Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Chân trời sáng tạo

Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông được biên soạn ra cho các em học sinh tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức để chuẩn bị thật tốt cho kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Dàn ý phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông
Dàn ý 1
1. M bài
- Gii thiu tác gi:
Guy Đơ -pa-xăng được người ta biết đến nhà văn hiện thc ni
tiếng ca Pháp vào thế k XIV.
Ông đã để li nhiu tác phm giàu giá tr nhân đạo.
- Gii thiu tác phm: "B ca Xi-mông" là mt trong s rt nhiu tác phẩm đặc
sc ca ông.
2. Thân bài
* Khái quát chung
- Tóm tt tác phm:
Tác phm câu chuyn k v cuc đời ca Xi-mông, mt thiếu tình
cha t nh.
M ca Xi-mông mt mình sinh ra Xi-mông hai m con cùng nhau
sng trong mt ngôi nhà nh.
Xi-mông lớn lên, đến trường và b các bạn trêu đùa, bn ct không
cha.
Ri cu bé gặp được bác Phi-líp, mong mun bác làm cha ca mình và
bác đã đồng ý.
thương Xi-mông, bác Phi-líp đã cầu hôn m cu cu mt
ngưi cha tht s.
* Phân tích c th
- Nhân vt cu bé Xi-mông:
cu cuc sng thiếu thn c vt cht ln tinh thần: "Nó độ by,
tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sch s, v nhút nhát, gần như vụng di".
một đứa tr bt hnh, luôn vi sng vi nỗi đau không b: mun
tìm đến cái chết, mun bác Phi-líp làm cha mình.
- Nhân vật bà Blăng-st:
Là một người ph n xinh đẹp nhất vùng nhưng tính lại d tin người → bị
một người đàn ông lừa di, ph tình nguyên nhân khiến con ca
mình không có cha.
Là một người m hết mực yêu thương con của mình.
- Nhân vt bác Phi-líp: Là một người đàn ông nhân hu, v tha: yêu thương Xi-
mông ngay t lần đầu tiên gp g, cu hôn m Xi-mông vì thương cậu bé.
3. Kết bài
Khẳng định li giá tr ca tác phm: - Th hiện tình yêu thương của tác
gi → giá trị nhân đạo ca tác phm.
Dàn ý 2
I.Mở bài:
Giới thiệu vài nét về tác giả Đi-phô: Một nhà văn, nhà báo, học giả kinh
tế người Anh.
Khái quát về đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang: trích từ tiểu thuyết
- bin- xơn Cru- xô(1719) khắc họa rõ nét hình tượng nhân vật Rô- bin-
xơn.
II.Thân bài:
1. Cảm nhận về chân dung của chúa đảo
- Chân dung: mọi người hoảng sợ, cười sằng sặc.
Nghệ thuật đối lập, giọng giễu cợt, hài hước Khẳng định chân dung lạ,
quái đản và tức cười.
2. Trang phục của chúa đảo
- Trang phục: Kỳ quặc, kì dị, kì quái, lạ lùng, lố lăng và nực cười.
Mũ: to tướng, cao lêu đêu.
Áo: dài lưng chừng bắp đùi.
Quần: loe bằng da dê, đến đầu gối.
Giày: tự tạo, hình dáng kỳ cục
- Trang bị của chúa đảo:
Thắt lưng: rộng bản, đeo cưa và rìu nhỏ.
Đạn, dù, súng.
Nghệ thuật miêu tả Trang phục độc đáo, hết sức đặc biệt.
3. Diện mạo của chúa đảo
Da: Không đến nỗi đen cháy.
Râu cắt gọn.
Ria mép: to tướng kiểu Hồi giá.
Với giọng điệu khôi hài và thủ pháp so sánh Tác giả khắc họa diện mạo kì
quái của Rô-bin-xơn.
Khi khắc họa bức chân dung của mình, -bin-xơn không hề tỏ ra than
phiền, đau khổ Qua đó chứng tỏ một tinh thần rất lạc quan của một con người
can đảm, làm chủ vận mệnh của mình.
III. Kết bài:
- Khái quát lại những nét đặc sắc vnội dung nghệ thuật của đoạn trích: Với
nghệ thuật miêu tả, khắc họa diện mạo nhân vật được sử dụng thành công, nghệ
thuật kể chuyện hấp dẫn đoạn trích khắc họa nhân vật -bin-xơn độc đáo,
kỳ dị về ngoại hình nhưng tinh thần lại lạc quan, làm chủ mình.
- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Rô-bin-xơn xứng đáng là tấm
gương để mỗi cá nhân học tập.
Phân tích truyện Bố của Xi-mông
Guy Đơ Mô-pa-xăng được người ta biết đến là nhà văn hiện thc ni tiếng ca
Pháp vào thế k XIV. Vi qua nhiều thăng trầm, cay đắng trong cuc sống đã
biến nhng trang viết của ông thành áng văn giàu giá trị nhân đạo. Mô-pa-xăng
có mt s ng tác phẩm vô cùng đồ s gm nhiu th loi t truyn ngn, tiu
thuyết đến kch. "B ca Xi-mông" là mt trong s rt nhiu tác phẩm đặc sc
ca ông. Tác phẩm đã để li rt nhiu giá tr cho người đọc.
"B ca Xi-mông" là câu chuyn k v cuộc đời ca Xi-mông, mt cu bé ngay
t khi sinh ra đã không được sống trong tình yêu thương của cha. M ca cu là
bà Blăng-st. Thi còn tr bà là cô gái xinh đẹp nht vùng, thế nhưng lại b mt
gã đàn ông tệ bc, la di khiến bà đánh mất đi thanh xuân tươi đẹp ca mình.
Mt mình sinh ra Xi-mông và hai m con cùng nhau sng trong mt ngôi nhà
nh. Dù hết mc yêu thương, chăm sóc con nhưng bà Blăng-st vn không th
nào bù đắp được s thiếu sót tình cha. Xi-mông lớn lên, đến trường và b các
bạn trêu đùa, bỡn ct vì không có cha. S thiếu ht v tinh thn khiến cu bé
thy chán nn vi cuc sng ca mình. Ri cu bé gặp được bác Phi-líp, mong
mun bác làm cha của mình và bác đã đồng ý. Nhưng câu chuyện chưa dừng li
đó, đám bạn trong trường hc vn tiếp tc chế giu cu vì bác Phi-líp không
phi chng của bà Blăng-st thì làm sao có th là cha ca Xi-mông. phn tiếp
theo ca truyn, bác Phi-líp đã cầu hôn Blăng-st và t đó Xi-mông có mt
ngưi cha tht s.
Theo mch ct truyn trên, câu chuyện cũng được chia làm bn phn. Phn mt
-pa-ng hướng ngòi bút ca mình vào miêu t s bun ti và tuyt vng ca
Xi-mông. Tiếp theo là sau khi cu bé tình c gp bác Phi-líp khi đang đi dạo
trên b sông. Sau đó bác Phi-líp đưa Xi-mông v nhà, đồng ý làm cha Xi-mông,
cầu hôn bà Blăng-st.
Ngay t nhng phần đầu câu chuyn Mô-pa-xăng đã miêu tả Xi-mông vi mt
cuc sng kh s, thiếu thn c vt cht ln tinh thn. T Xi-mông, Mô-pa-ng
đã viết thế này: "Nó độ by, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rt sch s, v nhút nhát,
gần như vụng di". Cái "xanh xao", cái "nhút nhát", "vng dại" đó phần nào đã
th hiện được cuc sng thiếu thn v vt cht và vắng đi tình cha của Xi-mông.
Đâu chỉ có vy, Xi-mông còn là một đứa tr bt hnh, luôn vi sng vi nỗi đau
không có bố. Điều này đã thể hin rất rõ qua hành động b nhà ra b sông và
đặc biệt là qua ý định mun t t ca cu bé. Tht may mn thay thiên nhiên
tươi đẹp, đầy sc sống đã khiến em cht nh ti m của mình, nghĩ đến ngôi
nhà nh xinh xắn nên đã từ b ý định di dt của mình. Và em đã khóc, khóc
cho bt ti hờn, cay đắng: "Người em rung lên, em qu xuống và đọc kinh cu
nguyn như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức
n lại kéo đèn, dồn dp, xn xang choáng ngp ly em. Em chẳng nghĩ ngợi gì
na, chng nhìn thy gì quanh em na mà ch khóc hoài". Tng câu, tng ch
ca Mô-pa-xăng như mũi dao nhọn kha vào tâm can người đọc vi dáng v
đáng thương của mt cu bé không có cha.
Nhưng thật bt ngờ, chính lúc đó em lại gp bác Phi-líp và mi th thay đổi t
đây. Nghe lời bác Phi-líp hi, Xi-mông khó khăn lắm mi có th tr li: "Em tr
li, mắt đẫm l, ging nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu...
không có b... không có b". Cái ging nghn ngào ri kết thúc li bng ba ch
"không có b" nghe tht xót xa làm sao. Câu chuyện như được đẩy lên cao trào
khi bác Phi-líp đưa Xi-mông v nhà, cu bé gp m trong tâm trng ti mng:
"Xi-mông nhy lên ôm ly c m, li òa khóc và bo: Không, m ơi, con muốn
nhy xung sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con
không có b".
Nói v m ca Xi-mông, bà là một người ph n xinh đẹp nhất vùng nhưng tính
li d tin người. S c tin đó đã khiến bà b một người đàn ông lừa di, ph tình
và là nguyên nhân khiến con của mình không có cha. Và hơn tất c, ch là mt
ngưi m hết mực yêu thương con của mình. Khi nghe Xi-mông k là cu bé b
đánh vì không có b, tấm lòng người m đau đớn đến tận xương tủy, ch ch biết
ôm con và mặc cho nước mắt tuôn rơi. Rồi khi nghe con mình hi bác Phi-líp có
mun làm b nó không ch ch biết dựa vào tường, tay ôm ngc, qun qui và
đau đớn. Suy cho cùng m ca Xi-mông cũng chỉ là một người ph n đôn hậu
bình thường nhưng lại b mt k ph tình la di khiến cho chính mình và đứa
con rơi vào cảnh thiếu đi tình thương của cha.
Nhân vt tiếp theo phi k đến là bác Phi-líp. Bác Phi-líp là một người đàn ông
nhân hu, v tha. Bác đã dành tình thương cho Xi-mông ngay t khi mi gp cu
bé. Đối vi Xi-mông bác Phi-líp giống như một v thn xut hiện và đưa cậu ri
khi vòng tay ca thn chết. Bác là nim vui bt ng, nim hnh phúc ln lao
xut hin trong cuộc đời em. Sau này cũng chính vì thương Xi-mông mà bác đã
ng li cầu hôn bà Blăng-sốt để em có một người cha tht sự. Như vậy, bác Phi-
líp không ch là nim vui, nim hnh phúc ca Xi-mông mà còn mang đến cho
m con h mt mái ấm gia đình thật s. Cái hay ca nhà n là đã để bác Phi-líp
t cm nhn v đẹp của bà Blăng-st qua cuc nói chuyn của hai người h.
