ĐỀ KIỂM TRA MÔN KHOA HỌC QUẢN LÝ
Bài 1: Thử tìm cách xử lý vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta
A- Mô tả tình huống
1.Trước đây, từ những năm 80 của thế kỷ 20 trở về trước
a. Tình hình sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta như sau:
- Chỉ có 2 thành phần sở hữu là quốc doanh và tập thể
- Thể hiện ở sự hiện diện 2 loại hình doanh nghiệp: xí nghiệp quốc doanh và HTX.
b. Mục đích xây dựng nền KTQD với 2 hình thức sở hữu về TLSX
- Thực hiện được mục tiêu lý tưởng là XHCN
- Tạo ra được một hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đồng thời cùng với tiền tuyến đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
2.Bước ngoặt lịch sử và tình huống khó xử về chế độ sở hữu về TLSX xuất hiện
a.Bước ngoặt lịch sử
Đang lúc sự việc xây dựng CNXH bằng con đường bỏ qua CNTB để tiến thẳng lên CNXH chưa
thành công, kết quả chưa được bao nhiêu thì đất nước ở vào tình thế mới:
- Liên xô và phần lớn các nước XHCN trong phe XHCN không còn.
- Thế giới tạm hoà hoãn, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ hiếm sang nhiều hội mở
cửa đa phương, với nội dung nhiều mặt.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã hoàn thành,
mục tiêu độc lập tự do đã đạt được.
- Nhân dân có nguyện vọng lớn là biến độc lập tự do thành ấm no hạnh phúc.
a. Y nghĩa thách thức của bối cảnh lịch sử mới
Thời cuộc mới đã đặt nước ta vào tình huống khó xử như sau:
- Tiếp tục xây dựng CNXH theo cách làm cũ là tiến thẳng lên CNXH, không cần kinh qua CNTB,
thậm chí không cần áp dụng cả một số hình thức kinh tế bản thì thiếu điều kiện. Đó là sự hậu
thuẫn của phe XHCN hoặc một số nước XHCN hùng cường, vì Liên và phần lớn phe XHCN
đã không còn.
- Nếu thiếu điều kiện bên ngoài cho phépvẫn kiên trì đường lối tiến thẳng lên CNXH thì theo
qui luật, do các nhà kinh điển CN Mác- Lênin vạch ra, quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Nếu lực lượng sản xuất không phát triển thì mức sống nhân dân sau chiến tranh khó mà được cải
thiện, chứ đừng nói đến sự cải thiện mau chóng.
- Trong khi đó, tình hình quốc tế buộc chúng ta phải mau chóng nâng cao mức sống nhân dân.
Bởi vì, nếu không mau chóng nâng cao mức sống nhân dân thì sẽ mất dân, sẽ không ổn định
được hội, từ đó sẽ không thể ổn định được chế độ chính trị. Cũng nghĩa thành quả độc
lập tự do được đổi bằng sự hy sinh của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu biến.
- Nhưng nếu không tiếp tục xây dựng CNXH theo cách làm tiến thẳng lên CNXH, không
cần kinh qua CNTB, đưa đất nước đi theo con đường TBCN thì đó sự phản bội. Hương
hồn của hàng triệu người đã khuất tuyệt đại bộ phận những người Việt Nam đang sống,
những người đã hy sinh trọn vẹn hoặc một phần đời mình cho lý tưởng độc lập, tự do và CNXH,
không cho phép Nhà nước lựa chọn con đường nào khác ngoài định hướng XHCN.
c. Bài toán tình huống
Có thể hình dung tình thế của nước ta, tình thế mà các nhà quản lý vĩ mô cần có giải pháp để thoát
ra là:
Phải xử lý vấn đề quan hệ sở hữu vềliệu sản xuất như thế nào để một mặt vẫn thực hiện được
tưởng XHCN xây dựng một hội không người bóc lột người. Mặt khác, vẫn thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, trong khi phe XHCN không còn hùng hậu như cũ.
Bài làm
1
1. Tư liệu sản xuất
Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư liệu sản xuất là tài sản vật chất đầu vào cần thiết được sử
dụng để tổ chức sản xuất và tạo ra các sản phẩm có giá trị phục vụ cho con người. Với phản ánh tính chất
mà C.Mác nêu ra, những hình thái tư liệu sản xuất được thể hiện rõ nét trong chủ nghĩa tư bản doanh
nghiệp.
2. Các yếu tố hình thành tư liệu sản xuất
Tới thời điểm hiện nay, quan điểm về tư liệu sản xuất đã có nhiều thay đổi. Một tư liệu sản xuất sẽ gồm có
2 điều kiện sau:
2.1 Đối tượng lao động
Đối tượng lao động là những đối tượng vật chất bị tác động và biến đổi bởi sức lao động của con người
nhằm phù hợp với mục đích sử dụng. Những đối tượng lao động sẽ là tiền đề cho tư liệu lao động trong
tương lai.
Ví dụ: Cây cối được khai thác để trở thành gỗ, là nguồn nguyên liệu cho sản xuất giấy sau này.
Có hai loại đối tượng lao động sau:
Đối tượng lao động tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên như đất đai, cây cối, khoáng sản, nguồn sinh
vật trên cạn và thuỷ sản đa dạng….)
Đối tượng lao động đã qua tay con người và được cải biến cấu trúc tự nhiên ban đầu. Thường là
đối tượng đặc trưng ngành công nghiệp chế biến (vải vóc, nguyên liệu cho xây dựng…)
Đối tượng lao động “nhân tạo" đang dần tăng mạnh để thay thế cho đối tượng lao động tự nhiên đang có
xu hướng cạn kiệt theo dòng phát triển của xu hướng công nghiệp hoá. Mặc dù vậy, cơ sở để tạo nên đối
tượng lao động chế biến đặc thù vẫn xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên. Nhận thức được vấn đề này, con
người nên có các chính sách phù hợp để khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên
nhiên.
2.2 Tư liệu lao động
Yếu tố vật chất trung gian mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động trở thành sản phẩm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình được gọi là tư liệu lao động.
