo xây dựng
chủ nghĩa xã hội; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Đó là những người phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư và không ngừng học tập ở nhà trường, trong sách vở và học
lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật nhằm phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa gắn với chính trị, kinh
tế và ổn định xã hội cho thấy, vật chất và tinh thần là hai mặt của đời sống xã hội nói
chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Một quốc gia, dân tộc không thể phát triển
ổn định và bền vững nếu chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà bỏ quên, thậm chí hy sinh các giá trị văn hóa.
Cho nên, trong khi chú trọng phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất của
xã hội, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân,
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, xây dựng nền văn hóa dân
tộc và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ, khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc kết thúc thắng
lợi, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI ngày
28-11-1987 đã khẳng định văn hóa “là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và
văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội… góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" ngày 16-7-1998 đã khẳng định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội". Vì thế, "xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn
hóa, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả lOMoAR cPSD| 61409713
của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải
gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh
tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng tại Đại hội XI đã tiếp tục khẳng định yêu cầu xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng và đó là một “nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, Nghị quyết số 33 NQ/TW về
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” ngày 9-6-2014 đã nêu rõ yêu cầu phải tăng cường huy động các nguồn
lực xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc trên tinh thần vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, để văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội…
Cùng với đó, phải “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm
lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Trong bối cảnh đổi mới hội nhập toàn diện, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
nêu quan điểm "phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần"; nêu nhiệm vụ trọng tâm của
nhiệm kỳ là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, hội nhập quốc tế… nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con
người Việt Nam”; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu "phát triển con người toàn diện và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc". lOMoAR cPSD| 61409713
Vậy là, có thể thấy, 75 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng "số
phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi", dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nền văn hóa dân tộc Việt Nam và hệ giá trị con người Việt Nam đã được
chăm lo xây dựng và phát triển trên tinh thần bồi tụ, tích hợp, phát triển cùng chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; được kế thừa, phát huy giá trị tích cực, tốt
đẹp của truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thời đại.
Trước thời cơ, thuận lợi và thách thức do bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, bản sắc, cốt cách, bản lĩnh của chiều sâu văn hóa
dân tộc và con người Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại, luôn tiếp biến và hoàn
thiện nhân cách, luôn làm giàu tri thức, năng động, sáng tạo, đổi mới đã thực sự trở
thành nền tảng, nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng đối với sự phát triển bền vững đất nước.
75 năm được chú trọng xây dựng và phát triển, con người Việt Nam có trí tuệ và
bản lĩnh, có văn hóa và đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, được giác ngộ, tổ chức và phát huy đã trở thành
động lực của cách mạng; đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo nên nền văn hóa Việt Nam
tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với thời gian, các yếu tố văn hóa trong mỗi con người, mỗi cộng đồng dân
tộc và của cả quốc gia, dân tộc như: Chủ nghĩa yêu nước và các giá trị chân-thiệnmỹ;
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, bao dung nhân ái… và sự tự lực, tự cường, ý chí
vươn lên khi đối diện cùng khó khăn, thử thách tiếp tục được đắp bồi, được phát huy,
khẳng định trong từng giai đoạn lịch sử đã góp phần làm nên những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Tiếp tục để chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi" đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trên hành trình đi lên chủ
nghĩa xã hội, cả hệ thống chính trị cùng phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của văn hóa, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. lOMoAR cPSD| 61409713
III- Phân tích giá trị định hướng của quan điểm đối với việc xây dựng nền văn
hóa của đất nước hiện nay
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11 năm 1946, Bác Hồ chỉ rõ: “Văn hóa
phải hướng dẫn quốc dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”, “Văn hóa soi đường
cho quốc dân đi”, nhấn mạnh vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước. Tiếp nối tư tưởng, quan điểm của Người, nền văn hóa Việt Nam
đã chuyển biến mạnh mẽ, có những đóng góp tích cực, quan trọng vào công cuộc phát
triển đất nước trong thời kỳ mới.
1. Tầm nhìn văn hóa phát triển chiến lược Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội hùng cường
Sự lựa chọn định hướng của tiến trình phát triển Việt Nam qua hơn 90 năm tất
yếu là chủ nghĩa xã hội. Xét từ chiều sâu bản chất của nó, chủ nghĩa xã hội chính là
một hình thái phát triển của văn hoá tương lai.
Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước, là văn hóa, trên nền tảng chính trị chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa là văn hóa, tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng, để vươn tới Văn hóa theo nghĩa viết hoa. Đó là lô-gic
phát triển Việt Nam từ năm 1930 trong tầm nhìn tới năm 2030 - một trăm năm Đảng
Cộng sản Việt Nam! Đó là con đường xã hội chủ nghĩa hiện thực Việt Nam từ
năm 1945 tới năm 2045 - một trăm năm Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vì thế, dưới góc nhìn văn hóa, đó chính là sự gặp gỡ kỳ thú và thống nhất hết sức
tự nhiên của chúng ta với cách nhìn nhận và đánh giá sự phát triển của các quốc gia tiến
bộ trên con đường phát triển hướng tới con người, vì con người và cho con người trên
cơ sở đời sống hiện thực của mỗi quốc gia, dân tộc bằng hệ giá trị tổng thể, trong đó
văn hóa là một nhân tố căn bản.
Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ được đánh giá bằng
tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong nước mà còn bằng cách chỉ số: thu nhập cao,
giáo dục tốt, sức khoẻ và dinh dưỡng ở mức cao, nghèo khổ thấp, môi trường trong sạch,
có cuộc sống văn hoá cao... Đi trên con đường xã hội chủ nghĩa, càng rõ ràng, đối với
chúng ta, văn hoá là một thành tố không thể bị xem nhẹ, mà nó là một bộ phận trong lOMoAR cPSD| 61409713
chỉnh thể hữu cơ: chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội. Hồ Chí Minh nói: Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cũng phải coi trọng ngang nhau:
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Tổng hoà toàn bộ những thành tố đó mà hình thành
hệ thống giá trị, thang bậc giá trị xã hội mới và tổ chức trong thực tiễn. Nghĩa là phải
kiến lập và hiện thực hóa cho được theo một hệ giá trị mới, bao hàm những thuộc tính
mang tính chuẩn mực không chỉ về kinh tế, chính trị, đối ngoại và còn phong phú, sâu
sắc về xã hội, về đạo đức, về tinh thần, về phong tục,
tập quán, v.v... trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước.
Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hướng tới
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có một hệgiá trị tương ứng với nó như
một chiến lược tổng thể về phát triển chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội - ngoại giao...
Chẳng hạn, văn hoá và phát triển kinh tế là hai mặt thống nhất, xuyên thấm trong nhau,
khó mà tách bạch. Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời
văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá
và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Hơn nữa, thực tiễn ngày càng
cho thấy rất rõ, văn hoá cần coi mình là một nguồn gốc cổ xuý trực tiếp cho phát triển;
và ngược lại, phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội.
Do đó, hiển nhiên là chúng ta cần xây dựng và phát triển một chiến lược về văn
hoá của thời kỳ công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trước mắt với tầm nhìn tới năm
2030 và tới 2045. Nói một cách khái quát, đó là văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ và
bền vững, với khát vọng Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập và hùng cường.
2. Vị thế nền tảng tinh thần xã hội và tính tiên phong của văn hóa
Trải mấy ngàn năm, có một thời đất nước đắm chìm trong vòng lệthuộc tới cả
thiên kỷ, mà rút cuộc "Việt Nam rũ bùn đứng dậy sáng loà". Bàn về điều kỳ diệu này,
một ý kiến rất lấy làm thú vị. Đại ý rằng: Văn Lang cổ đại sở dĩ không chết, cho dù cả
nghìn năm Bắc thuộc, vì nó đã xây dựng cho mình một nền văn hoá mang đặc tính dân
tộc và ngày càng được bảo vệ, củng cố và phát triển, dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt
đến đâu. Và chính trên cơ sở đó, Văn Lang đã hồi sinh. lOMoAR cPSD| 61409713
Rõ ràng, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam, là mục tiêu, là động
lực phát triển của lịch sử Việt Nam. Nói cụ thể là, cái nền tảng, cái mục tiêu, cái động
lực đối với Việt Nam suốt từ thời cổ đại không phải là gì khác, ấy chính là: nghĩa đồng
bào, vì nước quên mình, trừ bạo an dân, tinh thần đoàn kết rộng rãi, v.v... Vũ khí tinh
thần ấy, vũ khí văn hoá cơ bản nhất ấy được hun đúc và tiếp tục được lưu truyền và ngày
càng trở thành hùng khí quật khởi đặc biệt ở vào những bước ngoặt lịch sử dân tộc, để
Việt Nam ta ngày càng có vị trí quan trọng trên trường quốc tế. Đồng hành với lịch sử
dân tộc, sự vận động của văn hoá Việt Nam ngày càng sinh động với sự lan toả, thăng
hoa rộng lớn, với chiều sâu thẳm tạo dựng nên gương mặt Việt Nam, với trí tuệ, khí
phách, cốt cách, phong thái và bản lĩnh Việt Nam không thể trộn lẫn trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập toàn cầu. Diễn đạt một cách xác
đáng, đó chính là văn hoá với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là "tấm văn cước"
dân tộc hội nhập quốc tế đầy thách thức "mất, còn" hiện nay.