Phm cht tốt đẹp của Blăng-sốt đã phần nào khiến bác Phi-líp càng muốn vượt
qua những định kiến của người đời để đem đến hnh phúc cho hai m con Xi-
mông. Bi vy nói v nhân vt bác Phi-líp có người ví đây được coi là đại din
của nhà văn, đại din cho nhng tm lòng nhân ái.
Đọc "B ca Xi-mông" người đọc phi t hi Mông-pa-xăng đã phải tri qua
bao nhiêu cay đắng, kh đau trong cuộc đời thì mi có th viết nên tác phm
cảm động như vậy. Tác phm giống như tiếng nói nhân đạo của nhà văn đồng
thời nó cũng thay cho thông điệp: "tt c đứa tr sinh ra đều cần được sng
trong tình yêu thương của c cha và m".
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 1
Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế
nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những
đứa ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện được
hoàn cảnh của cậu bé Xi mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm
của và bị bạn bè chế giễu.
Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người
đàn ông nhận làm con Phi líp mcủa bé Blăng sốt. Trước hết nhân
vật Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình ai, em thường
xuyên bị bạn xấu trêu chọc không bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau
với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti mình không có bố. Em còn
nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của bạn.
Em m đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi
đi.
Em đuổi bắt nhái mỉm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở.
Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác
Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, nghẹn ngào không nên lời. Khi trở vnhà kể lại
ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi
bem vui sướng hạnh phúc. ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin
thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.
Nhân vật thứ hai mẹ Blăng sốt. một gái đẹp trong vùng sống ngăn
nắp đức hạnh nhưng một lần lầm lỡ khiến cho Xi mông sinh ra không
có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ
thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi
Philip về việc nhận làm cha, đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay
ôm ngực. thể nói một người đáng thương cần được chia sẻ cảm
thông.
Về nhân philip, anh một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch râu tóc
đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu quyết định đưa em về nhà. Trên
đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ
một lần thì cũng thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e
dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của
nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.
Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực hội, đó định
kiến hội về những người con gái không chồng con, những đứa con
không bố bị hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn những người
sẵn lòng chia sẻ cảm thông cho số phận của những con người đáng thương
ấy.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 2
Nhà văn Mô-pa-xăng là một nhà văn đại tài của nền văn học nước Pháp. Ông đã
để lại một khối lượng sản phẩm khổng lồ tạo nên tên tuổi của mình. Với mỗi tác
phẩm ông đều thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo, sự đồng cảm của mình với
nhân vật có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
Truyện ngắn Bố của Xi-mông” làm một truyện ngắn hay vô cùng sâu sắc nói
về em do hoàn cảnh nên không bố. Em chỉ đứa con ngoài giá thú của
một người đàn ông đã vợ một gái nhẹ dạ cả tin, để rồi llàng cả một
đời.
Nhân vật cậu bé Xi-mông được ra đời trong hoàn cảnh nước pháp phong kiến cổ
đại, nên những cái nhìn của người dân về người phụ nữ không chồng mà
chửa, những đứa con hoang, không cha một điều đó cùng xấu xa.
Những con người đó thường bị khinh rẻ miệt thị, sống cuộc đời côi cút, cô đơn,
lạc loài.
Cậu bé Xi-mông và mẹ của em một cô gái có tuổi xuân nhan sắc những trót yêu
lầm người đàn ông vợ, nên hoàn cảnh lỡ làng, cùng đáng thương. Chị
Blăng mẹ của Xi-mông thường phải làm rất nhiều nghề khác nhau để thể
nuôi nấng cậu Xi-mông lớn khôn, để cho em được tới trường đi học bằng
chúng bằng bạn. Bởi mẹ em cứ nghĩ trường học nơi scho em niềm vui, sẽ
cho em những người bạn, em được sống đúng lứa tuổi ngây thơ của mình,
không phải chịu những lời miệt thị của người đời.
Bởi tuổi tcủa cậu Xi-mông đã phải chịu những chuỗi ngày đơn, lạnh
lẽo trong ngôi nhà nhỏ bé chỉ hai mẹ con nương tựa lẫn nhau. Xi-mông
không có bố và không được nhận sự chăm sóc của người cha bao giờ, cậu bé
cùng thèm khát được có cha, dù chỉ một lần.
Năm m tuổi, Xi-mông tới trường những mong nơi này cho em hạnh phúc,
chắp cánh cho cậu đáng thương những ước mơ. Nhưng chính trường học lại
địa ngục của cuộc đời em. trường học em thường xuyên bị một nhóm bạn
thô lỗ, cục cằn, không hiểu chuyện đánh đập, sỉ nhục, nói em đồ không
cha.
Những câu nói của mấy cậu bạn cùng trường như mũi dao đâm vào trái tim
độc của cậu Xi-mông tội nghiệp. Bọn chúng còn rách áo của em, dồn
đuổi đánh em. Rồi lần Xi-mông chống cự lại bọn chúng đã hành hạ em suốt
ngày này qua ngày khác vì thái độ dám chống cự đó.
Cậu tội nghiệp của chúng ta, Xi- mông thật đáng thương biết bao, xã hội rất
thiếu công bằng thiếu tình thương khi cho Xi-mông một cuộc sống qua đau đớn
cả về thể xác lẫn tâm hồn. Bị các bạn độc ác xua đuổi đánh đập, khiến cho Xi-
mông cảm thấy cuộc đời mình hoàn toàn bế tắc. Em muốn tìm tới cái chết, em
đã khóc rất nhiều, nước mắt rớt xuống cổ, xuống áo của em ướt đẫm.
Suy nghĩ mình phải chết cứ ám ảnh trong tâm trí của cậu Xi-mông tội
nghiệp, bởi em cảm thấy chết đi lẽ sung sướng hơn sống đau khổ bị ghẻ
lạnh, xa lánh, xua đuổi không bố như thế này. Xi- mông đã tới một bãi cỏ
xanh rất đẹp bên cạnh đó một dòng sông, cảnh vật thiên nhiên ng
tươi đẹp nhưng nỗi đau trong lòng Xi-mông quá lớn nên em không muốn quan
tâm tới những điều xung quanh. Mà em chỉ muốn chết mà thôi.
Khi Xi-mông tìm tới bãi cỏ xanh cạnh một dòng sông nhỏ nên thơ trữ tình, em
nhìn thấy những chú ếch xanh dương mắt nhìn em, ánh nắng vàng sưởi lên
những đám cỏ vô cùng tươi đẹp. Cảnh vật rất nên thơ xoa dịu nỗi cô đơn của em
ít nhiều nhưng em vẫn vô cùng buồn vì mình không có bố. Chính trong lúc tuyệt
vọng nhất của cuộc đời, Xi-mông đã cầu nguyện em ước rằng trời cao sẽ cho
em một người bố. Chính trong giây phút Xi-mông định tìm tới cái chết thì em
lại gặp được một việc vô cùng kỳ diệu.
Một tình huống truyện độc đáo bất ngờ đã xảy ra. Một người thợ rèn cao lớn
nhân hậu tên Phi líp đã tới an ủi, vỗ về nỗi đau của Xi-mông. Khi nhìn thấy
Xi-mông khuôn mặt giàn dụa nước mắt người đàn ông đã hỏi chuyện em. Rồi
biết em định đi m cái chết em không bố. Chú thợ rèn Phi-lip đó đã nhận
làm bố Xi- mông, cảnh tượng hai người gặp nhau thật bất ngờ, Xi-mông nhỏ
nắm tay người cha của mình về nhà gặp mẹ.
Xi-mông ngây thơ hỏi chú thợ rèn “Chú muốn làm bố cháu không?”Chú thợ
rèn nhấc bổng Xi-mông lên trời thơm em một cái thật hiền hậu ấm áp
tình yêu thương rồi trả lời “Có chứ, chú muốn” Trong giây phút ấy tâm hồn
của cậu bé Xi-mông bất hạnh đã tràn ngập hạnh phúc, em cảm thấy được tình
cảm ấm áp của một người cha, sự tự hào của việc bố. Ngày m sau, Xi-
mông dẫn tay chú Phi-lip tới trường em tự hào nói với đám bạn hay chọc
ghẹo, đuổi đánh em rằng “Đây bố tao, bố tao tên Phi-lip”. Một câu nói
chứa đựng sự tự hào hãnh diện của một cậu luôn khao khát tình thương của
một người cha.
Đọc truyện “Bố của Xi-mông” cho chúng ta những cảm xúc cùng xúc động,
-pa-ng thật sự nhà văn tâm hồn cùng nhạy cảm tinh tế thì mới
thể viết được một truyện ngắn hay và đặc sắc đi sâu vào lòng người đọc tới như
vậy.
Thông qua truyện ngắn cho chúng ta thấy một chân bố điều cùng
hạnh phúc. Một gia đình thì nên có đầy đủ cả cha lẫn mẹ có như vậy trẻ con mới
được trưởng thành một cách vững chắc, hạnh phúc trọn vẹn.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 3
Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, ý thể dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng cho người khác. Nhất khi trò đùa ấy lại nhắm vào một đứa trẻ
không bố. Chúng ta tự hỏi điều sđến với Xi-Mông nếu không gặp được
bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn trích;" Bcủa Xi mông", truyện ngắn đặc sắc
của nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng?
Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người
bố thực thụ. Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú đáng yêu
người mẹ của em. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ giúp
mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này.
Xi-mông là con trai của chị Blăng-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót bị lừa dối nên
phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn giễu cợt, đánh đập không
bố. Chú dại dột định tìm đến cái chết. Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà
gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn cảnh của Xi-mông chị Blăng-sốt, bác đã
đồng ý làm bố của Xi-mông. Cuộc gặp ggiữa hai người thợ rèn tốt bụng
chú diễn ra thật tình cờ bên bsông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng bị đối x
một cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em đơn biết bao, khi những lời chế
nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy. em đã nghĩ đến
cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy không phải một ngày u ám để
những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé
đáng thương. Trời ấm áp, ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như gương, đã
xóa đi phần nào nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn
nhiên trẻ con của mình.