Ví dụ: Con người sử dụng máy móc để khai thác khoáng sản phục vụ cho nhu cầu công nghiệp. Máy móc
chính là tư liệu lao động mà con người sử dụng.
Ngoài ra, một số đối tượng lao động của ngành này nhưng lại là tư liệu lao động của ngành khác như gỗ,
than đá,...
Công thức cho một tư liê nu lao đô nng gồm có:
+ Công cụ lao đônng là bôn phâ nn trực tiếp tác đônng lên đối tượng lao đônng nhằm làm biến đổi theo nhu cầu
sử dụng của người tiêu dùng. Đây là yếu tố cầu nối giữa đối tượng lao động và con người trong quá trình
sản xuất và cũng là yếu tố quyết định cho năng suất và chất lượng sản phẩm.
+ Phương tiện lao động bộ phận vật chất đi cùng với công cụ lao động được con người sử dụng để tác
động lên đối tượng lao động trong sản xuất, cụ thể là:
2
Bộ phận bình chứa: là những dụng cụ dùng để chứa đựng những sản phẩm thô (nguyên vật liệu, bán thành
phẩm…). Một số hệ thống bình chứa được sử dụng chủ yếu bao gồm: thùng, lọ, bình,….
n phânn gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất hay còn gọi là kết cấu hạ tầng như: các công trình xí
nghiệp nhà máy, giao thông vận tải, viễn thông,...Kết cấu hạ tầng có nhiệm vụ quan trọng cho các hoạt
động sản xuất tạo ra năng suất sản phẩm có chất lượng cũng như là các hoạt động tiêu dùng đáp ứng thoả
mãn nhu cầu cho con người ở mọi khía cạnh.
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại ngày nay, nguồn tư liệu lao động càng đóng vai trò
quan trọng quyết định đến hiệu suất sản xuất. C.Mác đã khẳng định "Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu
lao động nào".
Trong tư liệu lao động, công cụ lao đônng là căn cứ cơ bản mà dựa vào đó ta có thể đoán được trình đô n phát
triển của nền sản xuất xã hôni như thế nào. Một công cụ lao động hiện đại sẽ tạo tiền đề để phát triển nền
sản xuất mới, tối ưu và hiệu quả hơn.
3. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Sở hữu quan hệ hội giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải trong
hội nhất định, mối quan hệ này đòi hỏi phải hai người trở lên. Như vậy, sở
hữu về liệu sản xuất quan hệ giữa người người hoặc giữa các cộng đồng
người trong việc chiếm hữu về tư liệu sản xuất xã hội.
Sở hữu về liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác đây
quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Bởi lẽ, ai nắm trong tay liệu sản xuất,
người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm.
Sở hữu về tư liệu sản xuất hai hình thức bản, đó sở hữu nhân sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất.
4. Nhận thức về vấn đề sở hữu tư liệusản xuất
Về vị trí, hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta liên tục có bước tiến mới trong nhận thức về vị trí quan trọng của
vấn đề sở hữu sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII xác định sở hữu quan hệ sản xuất bộ
phận cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội. Như vậy, việc xác lập quyền làm chủ về tư liệu sản
xuất là nền tảng, mục tiêu, phương tiện để xây dựng xã hội mới.
Trong xây dựng hình kinh tế thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế” .
(2)
Theo Đại hội XI, nước ta có các hình thức shữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu nhân
sở hữu hỗn hợp. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế ý nghĩa quan trọng cho
sự hình thành phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng,
thế mạnh của các chủ sở hữu nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển.
Do đó, tạo nên sự cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Về bản chất của quan hệ sở hữu
3
Sở hữu quan hệ giữa người với người về sự chiếm hữu của cải hội, hình thức hội của
hành vi chiếm hữu trong các loại hình kinh tế - xã hội nhất định. Nội hàm của quan hệ này không
chỉ xác định chủ sở hữu liệu sản xuất còn xác định người sử dụng, quyền tổ chức quản lý,
điều hành phân phối lợi ích giữa các chủ thể kinh tế liên quan. Tất cả các vấn đề đó đều
phải được thực hiện theo quan hệ kinh tế và quan hệ pháp lý.
Các quan hệ kinh tế khi được điều chỉnh bởi pháp luật sẽ trở thành quan hệ pháp lý, tức được
Nhà nước chính thức thừa nhận các quyền sở hữu, quyền sử dụng các lợi ích kinh tế của các
chủ thể về liệu sản xuất, các kết quả lao động được tạo ra. Việc xác lập nội dung pháp của
sở hữu tạo nên nền tảng vững chắc, làm căn cứ cho các quan hệ sở hữu nói riêng quan hệ
kinh tế - hội nói chung. Đó tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững, hài hòa lợi ích
giữa các chủ thể trong xã hội.
Thể chế hóa quan hệ sở hữu tạo nên quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền điều
tiết, quyền thực hiện lợi ích kinh tế... Hai nhóm quyền bản nhất quyền sở hữu quyền sử
dụng. Trong thời kỳ đổi mới, hai nhóm quyền này có thể tách biệt tương đối ở các chủ thể kinh tế
khác nhau. Vấn đề này được đề cập tại Đại hội VII của Đảng: “Sửa đổi bổ sung các chế,
chính sách cần thiết để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền sở hữu quyền sử dụng,
quan hệ giữa Nhà nước và xí nghiệp quốc doanh” . Sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng
(3)
là thể hiện nhận thức sâu hơn về bản chất của quan hệ sở hữu.