Mặt khác, văn hoá còn mang trong nó tính vượt trước hay tính tiên phong so với
kinh tế - xã hội. Ở góc nhìn này, chúng ta thấy nổi bật lên những vấn đề về thế giới quan,
về chính trị, về khoa học và công nghệ, về giáo dục, về mô thức ứng xử dân tộc... thuộc
phạm trù văn hoá tinh thần, xét trong sự vận động tổng thể của toàn bộđời sống kinh tế
- xã hội đất nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi".
Rõ ràng, văn hoá không chỉ là nền tảng tinh thần mà đồng thời là một động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, một mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Vấn đề truyền thống và hiện đại, bản sắc văn hóa và xu thế phát triển của thời đại
Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, mang bản sắc dân tộc được Đảng và nhân
dân ta xác định là một trong các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó
chính là quá trình xử lý một cách khoa học các mối quan hệ hữu cơ giữa truyền thống
văn hoá và tính hiện đại của văn hoá, giữa văn hoá dân tộc và văn hoá thời đại để nhằm
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam vừa mang bản sắc dân tộc vừa ngang tầm với thời
đại, là một nhân tố bảo đảm cho cuộc hội nhập thế giới của đất nước một cách toàn diện, lOMoAR cPSD| 61409713
hiệu quả nhưng không bị "hoà tan", không biến thành bản sao của người khác hay rơi
vào vòng kiềm toả rồi trở thành nô lệ, phụ thuộc trong tay người khác.
Nói văn hoá trước hết là nói tới truyền thống. Văn hoá của bất kỳ dân tộc nào
cũng đều như thế, đều bắt đầu từ văn hoá truyền thống. Nó là sự tích tụ, hình thành nên
các giá trị lâu đời trong lịch sử xã hội, dân tộc. Còn hiện đại hoá? Một mặt, là kết quả
hoạt động sáng tạo chủ thể văn hoá dân tộc đương đại; và mặt khác, là sự thông thái
không hạn chế những tinh hoa từ mọi nguồn để tự bổ sung cho mình. Quan hệ giữa hai
mặt này như thế nào? Suốt thời gian dài, không ít người những tưởng rằng: càng hội
nhập càng tiến nhanh, muốn hiện đại hoá nhanh thì tất phải kích thích mạnh mẽ, nghĩa
là phủ nhận, thay đổi truyền thống bằng sự thúc ép cải tạo và dưới cái gọi là thừa kế
nhưng thực ra nhập từ bên ngoài vào...và đã phải trả giá. Qua đây, bài học thành bại trở
nên hết sức rõ ràng là, để hiện đại hoá, quyết không phải là phủ nhận văn hoá cổ truyền
nào đó, mà trái lại vấn đề là, phải biết xử lý văn hoá truyền thống với các giá trị của
chúng trong tiến trình hiện đại hoá, chứ không phải là xoá bỏ nó; phải duy trì sự phát
triển liên tục nó để đi vào hiện đại hoá. Nếu văn hoá truyền thống là nền tảng thì tính
hiện đại phải là sự củng cố cho nền tảng ấy ngày càng bền vững, sự thống nhất phải đạt
tới mức tính hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố của truyền thống văn hoá. Bởi lẽ, xét
về mặt phương pháp luận, hệ thống tồn tại và thay đổi dần tới trạng thái cuối cùng của
hệ thống cũ là hệ thống mới. Nó biến đổi nhưng không bao giờ đứt đoạn, biến chất
nhưng là kết quả của một quá trình liên tục. Phương thức này là tất yếu cho sự phát triển
mà chúng ta cần lựa chọn.