Dẫu bất hạnh thiếu bàn tay chăm sóc của người cha, nhưng em vẫn một
đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái
con màu xanh lục vồ hụt ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi
nhục lại ùa đến ngay chính vào lúc em bắt được con nhái chứng kiến cảnh
con vật cố giãy giụa thoát thân. Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến
bản thân mình, em khác con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt chới với
bởi s tâm trong tđùa độc ác của đám bạn. Em cùng nhạy cảm nên
ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, cảm thấy buồn ng
em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất cứ ai biết quan tâm đến những đứa tr
cũng dễ mủi lòng. Trong lúc ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một
con người tốt bụng. Bác được giới thiệu "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,
xoăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vẻ ấy lẽ đã tạo được niềm tin
chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình.
Em đã không ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng l
tủi cực cùng giọng nói đầy nước mắt. u trả lời thật thà của Xi-mông "cháu
không bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định được nguyên
nhân sau tiếng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm cười ban đầu đã được thay
thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác hiểu đây phải chuyện trẻ con mà là vấn
đề hệ trọng gây thương tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản
thẩn bác đã biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi
giáp mặt với mẹ Xi-mông, chính thái độ của mẹ em đã phải khiến bác thay đổi
hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay không bỡn cợt được nữa với gái cao lớn,
xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước
qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị kẻ khác lừa dối. Điều đó chứng tỏ bác
một con người đứng đắn từng trải để thể nhận ra bản chất người khác chỉ
sau một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khcủa người mẹ trước đứa con
không bố, bác đã thể hiện sự trân trọng trước nhân cách một người mẹ
một đứa con đang được bao bọc.
Chính vậy em đã nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời một ch
dựa đáng tin cậy cho cậu thiếu tình thương này. Chú đã không ngần ngại
đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác không thể từ
chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động trước tâm hồn trong trắng
của em: "Người thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng
bước dài, bỏ đi rất nhanh." Niềm vui bố đã giúp em khẳng định đầy kiêu
hãnh trước đám bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã
giúp bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng xử với người xung quanh, cần
một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng trước những đau khổ bất hạnh
của người khác.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 4
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi -pa-xăng, nhà
văn đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn những
trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm
thương thân thiết thế?
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kvề nỗi tủi nhục của một em bé “không bố”
với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em
chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả
nhiều thương cảm.
Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em “một gái đẹp nhất vùng" đã bị
lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nnhỏ quét vôi
trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn này tên Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”,
phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời.
Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo.
Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.
Trường học cũng không phải cái nôi hạnh phúc của em. m tuổi, em mới
được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác
cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị trẻ
hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất
đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành
hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế knày không khỏi
buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau
đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ "'xua đuổi”, bị đánh tơi tả, Xi-mông
đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục
“không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và
đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi
nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến
cực điểm. Tình tiết này rất cảm động điển hình cho nỗi đau khổ đơn của
những em bé trên cõi đời vì một lý do nào đó mà “không có bố".
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất
thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp
lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ đơn của em.
Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm.
Con nhái màu xanh “dương tròn con mắt vành vàng” hình như đã níu giữ
chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên
nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây hình ảnh Xi-mông: “Người
em rung lên, em quxuống em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”.
Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần
đến tuyệt vọng. -pa-xăng đã miêu tả tâm Xi-mông với tất cả tình
thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên đẹp đến đâu,
ngoại cảnh đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh
ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố".
Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, u tóc đều xoăn…
nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Cđã "lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú
đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi
đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”.
Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi đơn cho Xi-mông, cả cho
mẹ em chị Blăng-sốt.
Cảnh Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ ng cảnh rất cảm động.
Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố". Đoạn đối thoại
giữa chú thợ rèn Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô
dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.
Tính cách Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú
thợ rèn: Chú muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng
lên, hôn vào em nói: chứ, chú muốn" thì tâm hồn em “hoàn toàn
khuây khỏa” em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”.
Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu
đấy nhé”. bố, đó niềm hạnh phúc của mỗi em trên cõi đời. bố
nơi nương tựa. “Con cha như nhà nóc" (Tục ngữ). bố tức có quyền
làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh
diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:
“Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó
là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!
Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai không xúc động? -pa-ng đã từng nếm
bao cay đắng về thân phận mcôi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho Xi-
mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo
dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn bút pháp tinh tế lấy cảnh
để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông
ở bờ sống, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ” “Có bố thì
hạnh phúc”. Như một chân giản dị, giàu nhân bản. Xi-mông thật đáng
thương và đáng yêu!
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 5
Mông-pa-ng một nhà văn nổi tiếng của nước Pháp. Ông để lại số lượng tác
phẩm khá đsộ khoảng hơn 300 truyện ngắn. Trong đó, mỗi tác phẩm của ông
đều chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện sự đồng cảm của tác giả với
những con người bất hạnh, thiếu hụt tình cảm vật chất trong cuộc sống.
Tác phẩm "Bố của Xi-mông" kể về câu chuyện bất hạnh, tủi nhục của một em
thiếu thốn tình cảm của một người cha, sinh ra không bố, bị bạn trêu
chọc, mọi người xa lánh mẹ con em.
Mẹ của bé Xi-mông chính nhân vật Blang một người phụ nữ đáng thương.
Chị một tình yêu với một người đàn ông đã vợ, nhưng khi chị mang thai
sinh Xi-mông thì người đàn ông đó hoàn toàn bỏ mặc hai mẹ con, khiến cho
chị phải mang sự nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ mà sống.
Chị phải làm rất nhiều việc nặng nhọc, làm nhiều nghề khác nhau để nuôi Xi-
mông khôn lớn, lo cho con tới trường, khiến cho người đọc cùng thương
cảm.
Tuổi thơ của cậu Xi-mông chuỗi những ngày tháng cùng đơn độc,
đơn lạnh lẽo trong ngôi nhà nhỏ thiếu tình thương của người đời, chỉ hai mẹ
con em nương tựa vào nhau mà sống.
Đáng ra trường học chính nơi Xi-mông được hưởng trọn niềm vui của tuổi
thơ, bởi nơi đó bạn thầy yêu thương em. Nhưng chính trường học của
Xi-mông lại chính địa ngục của cậu bé, nơi mà Xi-mông chịu sự sỉ nhục,
trêu chọc đánh đập của bạn bè. nơi độc ác nhất bởi em thường xuyên phải
nghe những lời chửi bới, những lời chế giễu của những cậu ngỗ ngược, về
việc Xi-mông không có bố.
Bọn trẻ độc ác đó, cũng như hội lúc đó đã thể hiện một cái nhìn thiếu đồng
cảm, thiếu nhân văn với những thân phận như Xi-mông mẹ của em. Chúng
thường hành hạ em, xé áo em, rồi hất nước bẩn vào người em.
Một lần Xi-mông tới trường, em lại bị bọn trẻ độc ác đó trêu chọc, rách áo
của em, rồi sỉ nhục em bằng những lời nói cùng tàn nhẫn độc ác, khiến Xi-
mông cảm thấy cuộc đời của mình thật bế tắc. Em tìm ra bờ cỏ ven sông, một
nơi ít người qua lại định tìm tới cái chết, để thoát khỏi cuộc sống này.
Cậu Xi-mông đã khóc rất nhiều, một chú chmới tám tuổi nhưng em đã
phải chịu đựng nhiều sự đau khổ, tủi nhục trong cuộc sống này, khiến cho em
không còn lối thoát em muốn tìm tới cái chết đã giải thoát chính mình. Suy nghĩ
của cậu Xi-mông khiến người đọc ng lo lắng, cảm thương cho số
phận của em.
Cậu Xi-mông đến với bãi cỏ xanh mượt bên cạnh một bờ sông, một bãi cỏ
lãng mạn, thơ mộng, nhưng với cậu Xi-mông lúc này chẳng làm em
thấy tươi đẹp. Trong tâm trạng u ám đen tối của em thì chỉ cái chết mới giúp
em thoát khỏi sự cô đơn đang đeo bám mình.
Trong lúc cậu Xi-mông khốn khổ đang khóc định m tới cái chết, thì một
tình huống bất ngờ đã xảy ra, đó chính sự xuất hiện của một vị thần. đó
không phải vị thần, chỉ là một người thợ rèn tên Phi-líp nhưng với cậu
Xi-mông thì chú Phi-líp chính vị thần cứu vớt đời em ra khỏi sự đơn
đen tối.
Chú Phi-líp nhìn thấy em khóc đã lại gần lau nước mắt cho em, rồi lắng nghe
m sự của em. Cậu bé Xi-mông đã kể hết cho Phi- lip nghe về việc ở trường, v
mẹ của em Blang khốn khổ đang bị ốm, về việc em không bố nên mọi
người không yêu thương em.
Chú Phi-líp đã nói rằng anh muốn làm bố của chú bé. Chú bé Xi-mông ngây thơ
ng mừng rỡ. Đoạn đối thoại giữa Xi-mông và chú thợ rèn Phi-líp khiến
người đọc vô cùng xúc động. Rồi sau đó, Xi-mông hãnh diện dắt tay chú Phi-líp
về nhà với mẹ.
Rồi m sau, Xi-mông cùng người bố của mình cùng nhau tới trường học. Em
hãnh diện nói với bạn bè, những kẻ hay trêu chọc bắt nạt em rằng "Đây b
của tao, tao có bố rồi nhé
Cuối cùng tác giả -pa-xăng đã cùng nhân đạo khi cho cậu Xi-mông
một người bé giúp em cảm thấy mình trưởng thành hơn, em hạnh phúc với tuổi
thơ của mình. Việc Xi-mông có một người bố khiến cuộc sống của em sang một
trang mới, em thể được sống đúng như một con người không bị bạn
bỉu, chọc ghẹo, em có thể hòa nhập với cuộc sống bình thường, không còn sự cô
đơn, ghẻ lạnh.
Tác phẩm "Bố của Xi-mông" người đọc cùng xúc động, nghẹn ngào bởi
những cay đắng hai mẹ con của Xi-mông đã phải gánh chịu, nếm trải trong
cuộc sống. Những tủi nhục mà xã hội cũ đã gieo xuống tâm hồn trẻ thơ của một
đứa trẻ thật là tàn nhẫn.
Trong từng trang viết của mình tác giả đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc
của mình. Thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những mảnh đời bất hạnh thiếu
thốn tình cảm trong cuộc sống.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 6
Guy đơ -pa-xăng (1850 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ
sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm
lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883), Ông bạn đẹp (1885)
hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã
hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị
Blăng-sốt bmột đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Khi Xi-mông đi học,
em bđám học trò chế giễu đứa con hoang không bố. Xi-mông buồn tủi,
lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp.
Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp bố bác đã nhận lời.
Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc bác Phi-líp không phải chồng của mẹ Xi-
mông thì làm sao bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng
thương Xi-mông bác Phi-líp đã cầu hôn với Blăng-sốt. Từ đó, Xi-
mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời.