5. Sự chuyển biến về sở hữu trong nền kinh tế thời kỳ đổi mới
Quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
Đa dạng hóa hình thức sở hữu liệu sản xuất tưởng nhất quán trong suốt gần 30 năm đổi
mới. Từ các hình thức sở hữu bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể sở hữu nhân đến
nay, hình thành 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nhân, kinh tế
vốn đầu nước ngoài, đã tạo nên sự phong phú các hình tổ chức sản xuất kinh doanh,
mang đến sức sống mới cho nền kinh tế. Quá trình đa dạng hóa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Tốc độ tăng trưởng GDP
trong gần 30 năm qua tương đối cao ổn định: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân
5,6%/năm (1986-1990); 7,5%/năm (1991 - 2000); 7,26%/năm (2001 - 2010); 5,61%/ năm (2011 -
2013). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 86 USD (1988) lên 2.050 USD (2014) . Việt Nam
(4)
đã thoát khỏi nhóm ớc nghèo, thu nhập thấp được xếp vào các nước thu nhập trung
bình. Cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại (cơ cấu kinh tế của nước công nghiệp) đang dần
dần được hình thành: tỷ trọng nông nghiệp từ 40,6% (1990) giảm xuống 18,12% (2014); công
nghiệp xây dựng 22,6% (1990) tăng lên 38,50% (2014); dịch vụ từ 38,6% (1990) tăng lên
43,38% (2014) .
(5)
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 53% (1993) xuống 8,2% (2014)
(6)
; hàng năm, thêm 1,2 triệu việc làm
mới, chất lượng cuộc sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; trình đ dân trí, chất
lượng nguồn nhân lực và tính năng động xã hội được nâng lên đáng kể.
Sở hữu tư liệu sản xuất trong doanh nghiệp nhà nướco
Trong thời kỳ đổi mới, sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước sự chuyển biến lớn do những sự
thay đổi về chế, chính sách, tổ chức sắp xếp, quản lý, phân phối trong doanh nghiệp nhà
nước. Việc tách quyền quản của Nhà nước với cách chủ sở hữu các tài sản của doanh
nghiệp quyền sử dụng các tài sản đó để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã tạo điều
kiện để các doanh nghiệp phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích ứng với
chế thị trường. Tổ chức, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hóa
các hình sản xuất - kinh doanh với cấu quy hợp lý: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước; tổ chức, củng cố, phát triển các tổng công ty nhà nước; sáp nhập, giải thể phá sản các
doanh nghiệp nhà nước yếu kém, thua lỗ kéo dài.oo
Đại hội VII xác định: “Sắp xếp lại củng cố các đơn vị kinh tế. Khẩn trương sắp xếp lại đổi
mới quản kinh tế quốc doanh... Tập trung lực lượng củng cố phát triển những sở trọng
điểm, những sở làm ăn có hiệu quả ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê,
chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không khả năng vươn lên.
Sắp xếp lại các liên hiệp nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong
chế thị trường” . Sau Đại hội VII, những vấn đề về sở hữu liệu sản xuất được thể hiện khá
(7)
đầy đủ trong Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995).
4
Qua các đợt sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, vấn đề sở hữu trong các doanh nghiệp
nhà nước đã thay đổi căn bản: làm tăng quá trình tích lũy tập trung vốn; tập trung các nguồn
lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà kinh tế nhà nước cần chi phối; huy động thêm vốn
để tạo tiềm lực phát triển; sử dụng có hiệu quả hơn các tài sản của Nhà nước.
Về sở hữu đất đai-
Nghị quyết Đại hội VII và các Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII (1991), Nghị quyết Trung ương 5
khóa VII (1993) xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai: Đất đai là thuộc sở hữu toàn
dân, giao cho Nhà nước thống nhất quản lý; người nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu
dài. Quyền sử dụng của hộ nông dân được thể hiện 5 quyền bản: Chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, kế thừa, thế chấp theo quy định của pháp luật. Quy định 5 quyền này của
người nông dân là bước quan trọng cho quan hệ ruộng đất vận động theo những quy luật kinh tế
khách quan, làm cho ruộng đất từ vị trí liệu sản xuất của nền kinh tế tự cung, tự cấp sang
trạng thái hàng hóa, được “mua, bán” quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII, Nghị quyết 06 NQ/TW của Bộ Chính trị về một số vấn đ về
phát triển nông nghiệp và nông thôn đã cụ thể hóa một số vấn đề về sở hữu như: đẩy mạnh việc
giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nông dân; quy định giá
đất khi chuyển nhượng, đền bù, thế chấp vay vốn; khuyến khích giúp đỡ các hộ nông dân đổi
đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. Những người không
phải nông dân được phép thuê quyền sử dụng đất trống, đồi núi trọc, đất bồi ven biển, đất
hoang hóa để đầu phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của luật pháp. Đây chủ
trương đúng đắn giúp tận dụng được nguồn lực quốc gia, phát triển kinh tế đất nước tạo
hội cho các chủ thể tiếp cận tư liệu sản xuất quan trọng trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Trong quá trình đổi mới nội dung quyền sở hữu đất đai ngày càng cụ thể hóa ba quyền của chủ
sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng quyền định đoạt). Nhà nước với cách chủ sở
hữu đất đai được toàn quyền trong việc thực hiện ba quyền đó, được quyết định mọi vấn đề
quan trọng nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp tiết kiệm. Đồng thời, Nhà ớc thực
hiện quyền sở hữu của mình bằng việc giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng;
nhà nước kiểm soát, chi phối mọi hoạt động của người sử dụng theo khuôn khổ của luật pháp với
quan điểm “làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận lợi… Giá bất
động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động đến giá đất trên bằng
các chính sách kinh tế vĩ mô trên sở quan hệ cung - cầu về đất đai”. Như vậy, quan điểm này
đã làm sở để xây dựng các chính sách về quyền sử dụng đất như hàng hóa trên thị trường để
giảm thiểu s lãng phí, đầu làm cho thị trường bất động nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà
nước.
Tuy nhiên, vấn đề tồn tại trong việc sở hữu đất đai hiện nay là: sự bất cập về chế độ sở hữu
sử dụng đất đai. Trên thực tế giải quyết “quyền sử dụng đất” “quyền sở hữu đất” chưa
ràng, còn sự “lấn lướt” lẫn nhau. Nguyên nhân cũng tồn tại lớn thứ hai trong vấn đề sở
hữu đất đai quản nnước về đất đai còn yếu kém: Quy hoạch sử dụng đất luôn bị phá vỡ;
vấn đề lấn chiếm, tham nhũng, đầu cơ đất đai gia tăng.