Mặt khác, không thể phát triển dân tộc nếu cắt đứt mối liên hệ với lịch sử, văn
hoá dân tộc và văn hoá thế giới. Đó là một quy luật. Phát triển phải được đặt trong tiến
trình lịch sử và môi trường văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại. Vấn đề bản sắc dân
tộc của văn hoá trong quá trình phát triển, vấn đề "hội nhâp nhưng có phải là hoà tan"?.
Trong xu thế toàn cầu hoá, đây vẫn là một trăn trở lớn, đang nổi lên như một yếu tố cần
thiết hàng đầu và dân tộc ta không thể lẩn tránh việc tìm ra đáp án đúng cho câu hỏi đó.
Nếu bản sắc văn hoá Việt Nam là sự tổng hoà những giá trị cơ bản, những yếu tố cốt lõi
được tích tụ, rèn đúc từ trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước làm nên bản
lĩnh, cốt cách, gương mặt của dân tộc một cách riêng biệt, không thể trộn lẫn với dân lOMoAR cPSD| 61409713
tộc khác thì cuộc hội nhập chính là thời cơ, là điều kiện, là môi trường để dân tộc thể
hiện mình, thâu hoá những thành tựu mới làm phong phú mình, nâng Việt
Nam lên một tầm cao mới, nhịp bước cùng thế giới đương đại.
4. Sự phát triển thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam
Hiện nay, chúng ta không những sống trong một thời kỳ phát triển lịch sử ngắn
hạn mà còn là thời kỳ đa dạng của sự phát triển. Sự phát triển của văn hoá cũng không
nằm ngoài xu thế vận động ấy. Không có nền văn hóa cao hay thấp, chỉ có những nền
văn hóa khác nhau. Chúng ta xây dựng một nền văn hoá Việt Nam thống nhất không có
nghĩa là biến nó thành một thứ khuôn sáo cứng nhắc đối với 54 dân tộc quần tụ và phát
triển trên mảnh đất Việt Nam buộc phải gò mình theo", mà trái lại. Sự thống nhất ở đây
là, hệ giá trị văn hoá Việt Nam, còn thực hiện như thế nào thì mỗi dân tộc, mỗi vùng
đất... với sự khác nhau về đặc điểm tâm lý, truyền thống riêng biệt sẽ lựa chọn và quyết
định các phương thức, bước đi, giải pháp và hình thức thể hiện một cách đa dạng và phù
hợp nhằm tự phát triển mình lên và làm phong phú thêm hệ giá trị văn hoá Việt Nam
trong quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Thời đại ngày nay, văn hoá trở thành động lực, trở thành mục tiêu của sự phát
triển. Nhưng thực tiễn của quá trình phát triển từ nhiều quốc gia cảnh báo những cái giá
phải trả một cách khủng khiếp đối với văn hoá, thậm chí gieo tai hoạ cho chính văn hoá,
khi phát triển bằng cách bất chấp tất cả: phá vỡ các nền văn hoá dân tộc, huỷ hoại nhiều
kiến thức quý giá của dân tộc, rút cuộc, phát triển biến thành phản phát triển.
Cho nên, chiến lược về văn hoá Việt Nam không chỉ dừng lại ở chỗ tìm một tiếng
nói chung về văn hoá của sự phát triển đất nước mạnh mẽ và bền vững, mà điều quan
trọng hơn, cần phải biến tiếng nói chung đó thành những giải pháp khả thi, có tính đồng
bộ và phù hợp cho toàn bộ các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiên đại hoá ở mỗi cộng đồng trong quốc gia Việt Nam
thống nhất. Đó chính là việc thiết lập một cơ chế vận hành văn hoá và văn hóa vận hành
thật sự khoa học và hiệu quả. Nói cụ thể hơn, phải kiến tạo và phát triển hàng loạt mối
quan hệ hữu cơ giữa văn hoá với chính trị, kinh tế với văn hoá, văn hoá với xã hội, và
ngược lại, nhằm xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa một cách văn hóa, xứng đáng là chủ nghĩa nhân đạo hoàn mĩ.