Nhà văn Guy đơ -pa-ng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của
ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng
ta về tình yêu thương bạn bè, mrộng ra lòng thương yêu con người, biết
thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.
Bài văn chia làm 4 phần:
Phân một: Từ đầu đến… chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi tuyệt vọng của cậu
bé Xi-mông.
Phần hai: Từ Bỗng một bàn tay… đến… một ông bố: Xi-mông gặp bác Phi-líp.
Phần ba: Từ Hai bác cháu… đến… đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về
nhà.
Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.
Trong đoạn trích này ba nhân vật chính cậu Xi-mông, mem ch
Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn
của Xi-mông thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội dung bài văn theo từng
nhân vật chính.
Khi cất tiếng khóc chào đời, Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu
thốn về cvật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không bố mới thực
sự dằn vặt cậu bé.
Trong bài này không chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng một
đoạn khác của truyện, tác gicho biết: độ bảy, tám tuổi. hơi xanh xao,
rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn
cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc.
Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho
trái tim nhỏ bé của em rớm máu.
Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ hành động của Xi-mông. Em bỏ
nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối nỗi bất hạnh không có
bố khiến em không thiết sống nữa. May cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung
quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-
mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc
kinh cầu nguyện ntrước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được những
cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choáng ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ
ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.
Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em
thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng
nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.
Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên
ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông
cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.
Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn một gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bphụ tình,
khiến cho con trai mình không bố. Thực ra, chị người thật thà từng
một trong những cô gái đẹp nhất vùng.
Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng,
hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp.
Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn
cợt được nữa với gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà
mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một
kẻ khác lừa dối.
Nghe con kể bị các bạn đánh không bố, đôi thiếu phụ đỏ bừng
tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn
rơi. Khi nghe con hỏi Phi-líp: Bác muốn làm bố cháu không? thì chị Blăng-
sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.
Bác Phi-líp một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân
hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đã rất thương em. Bác đã đem đến cho
cậu niềm hạnh phúc to lớn bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang
tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-líp đã đem lại cho em niềm hi vọng
bằng một câu khẳng định muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông
rất nhiều. Bác Phi-líp tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.
Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên n học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho
em đau khổ “bố Phi-líp của em không phải bố hẳn hoi, tức không phải
chồng của mẹ em.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ
lời cầu hôn với chị Blăng-sốt.
Bác Phi-líp đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố
hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác
thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi thân đem lại niềm vui sướng
tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-líp một việc làm nhân đạo cao
cả.
Không chỉ đem lại niềm vui cho Xi-mông, bác Phi-líp còn mang lại hạnh
phúc cho chị Blăng-sốt, m của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một
người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-líp đã thể hiện thái độ trân trọng đối với
chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-líp đã nhận ra
những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu
quả cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà
không đáng trách, bản tính chị không phải người phóng túng, lẳng lơ. Bác
thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.
Để thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu Xi-mông, bác Phi-líp đã
phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến clỗ của người đời. Bác
Phi-líp nhận thêm sự ủng hộ, cổ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng
để thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người
phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-líp
đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người
đàn ông ttế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó một
hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt.
Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết
thúc hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc đem lại
cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính mục đích
cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 7
Nhng trang viết tuy chphần đẩu ca mt truyn ngắn đã vô cùng sinh đng
cm động. đó sự sinh động ca cuc sng cuc sng diễn ra y như
thật, tươi tắn, hn nhiên. Còn cảm động thấm thía tình người, nhng đau
kh ước mơ, những yêu thương sẻ chia, đùm bọc. Tuy nhiên, đy ch
mt cái nhìn bao trùm tng th. Mun phân tích nó, không mt cách nào
khác hơn, với mt tác phm t s là đi vào nhân vt và nht là mi quan h gia
các nhân vt y với nhau. Đây yếu t to nên tính cách hình thành mch
văn, cốt truyn.
Xi-mông, đứa tr không cha nhân vt trung tâm không ch xut hiện thường
trc vi tn s cao mà có tác dng gn kết các nhân vt còn lại như đám học trò
nghch ngm, bác công nhân Phi-líp, người thiếu ph rơi vào cảnh ng đáng
thương. Xi-mông là đứa tr t trng, nhy cm, thông minh. Vì t trng em thy
vic không có cha ca mình là ni bt hnh ln. Còn vì nhy cm và thông minh,
Xi-mông bế tc, không biết chia s cùng ai ngoài việc tìm đến dòng sông đ kết
thúc cuộc đời bng cái chết. Tt nhiên, những đặc điểm trên đây ch mt tính
cách mới được hình thành.
Bi vy những ý nghĩ đến vi em, nhiu khi ch như cơn gió. Vừa khóc lóc
xong, rất thèm được ngủ, nhưng bất cht nhìn thy mt chú nhái màu xanh, Xi-
mông đã quên hết mi chuyn va qua, c cơn thèm ngủ lúc này. Nhu cu
nghch ngm tri dy em mạnh hơn bao gi hết. "Em định bt nó. nhy
thoát. Em đui theo v ht ba ln lin". đó cả s xuýt xoa sung
ớng đến bật cười khi tóm được con vt nhìn "c giãy gia thoát thân".
Ni bt hạnh, cơn thèm ngủ bng chốc qua đi không đ li du vết. Thm chí,
em còn nh rộng ra, liên tưởng miên man đến nhng th đồ chơi "làm bng
nhng mnh g hẹp đóng đinh ch chi". kết thúc, không hiu sao em li
nghĩ tiếp đến nhà mình, đến m.
Nhận được mt bàn tay tin cy ca một người đàn ông tin cy, bác Phi-líp (lúc
đầu Xi-mông chưa biết đó ai), em thấy cn phi giãi bày ni niềm cay đắng
xót xa vi giọng điệu hn ti oan c của mình để "người th cao ln, râu tóc
đen, quăn" thấu hiu. S tin cy y tht hn nhiên khi hai bác cháu tr v như
mt cuc dạo chơi vui vẻ "người ln dắt tay đứa bé", như cha con chẳng còn
một chút gìưu tư phin mun na. Nhu cu cn có một người cha Xi-mông
mnh m đến mc ch cn một cái gì đó na ná như thế, hoặc tưởng tượng ra như
thế, em đã hạnh phúc lm ri. Ảo ng ca Xi-mông ch hoàn toàn biến mt
khi em tr v vi thc ti, mt thc ti tàn nhẫn, phũ phàng qua câu nói
ging nói của người th mi quen vi m Xi-mông: "Đây, thưa chị, tôi dt v
tr cho ch cháu bé b lc gn b sông" (Trong trí óc tuy còn non nt ca mình:
Xi-mông cm thấy mình đâu bị lạc quên đường, mà em đang đứng trước
mt ngã ba không biết rõ con đường tiến thoái).
Nhưng hi vọng em không tắt. Để gii thoát cho cnh ng của mình, cũng
ca m (va hôn con va kh tuôn rơi nước mt), mt câu hi vt hiện lên như
mt chiếc phao cứu người chết đuối lúc này là: "Bác mun làm b cháu
không?" vi bao tha thiết, hi hp, lo âu. Thời gian như ngng lại, như nín thở.
Phải đến lúc, bác Phi-líp đồng ý, đồng ý như một giao kèo, một cam đoan đng
thun, Xi-mông mi tht yên tâm. "Thế nhé! Bác Phi-líp, bác b cháu". Ln
đến trường sau đó, Xi-mông đã trở thành một con người khác hẳn, đầy t tin.
Li em nói vi "thng kia" không phải câu nói thường tình. Đó bao nhiêu
căm hn, ut c bt ra. Xi-mông "quát vào mt nó nhng lời này, như ném một
hòn đá", những câu tr li v b mình là ai (dù em vì vi quên không hi h ca
ngưi y): "B tao y à, b tao tên là Phi-líp".
Trong ca dao Vit Nam, một câu hài hước nhm đả kích nhng ông thy bói
nói dựa ngày xưa "Số cô có m có cha M cô đàn bà, cha cô đàn ông". Nhưng,
thực tình, đâu phải nghĩa. Bởi trong cuc đời này còn bao nhiêu k
m côi cha hoc m (thm chí c hai). Câu nói hãnh din ca Xi-mông sc
sâu xoáy vào lòng người chính là nhng khát khao tht gin d, thật bình thường
là được "có mẹ", "có cha" như mọi người trong thiên h mà thôi. Tính nhân văn
cách nghĩ trên đây còn là ước mơ của loài người mãi mãi.
Bác th Phi-líp điểm ta cho câu chuyện thương tâm tht m áp tình
người. Hình như, trên một phương diện nào đó, con người bình thường, vô danh
này lương tâm của nhân loi. Cuc gp g gia bác vi Xi-mông va ngu
nhiên va tt nhiên, quy luật thương người như thương mình. u hỏi đầu
tiên với đứa bé đầy tâm s (ngi bên dòng sông, ngi bên cái chết) âu yếm biết
bao: "Có điu gì làm cháu bun phiền đến thế, cháu ơi?". Nhu cầu được chia s,
đưc gánh chịu, được bo v đối vi bác Phi-líp gn ging vi mt bản năng.
Đó một con người đúng nghĩa thái đ không th th ơ, lạnh nht, quay
lưng vi ni kh của con người, dù con người y ch là mt sinh linh bé nh, và
cũng vô danh như bác. Cái cách hành đng của bác lúc đu là một cách nghĩ rất
đỗi ngây thơ, ct ch để an i và khích l đứa tr đứng lên: "Thôi nào… đng
bun nữa, cháu ơi", "Người ta s cho cháu…. một ông bố". Nhưng khi đến nhà
ca m con Xi-mông ri, n i hn nhiên và bao dung vì sao vt tt? Làm sao
th bn cợt được vi mt "cô gái cao lớn, xanh xao đng nghiêm ngh trước
cửa nhà mình". Đó một gii hạn con người giàu ớng tượng nhất cũng
không th t qua. Bác Phi-líp cm thấy mình không được phép bước qua
ngưng ca ngôi nhà y. Người đàn ông từng trải đã phải bi rối như một đa
tr thơ, dại dt mt cách thật thà trước mt vấn đề quá phc tạp mà anh ta đang
gp phi và không biết x ra sao. Ch tới khi được một hi, y câu
nói thơ ngây (không hàm ý sâu xa nào) của đứa tr, bác mi va tr lời được
Xi-mông va giải thoát được chính mình. "Bác công nhân nhc bng em lên,
đột ngt hôn vào hai em, ri si từng bước dài, b đi rất nhanh". Sau này,
con người tm lòng nhân hu y còn chia s vi Xi-mông, đùm bọc che
ch cho Xi-mông đúng như một người cha tt.