6. Giải pháp xử lý vấn đề quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất như thế nào để một mặt
vẫn thực hiện được lý tưởng XHCN là xây dựng một xã hội không có người bóc lột
người. Mặt khác, vẫn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, trong khi phe XHCN
không còn hùng hậu như cũ
1. Đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước, theo tinh thần Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khoá
IX) của Đảng.
5
Đây giải pháp hàng đầu, giải pháp này bắt nguồn từ kinh tế nhà nước nòng cốt
doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.Trong những năm gần
đây, mặc dầu doanh nghiệp nhà nước không giữ tỷ trọng tuyệt đối trong cấu thành GDP,
nhưng vẫn là lực lượng kinh tế mạnh nhất với 39,9% GDP, đóng góp 39,2% thu ngân sách
nhà nước 50% xuất khẩu. vậy, sắp xếp, đổi mới, phát triển phát triển nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trở thành giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính bản lâu dài. Tính cấp bách của giải pháp này thể hiện chỗ, kinh tế nhà nước
thành phần kinh tế về bản chất dựa trên sở sở hữu toàn dân. Thành phần kinh tế này
vững mạnh tức hình thức sở hữu toàn dân được tăng cường, củng cố định hướng
hội chủ nghĩa được giữ vững. Tính bản của giải pháp này thể hiện chỗ, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, trên cơ sở đa hình thức sở hữu là chủ trương nhất quán của Đảng
Nhà nước ta, được duy trì trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội. Do vậy,
kinh tế nhà nước nòng cốt doanh nghiệp nhà nước phải thường xuyên, liên tục giữ
vững vai trò định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Để giải pháp này trở thành
hoạt động thực tiễn, cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau :
- Kiên quyết thực hiện chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê những doanh
nghiệp nhà nước đã đưa vào kế hoạch.
- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đối với tất cả các loại hình doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời, phân định các loại hình doanh nghiệp công ích ngoài
công ích để áp dụng các cơ chế, chính sách phù hợp.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình sắp xếp, đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2. Tăng cường các biện pháp xây dựng Nhà nước của dân, do dân dân ngày càng
vững mạnh và trong sạch.
Bất kỳ chế độ chính trị hội nào đều cần một nhà nước mạnh để quả kinh tế
hội. Đối với nước ta, Nhà nước Nhà nước của dân, do dân dân, nhà nước đó mang
bản chất giai cấp công nhân. C.Mác đã khẳng định: "Giữa hội bản chủ nghĩa
hội cộng sản là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
6
thời kỳ ấy một thời kỳ quá độ chính trị, nhà nước của thời kỳ ấy không thể cái
khác hơn là nền chuyên chính của giai cấp vô sản".
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, nhiều hình
thức sở hữu, ràng chúng ta cần một nhà nước đủ mạnh để định hướng hội chủ
nghĩa cho toàn bộ nền kinh tế. Một Nhà nước mạnh phải nhà nước trình độ năng
lực tổ chức quản tốt kinh tế hội, đồng thời phải một nhà nước trong sạch. Trên
thực tế, bộ máy nhà nước của ta còn cồng kềnh, trình độ tổ chức, quản kinh tế hội
còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, nạn tham nhũng, tệ quan liêu còn tràn nan, đây thực sự
những vấn đề nhức nhối của đất nước. vậy, tăng cường các biện pháp xây dựng nhà
nước của dân, do dân, dân ngày càng vững mạnh trong sạch trở thành giải pháp quan
trọng, nhằm giữ vững định hướng hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta, trong điều kiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu. Muốn vậy, theo chúng tôi, cần tiến hành một số biện pháp
bản sau :
- Kiên quyết sắp xếp, tinh giảm hơn nữa bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
- Xây dựng cơ chế chính sách thích hợp nhằm đào tạotuyển lựa một đội ngũ cán bộ,
công chức thực tài cho bộ máy nhà nước các cấp, đủ trình độ năng lực tổ chức, quản
lý nền kinh tế đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện chế dân biết, dân làm,
dân kiểm tra để hạn chế từng bước và tiến đến triệt tiêu nạn tham nhũng, tệ quan liêu trong
bộ máy nhà nước.
- Giữ vững tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân của bộ máy nhà nước,
trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
3. Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mỗi một chế độ chính trị, xã hội khác nhau, có một hệ thống luật pháp riêng. Hệ thống luật
pháp đó mang bản chất của giai cấp thống trị, phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp
sinh ra nó. Trong quá trình đổi mới toàn diện kinh tế hội của đất nước, tất yếu phải xây
dựng hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với điều kiện kinh tế hội mới. Đây
giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi vì, trước đổi mới, hệ thống luật pháp của nước ta
được xây dựng theo hướng bảo đảm hành lang pháp cho kinh tế quốc doanh tập thể
7
hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu. Ngày nay, hệ thống luật pháp phải đảm bảo
hành lang pháp cho mọi thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa. Với yêu cầu như vậy, cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- soát lại hệ thống luật pháp hiện có, một mặt, loại bỏ những luật pháp không còn phù
hợp, mặt khác, kịp thời ban hành, bổ sung những luật pháp mới cho phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế – xã hội.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho mọi người dân thuộc mọi
thành phần kinh tế để họ tự giác chấp hành luật pháp, trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát việc thực thi luật pháp của mọi thành phần
kinh tế, thưởng phạt phân minh, nhằm tăng hiệu lực của luật pháp, đồng thời, phát hiện
những khiếm khuyết của hệ thống luật pháp, để sửa đổi bổ sung kịp thời.
4. Tăng cường hợp tác quốc tế:
Học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xử lý vấn đề sở hữu, phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Mở rộng hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin(GS.TS.PhạmVănĐứcchủbiên)
2.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(ĐạihộiVIcủa
ĐảngCộngsảnViệtNam)
3.Tạp chí Triết học:https://vjol.info.vn/index.php/phil
4. Báo Nhân dân:https://nhandan.vn/
5. Cổng thông tin điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam:https://dangcongsan.vn/
6. Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và các hình thức sở hữu(https://accgroup.vn/quan-he-
so-huu-doi-voi-tu-lieu-san-xuat)
8
7.Vai trò của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong xã hội(https://accgroup.vn/quan-he-so-
huu-doi-voi-tu-lieu-san-xuat)
8.Trần Thị Hằng, Nguyễn Thị Hoài Thu (2019), Vận dụng luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sở hữu trong nền kinh tế số, Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2019;
9.C Mác v Ph. ngghen (1980), Tuy n t p, NXB S th t, H N ià Ă à
9

Preview text:

ĐỀ KIỂM TRA MÔN KHOA HỌC QUẢN LÝ
Bài 1: Thử tìm cách xử lý vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta
A- Mô tả tình huống
1.Trước đây, từ những năm 80 của thế kỷ 20 trở về trước
a. Tình hình sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta như sau:
- Chỉ có 2 thành phần sở hữu là quốc doanh và tập thể
- Thể hiện ở sự hiện diện 2 loại hình doanh nghiệp: xí nghiệp quốc doanh và HTX.
b. Mục đích xây dựng nền KTQD với 2 hình thức sở hữu về TLSX
- Thực hiện được mục tiêu lý tưởng là XHCN
- Tạo ra được một hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đồng thời cùng với tiền tuyến đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
2.Bước ngoặt lịch sử và tình huống khó xử về chế độ sở hữu về TLSX xuất hiện a.Bước ngoặt lịch sử
Đang lúc sự việc xây dựng CNXH bằng con đường bỏ qua CNTB để tiến thẳng lên CNXH chưa
thành công, kết quả chưa được bao nhiêu thì đất nước ở vào tình thế mới:
- Liên xô và phần lớn các nước XHCN trong phe XHCN không còn.
- Thế giới tạm hoà hoãn, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ hiếm có sang có nhiều cơ hội mở
cửa đa phương, với nội dung nhiều mặt.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã hoàn thành,
mục tiêu độc lập tự do đã đạt được.
- Nhân dân có nguyện vọng lớn là biến độc lập tự do thành ấm no hạnh phúc.
a. Y nghĩa thách thức của bối cảnh lịch sử mới
Thời cuộc mới đã đặt nước ta vào tình huống khó xử như sau:
- Tiếp tục xây dựng CNXH theo cách làm cũ là tiến thẳng lên CNXH, không cần kinh qua CNTB,
thậm chí không cần áp dụng cả một số hình thức kinh tế tư bản thì thiếu điều kiện. Đó là sự hậu
thuẫn của phe XHCN hoặc một số nước XHCN hùng cường, vì Liên xô và phần lớn phe XHCN đã không còn.
- Nếu thiếu điều kiện bên ngoài cho phép mà vẫn kiên trì đường lối tiến thẳng lên CNXH thì theo
qui luật, do các nhà kinh điển CN Mác- Lênin vạch ra, quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Nếu lực lượng sản xuất không phát triển thì mức sống nhân dân sau chiến tranh khó mà được cải
thiện, chứ đừng nói đến sự cải thiện mau chóng.
- Trong khi đó, tình hình quốc tế buộc chúng ta phải mau chóng nâng cao mức sống nhân dân.
Bởi vì, nếu không mau chóng nâng cao mức sống nhân dân thì sẽ mất dân, sẽ không ổn định
được xã hội, từ đó sẽ không thể ổn định được chế độ chính trị. Cũng có nghĩa là thành quả độc
lập tự do được đổi bằng sự hy sinh của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu biến.
- Nhưng nếu không tiếp tục xây dựng CNXH theo cách làm cũ là tiến thẳng lên CNXH, không
cần kinh qua CNTB, mà đưa đất nước đi theo con đường TBCN thì đó là sự phản bội. Hương
hồn của hàng triệu người đã khuất và tuyệt đại bộ phận những người Việt Nam đang sống,
những người đã hy sinh trọn vẹn hoặc một phần đời mình cho lý tưởng độc lập, tự do và CNXH,
không cho phép Nhà nước lựa chọn con đường nào khác ngoài định hướng XHCN. c. Bài toán tình huống
Có thể hình dung tình thế của nước ta, tình thế mà các nhà quản lý vĩ mô cần có giải pháp để thoát ra là:
Phải xử lý vấn đề quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất như thế nào để một mặt vẫn thực hiện được
lý tưởng XHCN là xây dựng một xã hội không có người bóc lột người. Mặt khác, vẫn thúc đẩy lực

lượng sản xuất phát triển, trong khi phe XHCN không còn hùng hậu như cũ. Bài làm 1
1. Tư liệu sản xuất
Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư liệu sản xuất là tài sản vật chất đầu vào cần thiết được sử
dụng để tổ chức sản xuất và tạo ra các sản phẩm có giá trị phục vụ cho con người. Với phản ánh tính chất
mà C.Mác nêu ra, những hình thái tư liệu sản xuất được thể hiện rõ nét trong chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp.
2. Các yếu tố hình thành tư liệu sản xuất
Tới thời điểm hiện nay, quan điểm về tư liệu sản xuất đã có nhiều thay đổi. Một tư liệu sản xuất sẽ gồm có 2 điều kiện sau:
2.1 Đối tượng lao động
Đối tượng lao động là những đối tượng vật chất bị tác động và biến đổi bởi sức lao động của con người
nhằm phù hợp với mục đích sử dụng. Những đối tượng lao động sẽ là tiền đề cho tư liệu lao động trong tương lai.
Ví dụ: Cây cối được khai thác để trở thành gỗ, là nguồn nguyên liệu cho sản xuất giấy sau này.
Có hai loại đối tượng lao động sau:
 Đối tượng lao động tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên như đất đai, cây cối, khoáng sản, nguồn sinh
vật trên cạn và thuỷ sản đa dạng….)