V ngh thut của đoạn văn, nên dựa vào tiêu chí nào để đánh giá? th xem
mt tác phm t s thông thường, nhưng lẽ, đúng hơn cần xác định:
đây là truyện thiếu nhi. Viết v tr em và nói bng giọng điệu tr em cách nhìn
nghĩ ngây thơ nht của loài người, ấy là đặc đim bao trùm ca nó. V
phương diện này, ta nên nghĩ đến Thời thơ u ca Goóc-ki, nhng tác phm t
truyn ca Nguyên Hồng,… Bố ca Xi-mông da trên mt cái mt bằng như thế.
Theo định hướng này, Xi-mông đúng một nhân vật trung tâm. Ngưi m
đáng thương Blăng-st ngôi nhà ca em, n bác Phi-líp bu tri ca em,
ngôi nhà thì quen thuc, thân yêu, còn bu tri c mt không gian mênh
mông hi vng. Tâm tình nghĩa bao nhiêu cay đng, buồn vui, ước, c
mt thế gii tâm trng v s phn con ngưi quy t vào nhng cảm nghĩ trẻ
thơ. Những cảm nghĩ ấy trong sáng như bu tri mà bt hnh ch giống như một
th mưa bóng mây. Đứa con không có cha không phi một định mnh nghit
ngã suốt đời, ri một lúc nào đó, không mt ám ảnh. Nhưng hình tượng
nhân vt bng ta vừa nói trên đây từ con mt ca người ln nhìn vào.
Do vy, mà có s tiết chế và chn lọc để va khc ho mt tính cách tr thơ vừa
phát hiện được chiu sâu nhng quy lut khách quan ca cuc sng. Lời n
dung d, hn nhiên như không được đẽo gọt đi thẳng vào kh năng cảm nhn
trc tiếp của người đọc, để với người đọc s hình thành mt loại văn bn th hai
t những liên tưởng, rung đng v cuc sng mà chính bn thân mình tri
nghim. Mt tác phẩm hay cũng như cuc chy tiếp sức: người viết người
đọc c ni tiếp nhau đi trên một con đường không biết đâu là điểm gii hn cui
cùng.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 8
Guy Đơ -pa-xăng nhà văn hin thc ni tiếng của nước Pháp thế k 19.
Ông mt tuổi thơ nhiu ni buồn, cay đắng vi nhng bt hnh trong gia
đình nhà trưng. Chính bi cuộc đời nhiều sóng gió đã làm nên một tác gi
tm lòng nhân hu, v tha trong tng trang viết. S nghiệp văn chương của
ông vô cùng đồ s vi khong trên 300 truyn ngn, v kch và tiu thuyết.
Mt trong nhng tác phẩm đặc sắc và để li ấn tượng sâu đm trong tâm tbn
đọc là "B ca Xi-mông". Nhân vt chính ca tác phm là cuXi-mông, mt
em "không bố" nhưng sau cùng, tri qua nhng ti nhc trong cuc sng,
em đã một người b m áp chan chứa tình yêu thương như một s đắp
cho cuộc đời bt hnh ca em.
Câu chuyn k v cuộc đời ca cu Xi-mông. Đó là hoàn cảnh đáng thương
ca một em sinh ra đã không biết cha mình ai. Cu bé mt tuổi thơ bất
hnh vi nhng ánh nhìn dè bu, chê bai, lnh nht ca mọi người. M cu bé
Blăng-st. tng là một gái xinh đp nht vùng. Tuy vy, phi nhn s
t bc ca một đàn ông đánh mất tui tr ca mình. Mt mình sinh ra
Xi-mông. Hai m con sng vi nhau trong mt ngôi nhà nh. Mặc đã hết
lòng chăm sóc Xi-mông vi trách nhim ca một người m, một người cha
nhưng cũng không thể đắp được s thiếu thn trong tâm hn tr thơ như cậu
bé Xi-mông.
ng chừng như cu bé bt hnh y có th s không phi chu thêm kh đau gì
na. Vậy nhưng bất hnh vẫn đeo bám cu khi trường. Ngày đầu tiên đi học
cậu đã bị bạn bè đưa ra trêu chọc, nhc m đánh đập vì sinh ra là một đứa tr
không cha. Vi s lnh nht phân biệt đối x t bn bè, cu luôn sng
trong bóng ti vi s mc cm, t ti. Chi tiết giọt nước mắt đã thể hin rt s
đau đớn, ni ti hn ca Xi-mông.
Điều này đã được tác gi khc ha rt chi tiết: "cm giác u oải thường thy sau
khi khóc", "và thy bun cùng, em lại khóc. Người em rung lên", "chng
nhìn thy gì quanh em na và em ch khóc hoài"...Chính điều này đã th hin s
bi kch trong tâm hn cu bé bt hnh t những suy nghĩ tiêu cực đã khiến
cu những hành động và vic làm tiêu cc. Cậu đã ý nghĩ bỏ ra b sông
t t để gii thoát s đau đớn, dày vò. Nhưng nh v đẹp đặc bit ca thiên
nhiên đã khiến cậu vơi bớt đi phần nào s ti hờn. Suy nghĩ vẩn bế tc,
Xi-mông loay hoay vi những ý nghĩ về gia đình, ở đó có mẹ, có nhà...
Thế ri ni tuyt vng ca em ngày mt ln dn. "Em qu xuống đọc kinh
cu nguyện...nhưng em không đọc hết được, những cơn nức n lại kéo đến,
dn dp, xn xang choán lấy em". Dường như Xi-mông đã được đền đáp. Em
đã gặp được bác Phi-lip, mt bác th rèn "cao lớn, râu tóc đen quăn… nhân
hậu". Như một phép màu giữa đời thường, chú Phi-lip nh nhàng nói: "Thôi nào,
đừng bun na, v nhà m cháu với bác đi. Người ta s cho cháu...mt ông b".
Câu nói y có sc nng vô cùng ln, nó khiến tâm hn ca một đứa tr bt hnh,
đau đn tt cùng tr nên vui v hào hứng đến l. xoa du mi nỗi đau
trong tâm hn cu bé non nt y.
Cuc gp g định mnh y si dây ni kết tình ph t, ni kết hnh phúc gia
đình. Cảnh tượng Xi-mông nhn bác Phi-lip làm cha tht khiến con người ta
cha chan nhiu xúc cảm. Em ngây thơ hỏi: "Bác mun làm b cháu
không?" đã thể hin hết được ni khát khao cháy bng ca cu bé y. khi
đưc bác Phi-lip tr li "Có ch, bác có mun" thì tâm hn ca cậu bé như được
vui tươi trở li. Em nói vi mt ging điu chc chn: "Thế nhé! Bác Phi-lip,
bác là b cháu". Chính s việc này đã khiến cho em t tin, hãnh din và có nim
tin hơn vào cuộc sống. Đó sự tin tưởng, lc quan v hnh phúc trn vn ca
một gia đình. Và ai cũng có quyền được hưởng điều y.
Nguyn Cẩn đã nhận đnh "B ca Xi-mông câu chuyn v mt mảnh đi
đặc bit ca tr thơ, mảnh đi y nhc nh mọi người v quyn ca tr em được
sng trong t ấm gia đình. Nó còn cho thấy khát vng trong sáng ca tuổi thơ có
th đánh thức dy người khác tình yêu thương, lòng nhân hậu thái độ
không định kiến vi những người xung quanh mình". Qua nhân vt Xi-mông,
ta cũng hiểu thêm được nhiều điu v cuc sng, v những ước mơ một mái m
gia đình tràn đầy yêu thương của nhng cô bé, cu bé bt hnh.
| 1/29

Preview text:

Dàn ý phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông Dàn ý 1 1. Mở bài - Giới thiệu tác giả:
• Guy Đơ Mô-pa-xăng được người ta biết đến là nhà văn hiện thực nổi
tiếng của Pháp vào thế kỷ XIV.
• Ông đã để lại nhiều tác phẩm giàu giá trị nhân đạo.
- Giới thiệu tác phẩm: "Bố của Xi-mông" là một trong số rất nhiều tác phẩm đặc sắc của ông. 2. Thân bài * Khái quát chung - Tóm tắt tác phẩm:
• Tác phẩm là câu chuyện kể về cuộc đời của Xi-mông, một bé thiếu tình cha từ nhỏ.
• Mẹ của Xi-mông một mình sinh ra Xi-mông và hai mẹ con cùng nhau
sống trong một ngôi nhà nhỏ.
• Xi-mông lớn lên, đến trường và bị các bạn trêu đùa, bỡn cợt vì không có cha.
• Rồi cậu bé gặp được bác Phi-líp, mong muốn bác làm cha của mình và bác đã đồng ý.
• Vì thương Xi-mông, bác Phi-líp đã cầu hôn mẹ cậu bé và cậu có một người cha thật sự.
* Phân tích cụ thể
- Nhân vật cậu bé Xi-mông:
• Là cậu bé có cuộc sống thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần: "Nó độ bảy,
tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại".
• Là một đứa trẻ bất hạnh, luôn với sống với nỗi đau không có bố: muốn
tìm đến cái chết, muốn bác Phi-líp làm cha mình.
- Nhân vật bà Blăng-sốt:
• Là một người phụ nữ xinh đẹp nhất vùng nhưng tính lại dễ tin người → bị
một người đàn ông lừa dối, phụ tình và là nguyên nhân khiến con của mình không có cha.
• Là một người mẹ hết mực yêu thương con của mình.
- Nhân vật bác Phi-líp: Là một người đàn ông nhân hậu, vị tha: yêu thương Xi-
mông ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ, cầu hôn mẹ Xi-mông vì thương cậu bé. 3. Kết bài
• Khẳng định lại giá trị của tác phẩm: - Thể hiện tình yêu thương của tác
giả → giá trị nhân đạo của tác phẩm. Dàn ý 2 I.Mở bài:
● Giới thiệu vài nét về tác giả Đi-phô: Một nhà văn, nhà báo, học giả kinh tế người Anh.
● Khái quát về đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang: trích từ tiểu thuyết
Rô- bin- xơn Cru- xô(1719) khắc họa rõ nét hình tượng nhân vật Rô- bin- xơn. II.Thân bài:
1. Cảm nhận về chân dung của chúa đảo
- Chân dung: mọi người hoảng sợ, cười sằng sặc.
⇒ Nghệ thuật đối lập, giọng giễu cợt, hài hước ⇒ Khẳng định chân dung kì lạ,
quái đản và tức cười.
2. Trang phục của chúa đảo
- Trang phục: Kỳ quặc, kì dị, kì quái, lạ lùng, lố lăng và nực cười.
● Mũ: to tướng, cao lêu đêu.
● Áo: dài lưng chừng bắp đùi.
● Quần: loe bằng da dê, đến đầu gối.