 Đối tượng lao động đã qua tay con người và được cải biến cấu trúc tự nhiên ban đầu. Thường là
đối tượng đặc trưng ngành công nghiệp chế biến (vải vóc, nguyên liệu cho xây dựng…)
Đối tượng lao động “nhân tạo" đang dần tăng mạnh để thay thế cho đối tượng lao động tự nhiên đang có
xu hướng cạn kiệt theo dòng phát triển của xu hướng công nghiệp hoá. Mặc dù vậy, cơ sở để tạo nên đối
tượng lao động chế biến đặc thù vẫn xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên. Nhận thức được vấn đề này, con
người nên có các chính sách phù hợp để khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. 2.2 Tư liệu lao động
Yếu tố vật chất trung gian mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động trở thành sản phẩm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình được gọi là tư liệu lao động.
Ví dụ: Con người sử dụng máy móc để khai thác khoáng sản phục vụ cho nhu cầu công nghiệp. Máy móc
chính là tư liệu lao động mà con người sử dụng.
Ngoài ra, một số đối tượng lao động của ngành này nhưng lại là tư liệu lao động của ngành khác như gỗ, than đá,...
Công thức cho một tư liê n u lao đô n ng gồm có: + Công cụ lao đô n ng là bô n phâ n n trực tiếp tác đô n
ng lên đối tượng lao đô n
ng nhằm làm biến đổi theo nhu cầu
sử dụng của người tiêu dùng. Đây là yếu tố cầu nối giữa đối tượng lao động và con người trong quá trình
sản xuất và cũng là yếu tố quyết định cho năng suất và chất lượng sản phẩm.
+ Phương tiện lao động bộ phận vật chất đi cùng với công cụ lao động được con người sử dụng để tác
động lên đối tượng lao động trong sản xuất, cụ thể là: 2
Bộ phận bình chứa: là những dụng cụ dùng để chứa đựng những sản phẩm thô (nguyên vật liệu, bán thành
phẩm…). Một số hệ thống bình chứa được sử dụng chủ yếu bao gồm: thùng, lọ, bình,…. Bô n phâ n
n gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất hay còn gọi là kết cấu hạ tầng như: các công trình xí
nghiệp nhà máy, giao thông vận tải, viễn thông,...Kết cấu hạ tầng có nhiệm vụ quan trọng cho các hoạt
động sản xuất tạo ra năng suất sản phẩm có chất lượng cũng như là các hoạt động tiêu dùng đáp ứng thoả
mãn nhu cầu cho con người ở mọi khía cạnh.
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại ngày nay, nguồn tư liệu lao động càng đóng vai trò
quan trọng quyết định đến hiệu suất sản xuất. C.Mác đã khẳng định "Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Trong tư liệu lao động, công cụ lao đô n
ng là căn cứ cơ bản mà dựa vào đó ta có thể đoán được trình đô n phát
triển của nền sản xuất xã hô n
i như thế nào. Một công cụ lao động hiện đại sẽ tạo tiền đề để phát triển nền
sản xuất mới, tối ưu và hiệu quả hơn.
3. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải trong
xã hội nhất định, mối quan hệ này đòi hỏi phải có hai người trở lên. Như vậy, sở
hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa người và người hoặc giữa các cộng đồng
người trong việc chiếm hữu về tư liệu sản xuất xã hội.
Sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác vì đây là
quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Bởi lẽ, ai nắm trong tay tư liệu sản xuất,
người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm.
Sở hữu về tư liệu sản xuất có hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu
xã hội về tư liệu sản xuất.
4. Nhận thức về vấn đề sở hữu tư liệusản xuất
Về vị trí, hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta liên tục có bước tiến mới trong nhận thức về vị trí quan trọng của
vấn đề sở hữu và sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII xác định sở hữu và quan hệ sản xuất là bộ
phận cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội. Như vậy, việc xác lập quyền làm chủ về tư liệu sản
xuất là nền tảng, mục tiêu, phương tiện để xây dựng xã hội mới.
Trong xây dựng mô hình kinh tế thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế” (2).
Theo Đại hội XI, ở nước ta có các hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và
sở hữu hỗn hợp. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng cho
sự hình thành và phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng,
thế mạnh của các chủ sở hữu và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển.
Do đó, tạo nên sự cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Về bản chất của quan hệ sở hữu 3
Sở hữu là quan hệ giữa người với người về sự chiếm hữu của cải xã hội, là hình thức xã hội của
hành vi chiếm hữu trong các loại hình kinh tế - xã hội nhất định. Nội hàm của quan hệ này không
chỉ xác định chủ sở hữu tư liệu sản xuất mà còn xác định người sử dụng, quyền tổ chức quản lý,
điều hành và phân phối lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan. Tất cả các vấn đề đó đều
phải được thực hiện theo quan hệ kinh tế và quan hệ pháp lý.
Các quan hệ kinh tế khi được điều chỉnh bởi pháp luật sẽ trở thành quan hệ pháp lý, tức là được
Nhà nước chính thức thừa nhận các quyền sở hữu, quyền sử dụng và các lợi ích kinh tế của các
chủ thể về tư liệu sản xuất, các kết quả lao động được tạo ra. Việc xác lập nội dung pháp lý của
sở hữu tạo nên nền tảng vững chắc, làm căn cứ cho các quan hệ sở hữu nói riêng và quan hệ
kinh tế - xã hội nói chung. Đó là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững, hài hòa lợi ích
giữa các chủ thể trong xã hội.
Thể chế hóa quan hệ sở hữu tạo nên quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền điều
tiết, quyền thực hiện lợi ích kinh tế... Hai nhóm quyền cơ bản nhất là quyền sở hữu và quyền sử
dụng. Trong thời kỳ đổi mới, hai nhóm quyền này có thể tách biệt tương đối ở các chủ thể kinh tế
khác nhau. Vấn đề này được đề cập tại Đại hội VII của Đảng: “Sửa đổi và bổ sung các cơ chế,
chính sách cần thiết để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng,
quan hệ giữa Nhà nước và xí nghiệp quốc doanh”(3). Sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng
là thể hiện nhận thức sâu hơn về bản chất của quan hệ sở hữu.
5. Sự chuyển biến về sở hữu trong nền kinh tế thời kỳ đổi mới
Quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
Đa dạng hóa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là tư tưởng nhất quán trong suốt gần 30 năm đổi
mới. Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân đến
nay, hình thành 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, đã tạo nên sự phong phú các mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh,
mang đến sức sống mới cho nền kinh tế. Quá trình đa dạng hóa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Tốc độ tăng trưởng GDP
trong gần 30 năm qua tương đối cao và ổn định: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân
5,6%/năm (1986-1990); 7,5%/năm (1991 - 2000); 7,26%/năm (2001 - 2010); 5,61%/ năm (2011 -
2013). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 86 USD (1988) lên 2.050 USD (2014)(4). Việt Nam
đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, thu nhập thấp và được xếp vào các nước có thu nhập trung
bình. Cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại (cơ cấu kinh tế của nước công nghiệp) đang dần
dần được hình thành: tỷ trọng nông nghiệp từ 40,6% (1990) giảm xuống 18,12% (2014); công
nghiệp và xây dựng 22,6% (1990) tăng lên 38,50% (2014); dịch vụ từ 38,6% (1990) tăng lên 43,38% (2014)(5).
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 53% (1993) xuống 8,2% (2014)(6); hàng năm, có thêm 1,2 triệu việc làm
mới, chất lượng cuộc sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; trình độ dân trí, chất
lượng nguồn nhân lực và tính năng động xã hội được nâng lên đáng kể.
Sở hữu tư liệu sản xuất trong doanh nghiệp nhà nướco
Trong thời kỳ đổi mới, sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước có sự chuyển biến lớn do những sự
thay đổi về cơ chế, chính sách, tổ chức sắp xếp, quản lý, phân phối trong doanh nghiệp nhà
nước. Việc tách quyền quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu các tài sản của doanh
nghiệp và quyền sử dụng các tài sản đó để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã tạo điều
kiện để các doanh nghiệp phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích ứng với cơ
chế thị trường. Tổ chức, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hóa
các mô hình sản xuất - kinh doanh với cơ cấu và quy mô hợp lý: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước; tổ chức, củng cố, phát triển các tổng công ty nhà nước; sáp nhập, giải thể và phá sản các
doanh nghiệp nhà nước yếu kém, thua lỗ kéo dài.oo
Đại hội VII xác định: “Sắp xếp lại và củng cố các đơn vị kinh tế. Khẩn trương sắp xếp lại và đổi
mới quản lý kinh tế quốc doanh... Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở trọng
điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê,
chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên.
Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong
cơ chế thị trường”(7). Sau Đại hội VII, những vấn đề về sở hữu tư liệu sản xuất được thể hiện khá
đầy đủ trong Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995). 4
Qua các đợt sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, vấn đề sở hữu trong các doanh nghiệp
nhà nước đã thay đổi căn bản: làm tăng quá trình tích lũy và tập trung vốn; tập trung các nguồn
lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà kinh tế nhà nước cần chi phối; huy động thêm vốn
để tạo tiềm lực phát triển; sử dụng có hiệu quả hơn các tài sản của Nhà nước.
Về sở hữu đất đai-
Nghị quyết Đại hội VII và các Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII (1991), Nghị quyết Trung ương 5
khóa VII (1993) xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai: Đất đai là thuộc sở hữu toàn
dân, giao cho Nhà nước thống nhất quản lý; người nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu
dài. Quyền sử dụng của hộ nông dân được thể hiện ở 5 quyền cơ bản: Chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, kế thừa, thế chấp theo quy định của pháp luật. Quy định 5 quyền này của
người nông dân là bước quan trọng cho quan hệ ruộng đất vận động theo những quy luật kinh tế
khách quan, làm cho ruộng đất từ vị trí là tư liệu sản xuất của nền kinh tế tự cung, tự cấp sang
trạng thái hàng hóa, được “mua, bán” quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII, Nghị quyết 06 NQ/TW của Bộ Chính trị về một số vấn đề về
phát triển nông nghiệp và nông thôn đã cụ thể hóa một số vấn đề về sở hữu như: đẩy mạnh việc
giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nông dân; quy định giá
đất khi chuyển nhượng, đền bù, thế chấp vay vốn; khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi
đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. Những người không
phải là nông dân được phép thuê quyền sử dụng đất trống, đồi núi trọc, đất bồi ven biển, đất
hoang hóa để đầu tư phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của luật pháp. Đây là chủ
trương đúng đắn giúp tận dụng được nguồn lực quốc gia, phát triển kinh tế đất nước và tạo cơ
hội cho các chủ thể tiếp cận tư liệu sản xuất quan trọng trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Trong quá trình đổi mới nội dung quyền sở hữu đất đai ngày càng cụ thể hóa ba quyền của chủ
sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt). Nhà nước với tư cách là chủ sở
hữu đất đai được toàn quyền trong việc thực hiện ba quyền đó, được quyết định mọi vấn đề
quan trọng nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Đồng thời, Nhà nước thực
hiện quyền sở hữu của mình bằng việc giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng;
nhà nước kiểm soát, chi phối mọi hoạt động của người sử dụng theo khuôn khổ của luật pháp với
quan điểm “làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận lợi… Giá bất
động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động đến giá đất trên bằng
các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ sở quan hệ cung - cầu về đất đai”. Như vậy, quan điểm này
đã làm cơ sở để xây dựng các chính sách về quyền sử dụng đất như hàng hóa trên thị trường để
giảm thiểu sự lãng phí, đầu cơ làm cho thị trường bất động nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước.
Tuy nhiên, vấn đề tồn tại trong việc sở hữu đất đai hiện nay là: sự bất cập về chế độ sở hữu và
sử dụng đất đai. Trên thực tế giải quyết “quyền sử dụng đất” và “quyền sở hữu đất” chưa rõ
ràng, còn có sự “lấn lướt” lẫn nhau. Nguyên nhân và cũng là tồn tại lớn thứ hai trong vấn đề sở
hữu đất đai là quản lý nhà nước về đất đai còn yếu kém: Quy hoạch sử dụng đất luôn bị phá vỡ;
vấn đề lấn chiếm, tham nhũng, đầu cơ đất đai gia tăng.