● Giày: tự tạo, hình dáng kỳ cục
- Trang bị của chúa đảo:
● Thắt lưng: rộng bản, đeo cưa và rìu nhỏ. ● Đạn, dù, súng.
⇒ Nghệ thuật miêu tả⇒ Trang phục độc đáo, hết sức đặc biệt.
3. Diện mạo của chúa đảo
● Da: Không đến nỗi đen cháy. ● Râu cắt gọn.
● Ria mép: to tướng kiểu Hồi giá.
⇒ Với giọng điệu khôi hài và thủ pháp so sánh ⇒ Tác giả khắc họa diện mạo kì quái của Rô-bin-xơn.
⇒ Khi khắc họa bức chân dung của mình, Rô-bin-xơn không hề tỏ ra than
phiền, đau khổ ⇒ Qua đó chứng tỏ một tinh thần rất lạc quan của một con người
can đảm, làm chủ vận mệnh của mình. III. Kết bài:
- Khái quát lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Với
nghệ thuật miêu tả, khắc họa diện mạo nhân vật được sử dụng thành công, nghệ
thuật kể chuyện hấp dẫn ⇒ đoạn trích khắc họa nhân vật Rô-bin-xơn độc đáo,
kỳ dị về ngoại hình nhưng tinh thần lại lạc quan, làm chủ mình.
- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Rô-bin-xơn xứng đáng là tấm
gương để mỗi cá nhân học tập.
Phân tích truyện Bố của Xi-mông
Guy Đơ Mô-pa-xăng được người ta biết đến là nhà văn hiện thực nổi tiếng của
Pháp vào thế kỷ XIV. Với qua nhiều thăng trầm, cay đắng trong cuộc sống đã
biến những trang viết của ông thành áng văn giàu giá trị nhân đạo. Mô-pa-xăng
có một số lượng tác phẩm vô cùng đồ sộ gồm nhiều thể loại từ truyện ngắn, tiểu
thuyết đến kịch. "Bố của Xi-mông" là một trong số rất nhiều tác phẩm đặc sắc
của ông. Tác phẩm đã để lại rất nhiều giá trị cho người đọc.
"Bố của Xi-mông" là câu chuyện kể về cuộc đời của Xi-mông, một cậu bé ngay
từ khi sinh ra đã không được sống trong tình yêu thương của cha. Mẹ của cậu là
bà Blăng-sốt. Thời còn trẻ bà là cô gái xinh đẹp nhất vùng, thế nhưng lại bị một
gã đàn ông tệ bạc, lừa dối khiến bà đánh mất đi thanh xuân tươi đẹp của mình.
Một mình sinh ra Xi-mông và hai mẹ con cùng nhau sống trong một ngôi nhà
nhỏ. Dù hết mực yêu thương, chăm sóc con nhưng bà Blăng-sốt vẫn không thể
nào bù đắp được sự thiếu sót tình cha. Xi-mông lớn lên, đến trường và bị các
bạn trêu đùa, bỡn cợt vì không có cha. Sự thiếu hụt về tinh thần khiến cậu bé
thấy chán nản với cuộc sống của mình. Rồi cậu bé gặp được bác Phi-líp, mong
muốn bác làm cha của mình và bác đã đồng ý. Nhưng câu chuyện chưa dừng lại
ở đó, đám bạn trong trường học vẫn tiếp tục chế giễu cậu vì bác Phi-líp không
phải chồng của bà Blăng-sốt thì làm sao có thể là cha của Xi-mông. Ở phần tiếp
theo của truyện, bác Phi-líp đã cầu hôn Blăng-sốt và từ đó Xi-mông có một người cha thật sự.
Theo mạch cốt truyện trên, câu chuyện cũng được chia làm bốn phần. Phần một
Mô-pa-xăng hướng ngòi bút của mình vào miêu tả sự buồn tủi và tuyệt vọng của
Xi-mông. Tiếp theo là sau khi cậu bé tình cờ gặp bác Phi-líp khi đang đi dạo
trên bờ sông. Sau đó bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà, đồng ý làm cha Xi-mông, cầu hôn bà Blăng-sốt.
Ngay từ những phần đầu câu chuyện Mô-pa-xăng đã miêu tả Xi-mông với một
cuộc sống khổ sở, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Tả Xi-mông, Mô-pa-xăng
đã viết thế này: "Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát,
gần như vụng dại". Cái "xanh xao", cái "nhút nhát", "vụng dại" đó phần nào đã
thể hiện được cuộc sống thiếu thốn về vật chất và vắng đi tình cha của Xi-mông.
Đâu chỉ có vậy, Xi-mông còn là một đứa trẻ bất hạnh, luôn với sống với nỗi đau
không có bố. Điều này đã thể hiện rất rõ qua hành động bỏ nhà ra bờ sông và
đặc biệt là qua ý định muốn tự tử của cậu bé. Thật may mắn thay thiên nhiên
tươi đẹp, đầy sức sống đã khiến em chợt nhớ tới mẹ của mình, nghĩ đến ngôi
nhà nhỏ xinh xắn nên đã từ bỏ ý định dại dột của mình. Và em đã khóc, khóc
cho bớt tủi hờn, cay đắng: "Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu
nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức
nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choáng ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì
nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài". Từng câu, từng chữ
của Mô-pa-xăng như mũi dao nhọn khứa vào tâm can người đọc về cái dáng vẻ
đáng thương của một cậu bé không có cha.
Nhưng thật bất ngờ, chính lúc đó em lại gặp bác Phi-líp và mọi thứ thay đổi từ
đây. Nghe lời bác Phi-líp hỏi, Xi-mông khó khăn lắm mới có thể trả lời: "Em trả
lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu...
không có bố... không có bố". Cái giọng nghẹn ngào rồi kết thúc lại bằng ba chữ
"không có bố" nghe thật xót xa làm sao. Câu chuyện như được đẩy lên cao trào
khi bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà, cậu bé gặp mẹ trong tâm trạng tủi mừng:
"Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn
nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố".
Nói về mẹ của Xi-mông, bà là một người phụ nữ xinh đẹp nhất vùng nhưng tính
lại dễ tin người. Sự cả tin đó đã khiến bà bị một người đàn ông lừa dối, phụ tình
và là nguyên nhân khiến con của mình không có cha. Và hơn tất cả, chị là một
người mẹ hết mực yêu thương con của mình. Khi nghe Xi-mông kể là cậu bé bị
đánh vì không có bố, tấm lòng người mẹ đau đớn đến tận xương tủy, chị chỉ biết
ôm con và mặc cho nước mắt tuôn rơi. Rồi khi nghe con mình hỏi bác Phi-líp có
muốn làm bố nó không chị chỉ biết dựa vào tường, tay ôm ngực, quằn quại và
đau đớn. Suy cho cùng mẹ của Xi-mông cũng chỉ là một người phụ nữ đôn hậu
bình thường nhưng lại bị một kẻ phụ tình lừa dối khiến cho chính mình và đứa
con rơi vào cảnh thiếu đi tình thương của cha.
Nhân vật tiếp theo phải kể đến là bác Phi-líp. Bác Phi-líp là một người đàn ông
nhân hậu, vị tha. Bác đã dành tình thương cho Xi-mông ngay từ khi mới gặp cậu
bé. Đối với Xi-mông bác Phi-líp giống như một vị thần xuất hiện và đưa cậu rời
khỏi vòng tay của thần chết. Bác là niềm vui bất ngờ, niềm hạnh phúc lớn lao
xuất hiện trong cuộc đời em. Sau này cũng chính vì thương Xi-mông mà bác đã
ngỏ lời cầu hôn bà Blăng-sốt để em có một người cha thật sự. Như vậy, bác Phi-
líp không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của Xi-mông mà còn mang đến cho
mẹ con họ một mái ấm gia đình thật sự. Cái hay của nhà văn là đã để bác Phi-líp
tự cảm nhận vẻ đẹp của bà Blăng-sốt qua cuộc nói chuyện của hai người họ.
Phẩm chất tốt đẹp của Blăng-sốt đã phần nào khiến bác Phi-líp càng muốn vượt
qua những định kiến của người đời để đem đến hạnh phúc cho hai mẹ con Xi-
mông. Bởi vậy nói về nhân vật bác Phi-líp có người ví đây được coi là đại diện
của nhà văn, đại diện cho những tấm lòng nhân ái.
Đọc "Bố của Xi-mông" người đọc phải tự hỏi Mông-pa-xăng đã phải trải qua
bao nhiêu cay đắng, khổ đau trong cuộc đời thì mới có thể viết nên tác phẩm
cảm động như vậy. Tác phẩm giống như tiếng nói nhân đạo của nhà văn đồng
thời nó cũng thay cho thông điệp: "tất cả đứa trẻ sinh ra đều cần được sống
trong tình yêu thương của cả cha và mẹ".
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 1
Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế
nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những
đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được
hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm
của và bị bạn bè chế giễu.
Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người
đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân
vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường
xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau
với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn
nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn.
Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi.
Em đuổi bắt nhái và mỉm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở.
Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác
Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, nghẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại
ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi
có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin
thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.
Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn
nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không
có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ
thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi
Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay
ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.
Về nhân philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc
đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên
đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ
một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e
dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của
nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.
Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định
kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con
không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người
sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 2
Nhà văn Mô-pa-xăng là một nhà văn đại tài của nền văn học nước Pháp. Ông đã
để lại một khối lượng sản phẩm khổng lồ tạo nên tên tuổi của mình. Với mỗi tác
phẩm ông đều thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo, sự đồng cảm của mình với
nhân vật có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
Truyện ngắn “Bố của Xi-mông” làm một truyện ngắn hay vô cùng sâu sắc nói
về em bé do hoàn cảnh nên không có bố. Em chỉ là đứa con ngoài giá thú của
một người đàn ông đã có vợ và một cô gái nhẹ dạ cả tin, để rồi lỡ làng cả một đời.
Nhân vật cậu bé Xi-mông được ra đời trong hoàn cảnh nước pháp phong kiến cổ
đại, nên những cái nhìn của người dân về người phụ nữ không có chồng mà
chửa, những đứa con hoang, không có cha là một điều gì đó vô cùng xấu xa.
Những con người đó thường bị khinh rẻ miệt thị, sống cuộc đời côi cút, cô đơn, lạc loài.
Cậu bé Xi-mông và mẹ của em một cô gái có tuổi xuân nhan sắc những trót yêu
lầm người đàn ông có vợ, nên hoàn cảnh lỡ làng, vô cùng đáng thương. Chị
Blăng mẹ của Xi-mông thường phải làm rất nhiều nghề khác nhau để có thể
nuôi nấng cậu bé Xi-mông lớn khôn, và để cho em được tới trường đi học bằng
chúng bằng bạn. Bởi mẹ em cứ nghĩ trường học là nơi sẽ cho em niềm vui, sẽ
cho em những người bạn, em được sống đúng lứa tuổi ngây thơ của mình,
không phải chịu những lời miệt thị của người đời.
Bởi tuổi thơ của cậu bé Xi-mông đã phải chịu những chuỗi ngày cô đơn, lạnh
lẽo trong ngôi nhà nhỏ bé chỉ có hai mẹ con nương tựa lẫn nhau. Xi-mông
không có bố và không được nhận sự chăm sóc của người cha bao giờ, cậu bé vô
cùng thèm khát được có cha, dù chỉ một lần.
Năm Tám tuổi, Xi-mông tới trường những mong nơi này cho em hạnh phúc,
chắp cánh cho cậu bé đáng thương những ước mơ. Nhưng chính trường học lại
là địa ngục của cuộc đời em. Ở trường học em thường xuyên bị một nhóm bạn
thô lỗ, cục cằn, không hiểu chuyện đánh đập, sỉ nhục, và nói em là đồ không cha.
Những câu nói của mấy cậu bạn cùng trường như là mũi dao đâm vào trái tim
cô độc của cậu bé Xi-mông tội nghiệp. Bọn chúng còn xé rách áo của em, dồn
đuổi đánh em. Rồi có lần Xi-mông chống cự lại bọn chúng đã hành hạ em suốt
ngày này qua ngày khác vì thái độ dám chống cự đó.
Cậu bé tội nghiệp của chúng ta, Xi- mông thật đáng thương biết bao, xã hội rất
thiếu công bằng thiếu tình thương khi cho Xi-mông một cuộc sống qua đau đớn
cả về thể xác lẫn tâm hồn. Bị các bạn độc ác xua đuổi đánh đập, khiến cho Xi-
mông cảm thấy cuộc đời mình hoàn toàn bế tắc. Em muốn tìm tới cái chết, em
đã khóc rất nhiều, nước mắt rớt xuống cổ, xuống áo của em ướt đẫm.
Suy nghĩ mình phải chết cứ ám ảnh trong tâm trí của cậu bé Xi-mông tội
nghiệp, bởi em cảm thấy chết đi có lẽ sung sướng hơn là sống đau khổ bị ghẻ
lạnh, xa lánh, xua đuổi vì không có bố như thế này. Xi- mông đã tới một bãi cỏ
xanh rất đẹp bên cạnh đó là một dòng sông, dù cảnh vật thiên nhiên vô cùng
tươi đẹp nhưng nỗi đau trong lòng Xi-mông quá lớn nên em không muốn quan
tâm tới những điều xung quanh. Mà em chỉ muốn chết mà thôi.
Khi Xi-mông tìm tới bãi cỏ xanh cạnh một dòng sông nhỏ nên thơ trữ tình, em
nhìn thấy những chú ếch xanh dương mắt nhìn em, ánh nắng vàng sưởi lên
những đám cỏ vô cùng tươi đẹp. Cảnh vật rất nên thơ xoa dịu nỗi cô đơn của em
ít nhiều nhưng em vẫn vô cùng buồn vì mình không có bố. Chính trong lúc tuyệt
vọng nhất của cuộc đời, Xi-mông đã cầu nguyện em ước rằng trời cao sẽ cho
em một người bố. Chính trong giây phút Xi-mông định tìm tới cái chết thì em
lại gặp được một việc vô cùng kỳ diệu.
Một tình huống truyện độc đáo bất ngờ đã xảy ra. Một người thợ rèn cao lớn
nhân hậu tên là Phi líp đã tới an ủi, vỗ về nỗi đau của Xi-mông. Khi nhìn thấy
Xi-mông khuôn mặt giàn dụa nước mắt người đàn ông đã hỏi chuyện em. Rồi
biết em định đi tìm cái chết vì em không có bố. Chú thợ rèn Phi-lip đó đã nhận
làm bố Xi- mông, cảnh tượng hai người gặp nhau thật bất ngờ, Xi-mông nhỏ bé
nắm tay người cha của mình về nhà gặp mẹ.
Xi-mông ngây thơ hỏi chú thợ rèn “Chú có muốn làm bố cháu không?”Chú thợ
rèn nhấc bổng Xi-mông lên trời và thơm và má em một cái thật hiền hậu ấm áp
tình yêu thương rồi trả lời “Có chứ, chú có muốn” Trong giây phút ấy tâm hồn
của cậu bé Xi-mông bất hạnh đã tràn ngập hạnh phúc, em cảm thấy được tình
cảm ấm áp của một người cha, sự tự hào của việc có bố. Ngày hôm sau, Xi-
mông dẫn tay chú Phi-lip tới trường và em tự hào nói với đám bạn hay chọc
ghẹo, đuổi đánh em rằng “Đây là bố tao, bố tao tên là Phi-lip”. Một câu nói
chứa đựng sự tự hào hãnh diện của một cậu bé luôn khao khát tình thương của một người cha.
Đọc truyện “Bố của Xi-mông” cho chúng ta những cảm xúc vô cùng xúc động,
Mô-pa-xăng thật sự là nhà văn có tâm hồn vô cùng nhạy cảm tinh tế thì mới có
thể viết được một truyện ngắn hay và đặc sắc đi sâu vào lòng người đọc tới như vậy.
Thông qua truyện ngắn cho chúng ta thấy một chân lý có bố là điều vô cùng
hạnh phúc. Một gia đình thì nên có đầy đủ cả cha lẫn mẹ có như vậy trẻ con mới
được trưởng thành một cách vững chắc, hạnh phúc trọn vẹn.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 3
Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại nhắm vào một đứa trẻ
không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ đến với Xi-Mông nếu không gặp được
bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn trích;" Bố của Xi – mông", truyện ngắn đặc sắc
của nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G.Mô-pa-xăng?
Cuộc gặp tình cờ ấy đã thay đổi số phận của cậu bé, đem đến cho em một người
bố thực thụ. Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và
người mẹ của em. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ giúp
mọi người cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này.
Xi-mông là con trai của chị Blăng-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót bị lừa dối nên
phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu cợt, đánh đập vì không
có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái chết. Bác thợ rèn đã dẫn em về nhà và
gặp mẹ em. Thông cảm với hoàn cảnh của Xi-mông và chị Blăng-sốt, bác đã
đồng ý làm bố của Xi-mông. Cuộc gặp gỡ giữa hai người thợ rèn tốt bụng và
chú bé diễn ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy em đã tuyệt vọng vì bị đối xử
một cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó! em cô đơn biết bao, khi những lời chế
nhạo ấy như cao dao đâm thẳng vào trái tim của em. Bởi vậy. em đã nghĩ đến
cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy không phải là một ngày u ám để
những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé
đáng thương. Trời ấm áp, ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như gương, đã
xóa đi phần nào nỗi buồn trong lòng em, để em được trở lại với bản tính hồn nhiên trẻ con của mình.
Dẫu bất hạnh vì thiếu bàn tay chăm sóc của người cha, nhưng em vẫn là một
đứa trẻ ngoan hiểu động. Hình ảnh em chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái
con màu xanh lục và vồ hụt ba lần. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi
nhục lại ùa đến ngay chính vào lúc em bắt được con nhái và chứng kiến cảnh
con vật cố giãy giụa thoát thân. Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến
bản thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt chới với
bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Em vô cùng nhạy cảm nên
ngay lúc ấy "em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và cảm thấy buồn bà vô cùng
em lại khóc". Tiếng khóc ấy khiến bất cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ
cũng dễ mủi lòng. Trong lúc ấy, Xi-mông đã gặp được bác thợ rèn Phi-líp, một
con người tốt bụng. Bác được giới thiệu là "một người thợ cao lớn, râu tóc đen,
xoăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu". Dáng vẻ ấy có lẽ đã tạo được niềm tin và
chỗ dựa tin cậy để em thổ lộ lòng mình.
Em đã không ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ
tủi cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông "cháu
không có bố" được khẳng định hai lần khiến bác đã đoán định được nguyên
nhân sau tiếng nấc buồn tủi của em. Bởi thế, cái mỉm cười ban đầu đã được thay
thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác hiểu đây kô phải chuyện trẻ con mà là vấn
đề hệ trọng gây thương tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản
thẩn bác đã biết mong manh về mẹ em, vì vậy bác đã quyết định đưa em về. Khi
giáp mặt với mẹ Xi-mông, chính thái độ của mẹ em đã phải khiến bác thay đổi
hẳn thái độ: bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn,
xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước
qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị kẻ khác lừa dối. Điều đó chứng tỏ bác là
một con người đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ
sau một cái nhìn. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa con
không có bố, bác đã thể hiện sự trân trọng trước nhân cách một người mẹ và
một đứa con đang được bao bọc.
Chính vì vậy em đã nhận ra phẩm chất của một người bố tuyệt vời – một chỗ
dựa đáng tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương này. Chú bé đã không ngần ngại
đề nghị bất ngờ nhận bác làm bố. Trước khao khát ấy đã khiến bác không thể từ
chối. Không những thế, bác còn bộc lộ sự xúc động trước tâm hồn trong trắng
của em: "Người thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng
bước dài, bỏ đi rất nhanh." Niềm vui có bố đã giúp em khẳng định đầy kiêu
hãnh trước đám bạn. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã
giúp bác có niềm thông cảm sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng xử với người xung quanh, cần
có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng trước những đau khổ bất hạnh của người khác.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 4
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà
văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những
trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế?
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố”
với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em –
chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm.
Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng" đã bị
lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi
trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”,
phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời.
Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo.
Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.
Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới
được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác
cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ
hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất
đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành
hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ này không khỏi
buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau
đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ "'xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông
đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì
“không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô
đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi
nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến
cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của
những em bé trên cõi đời vì một lý do nào đó mà “không có bố".
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất
thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp
lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em.
Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm.
Con nhái màu xanh “dương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ
chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên
nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người
em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”.
Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần
đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình
thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu,
ngoại cảnh có đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh
ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố".
Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, râu tóc đều xoăn…
nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã "lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú
đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi
đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”.
Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho
mẹ em – chị Blăng-sốt.
Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động.
Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố". Đoạn đối thoại
giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô
dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.
Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú
thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng
lên, hôn vào má em và nói: “ Có chứ, chú có muốn" thì tâm hồn em “hoàn toàn
khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”.
Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu
đấy nhé”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có
nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc" (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền
làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh
diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:
“Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó
là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!
Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm
bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-
mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo
dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh
để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông
ở bờ sống, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ” “Có bố thì
hạnh phúc”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu!