6. Giải pháp xử lý vấn đề quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất như thế nào để một mặt
vẫn thực hiện được lý tưởng XHCN là xây dựng một xã hội không có người bóc lột
người. Mặt khác, vẫn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, trong khi phe XHCN
không còn hùng hậu như cũ
1. Đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước, theo tinh thần Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khoá IX) của Đảng. 5
Đây là giải pháp hàng đầu, giải pháp này bắt nguồn từ kinh tế nhà nước mà nòng cốt là
doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.Trong những năm gần
đây, mặc dầu doanh nghiệp nhà nước không giữ tỷ trọng tuyệt đối trong cấu thành GDP,
nhưng vẫn là lực lượng kinh tế mạnh nhất với 39,9% GDP, đóng góp 39,2% thu ngân sách
nhà nước và 50% xuất khẩu. Vì vậy, sắp xếp, đổi mới, phát triển và phát triển nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trở thành giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính cơ bản lâu dài. Tính cấp bách của giải pháp này thể hiện ở chỗ, kinh tế nhà nước là
thành phần kinh tế về bản chất dựa trên cơ sở sở hữu toàn dân. Thành phần kinh tế này
vững mạnh tức là hình thức sở hữu toàn dân được tăng cường, củng cố và định hướng xã
hội chủ nghĩa được giữ vững. Tính cơ bản của giải pháp này thể hiện ở chỗ, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, trên cơ sở đa hình thức sở hữu là chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta, được duy trì trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy,
kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước phải thường xuyên, liên tục giữ
vững vai trò định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Để giải pháp này trở thành
hoạt động thực tiễn, cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau :
- Kiên quyết thực hiện chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê những doanh
nghiệp nhà nước đã đưa vào kế hoạch.
- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đối với tất cả các loại hình doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời, phân định rõ các loại hình doanh nghiệp công ích và ngoài
công ích để áp dụng các cơ chế, chính sách phù hợp.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình sắp xếp, đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2. Tăng cường các biện pháp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân ngày càng
vững mạnh và trong sạch.
Bất kỳ chế độ chính trị – xã hội nào đều cần có một nhà nước mạnh để quả lý kinh tế – xã
hội. Đối với nước ta, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước đó mang
bản chất giai cấp công nhân. C.Mác đã khẳng định: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với 6
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính của giai cấp vô sản".
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều hình
thức sở hữu, rõ ràng chúng ta cần có một nhà nước đủ mạnh để định hướng xã hội chủ
nghĩa cho toàn bộ nền kinh tế. Một Nhà nước mạnh phải là nhà nước có trình độ và năng
lực tổ chức quản lý tốt kinh tế – xã hội, đồng thời phải là một nhà nước trong sạch. Trên
thực tế, bộ máy nhà nước của ta còn cồng kềnh, trình độ tổ chức, quản lý kinh tế – xã hội
còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, nạn tham nhũng, tệ quan liêu còn tràn nan, đây thực sự là
những vấn đề nhức nhối của đất nước. Vì vậy, tăng cường các biện pháp xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân ngày càng vững mạnh và trong sạch trở thành giải pháp quan
trọng, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta, trong điều kiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu. Muốn vậy, theo chúng tôi, cần tiến hành một số biện pháp cơ bản sau :
- Kiên quyết sắp xếp, tinh giảm hơn nữa bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
- Xây dựng cơ chế và chính sách thích hợp nhằm đào tạo và tuyển lựa một đội ngũ cán bộ,
công chức thực tài cho bộ máy nhà nước các cấp, có đủ trình độ và năng lực tổ chức, quản
lý nền kinh tế đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và thực hiện cơ chế dân biết, dân làm,
dân kiểm tra để hạn chế từng bước và tiến đến triệt tiêu nạn tham nhũng, tệ quan liêu trong bộ máy nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân của bộ máy nhà nước,
trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
3. Từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mỗi một chế độ chính trị, xã hội khác nhau, có một hệ thống luật pháp riêng. Hệ thống luật
pháp đó mang bản chất của giai cấp thống trị, phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp
sinh ra nó. Trong quá trình đổi mới toàn diện kinh tế xã hội của đất nước, tất yếu phải xây
dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội mới. Đây là
giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi vì, trước đổi mới, hệ thống luật pháp của nước ta
được xây dựng theo hướng bảo đảm hành lang pháp lý cho kinh tế quốc doanh và tập thể 7
hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ yếu. Ngày nay, hệ thống luật pháp phải đảm bảo
hành lang pháp lý cho mọi thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa. Với yêu cầu như vậy, cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- Rà soát lại hệ thống luật pháp hiện có, một mặt, loại bỏ những luật pháp không còn phù
hợp, mặt khác, kịp thời ban hành, bổ sung những luật pháp mới cho phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế – xã hội.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho mọi người dân thuộc mọi
thành phần kinh tế để họ tự giác chấp hành luật pháp, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát việc thực thi luật pháp của mọi thành phần
kinh tế, thưởng phạt phân minh, nhằm tăng hiệu lực của luật pháp, đồng thời, phát hiện
những khiếm khuyết của hệ thống luật pháp, để sửa đổi bổ sung kịp thời.
4. Tăng cường hợp tác quốc tế:
Học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xử lý vấn đề sở hữu, phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam. 
Mở rộng hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin(GS.TS.PhạmVănĐứcchủbiên)
2.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(ĐạihộiVIcủa
ĐảngCộngsảnViệtNam)
3.Tạp chí Triết học:https://vjol.info.vn/index.php/phil
4. Báo Nhân dân:https://nhandan.vn/
5. Cổng thông tin điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam:https://dangcongsan.vn/
6. Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và các hình thức sở hữu(https://accgroup.vn/quan-he-
so-huu-doi-voi-tu-lieu-san-xuat) 8
7.Vai trò của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong xã hội(https://accgroup.vn/quan-he-so- huu-doi-voi-tu-lieu-san-xuat)
8.Trần Thị Hằng, Nguyễn Thị Hoài Thu (2019), Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sở hữu trong nền kinh tế số, Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2019;
9.C Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội 9