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 5
Mông-pa-xăng là một nhà văn nổi tiếng của nước Pháp. Ông để lại số lượng tác
phẩm khá đồ sộ khoảng hơn 300 truyện ngắn. Trong đó, mỗi tác phẩm của ông
đều chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện sự đồng cảm của tác giả với
những con người bất hạnh, thiếu hụt tình cảm vật chất trong cuộc sống.
Tác phẩm "Bố của Xi-mông" kể về câu chuyện bất hạnh, tủi nhục của một em
bé thiếu thốn tình cảm của một người cha, sinh ra không có bố, bị bạn bè trêu
chọc, mọi người xa lánh mẹ con em.
Mẹ của bé Xi-mông chính là nhân vật Blang là một người phụ nữ đáng thương.
Chị có một tình yêu với một người đàn ông đã có vợ, nhưng khi chị mang thai
và sinh Xi-mông thì người đàn ông đó hoàn toàn bỏ mặc hai mẹ con, khiến cho
chị phải mang sự nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ mà sống.
Chị phải làm rất nhiều việc nặng nhọc, làm nhiều nghề khác nhau để nuôi Xi-
mông khôn lớn, lo cho con tới trường, khiến cho người đọc vô cùng thương cảm.
Tuổi thơ của cậu bé Xi-mông là chuỗi những ngày tháng vô cùng đơn độc, cô
đơn lạnh lẽo trong ngôi nhà nhỏ thiếu tình thương của người đời, chỉ có hai mẹ
con em nương tựa vào nhau mà sống.
Đáng ra trường học chính là nơi Xi-mông được hưởng trọn niềm vui của tuổi
thơ, bởi nơi đó có bạn bè thầy cô yêu thương em. Nhưng chính trường học của
Xi-mông lại chính là địa ngục của cậu bé, là nơi mà Xi-mông chịu sự sỉ nhục,
trêu chọc đánh đập của bạn bè. Là nơi độc ác nhất bởi em thường xuyên phải
nghe những lời chửi bới, những lời chế giễu của những cậu bé ngỗ ngược, về
việc Xi-mông không có bố.
Bọn trẻ độc ác đó, cũng như xã hội lúc đó đã thể hiện một cái nhìn thiếu đồng
cảm, thiếu nhân văn với những thân phận như Xi-mông và mẹ của em. Chúng
thường hành hạ em, xé áo em, rồi hất nước bẩn vào người em.
Một lần Xi-mông tới trường, em lại bị bọn trẻ độc ác đó trêu chọc, xé rách áo
của em, rồi sỉ nhục em bằng những lời nói vô cùng tàn nhẫn độc ác, khiến Xi-
mông cảm thấy cuộc đời của mình thật bế tắc. Em tìm ra bờ cỏ ven sông, một
nơi ít người qua lại định tìm tới cái chết, để thoát khỏi cuộc sống này.
Cậu bé Xi-mông đã khóc rất nhiều, một chú bé chỉ mới tám tuổi nhưng em đã
phải chịu đựng nhiều sự đau khổ, tủi nhục trong cuộc sống này, khiến cho em
không còn lối thoát em muốn tìm tới cái chết đã giải thoát chính mình. Suy nghĩ
của cậu bé Xi-mông khiến người đọc vô cùng lo lắng, và cảm thương cho số phận của em.
Cậu bé Xi-mông đến với bãi cỏ xanh mượt bên cạnh một bờ sông, một bãi cỏ
lãng mạn, thơ mộng, nhưng với cậu bé Xi-mông lúc này chẳng có gì làm em
thấy tươi đẹp. Trong tâm trạng u ám đen tối của em thì chỉ có cái chết mới giúp
em thoát khỏi sự cô đơn đang đeo bám mình.
Trong lúc cậu bé Xi-mông khốn khổ đang khóc định tìm tới cái chết, thì một
tình huống bất ngờ đã xảy ra, đó chính là sự xuất hiện của một vị thần. Dù đó
không phải là vị thần, mà chỉ là một người thợ rèn tên là Phi-líp nhưng với cậu
bé Xi-mông thì chú Phi-líp chính là vị thần cứu vớt đời em ra khỏi sự cô đơn đen tối.
Chú Phi-líp nhìn thấy em khóc đã lại gần lau nước mắt cho em, rồi lắng nghe
tâm sự của em. Cậu bé Xi-mông đã kể hết cho Phi- lip nghe về việc ở trường, về
mẹ của em cô Blang khốn khổ đang bị ốm, về việc em không có bố nên mọi
người không yêu thương em.
Chú Phi-líp đã nói rằng anh muốn làm bố của chú bé. Chú bé Xi-mông ngây thơ
vô cùng mừng rỡ. Đoạn đối thoại giữa Xi-mông và chú thợ rèn Phi-líp khiến
người đọc vô cùng xúc động. Rồi sau đó, Xi-mông hãnh diện dắt tay chú Phi-líp về nhà với mẹ.
Rồi hôm sau, Xi-mông cùng người bố của mình cùng nhau tới trường học. Em
hãnh diện nói với bạn bè, những kẻ hay trêu chọc bắt nạt em rằng "Đây là bố
của tao, tao có bố rồi nhé
Cuối cùng tác giả Mô-pa-xăng đã vô cùng nhân đạo khi cho cậu bé Xi-mông
một người bé giúp em cảm thấy mình trưởng thành hơn, em hạnh phúc với tuổi
thơ của mình. Việc Xi-mông có một người bố khiến cuộc sống của em sang một
trang mới, em có thể được sống đúng như một con người không bị bạn bè dè
bỉu, chọc ghẹo, em có thể hòa nhập với cuộc sống bình thường, không còn sự cô đơn, ghẻ lạnh.
Tác phẩm "Bố của Xi-mông" người đọc vô cùng xúc động, nghẹn ngào bởi
những cay đắng mà hai mẹ con của Xi-mông đã phải gánh chịu, nếm trải trong
cuộc sống. Những tủi nhục mà xã hội cũ đã gieo xuống tâm hồn trẻ thơ của một
đứa trẻ thật là tàn nhẫn.
Trong từng trang viết của mình tác giả đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc
của mình. Thể hiện sự đồng cảm của tác giả với những mảnh đời bất hạnh thiếu
thốn tình cảm trong cuộc sống.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 6
Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 – 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ
sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm
lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883), Ông bạn đẹp (1885) và
hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã
hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị
Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi-mông đi học,
em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi-mông buồn tủi,
lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp.
Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời.
Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-
mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng
vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-
mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời.
Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của
ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng
ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết
thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác. Bài văn chia làm 4 phần:
Phân một: Từ đầu đến… mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông.
Phần hai: Từ Bỗng một bàn tay… đến… một ông bố: Xi-mông gặp bác Phi-líp.
Phần ba: Từ Hai bác cháu… đến… đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà.
Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.
Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị
Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn
của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội dung bài văn theo từng nhân vật chính.
Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu
thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé.
Trong bài này không có chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một
đoạn khác của truyện, tác giả cho biết: Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao,
rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn
cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc.
Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho
trái tim nhỏ bé của em rớm máu.
Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ
nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có
bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung
quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-
mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc
kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được vì những
cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choáng ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ
ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.
Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em
thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng
nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.
Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên
ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông
cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.
Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình,
khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là
một trong những cô gái đẹp nhất vùng.
Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng,
hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp.
Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn
cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà
mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối.
Nghe con kể là bị các bạn đánh vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê
tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn
rơi. Khi nghe con hỏi Phi-líp: Bác có muốn làm bố cháu không? thì chị Blăng-
sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.
Bác Phi-líp là một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân
hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đã rất thương em. Bác đã đem đến cho
cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang
tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-líp đã đem lại cho em niềm hi vọng
bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông
rất nhiều. Bác Phi-líp tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.
Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho
em đau khổ vì “bố Phi-líp của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em.
Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ
lời cầu hôn với chị Blăng-sốt.
Bác Phi-líp đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố
hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác
thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi thân đem lại niềm vui sướng
và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-líp là một việc làm nhân đạo cao cả.
Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-líp còn mang lại hạnh
phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một
người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-líp đã thể hiện thái độ trân trọng đối với
chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-líp đã nhận ra
những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu
quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà
không đáng trách, vì bản tính chị không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác
thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.
Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi-líp đã
phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác
Phi-líp nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng
để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người
phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-líp
đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người
đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một
hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt.
Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết
thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại
cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích
cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 7
Những trang viết tuy chỉ là phần đẩu của một truyện ngắn đã vô cùng sinh động
và cảm động. Ở đó có sự sinh động của cuộc sống – cuộc sống diễn ra y như
thật, tươi tắn, hồn nhiên. Còn cảm động vì nó thấm thía tình người, những đau
khổ và ước mơ, những yêu thương và sẻ chia, đùm bọc. Tuy nhiên, đấy chỉ là
một cái nhìn bao trùm tổng thể. Muốn phân tích nó, không có một cách nào
khác hơn, với một tác phẩm tự sự là đi vào nhân vật và nhất là mối quan hệ giữa
các nhân vật ấy với nhau. Đây là yếu tố tạo nên tính cách và hình thành mạch văn, cốt truyện.
Xi-mông, đứa trẻ không cha là nhân vật trung tâm không chỉ xuất hiện thường
trực với tần số cao mà có tác dụng gắn kết các nhân vật còn lại như đám học trò
nghịch ngợm, bác công nhân Phi-líp, người thiếu phụ rơi vào cảnh ngộ đáng
thương. Xi-mông là đứa trẻ tự trọng, nhạy cảm, thông minh. Vì tự trọng em thấy
việc không có cha của mình là nỗi bất hạnh lớn. Còn vì nhạy cảm và thông minh,
Xi-mông bế tắc, không biết chia sẻ cùng ai ngoài việc tìm đến dòng sông để kết
thúc cuộc đời bằng cái chết. Tất nhiên, những đặc điểm trên đây chỉ là một tính
cách mới được hình thành.
Bởi vậy những ý nghĩ đến với em, nhiều khi chỉ như cơn gió. Vừa khóc lóc
xong, rất thèm được ngủ, nhưng bất chợt nhìn thấy một chú nhái màu xanh, Xi-
mông đã quên hết mọi chuyện vừa qua, cả cơn thèm ngủ lúc này. Nhu cầu
nghịch ngợm trỗi dậy ở em mạnh hơn bao giờ hết. "Em định bắt nó. Nó nhảy
thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền". Ở đó có cả sự xuýt xoa và sung
sướng đến bật cười khi tóm được con vật và nhìn nó "cố giãy giụa thoát thân".
Nỗi bất hạnh, cơn thèm ngủ bỗng chốc qua đi không để lại dấu vết. Thậm chí,
em còn nhớ rộng ra, liên tưởng miên man đến những thứ đồ chơi "làm bằng
những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi". Và kết thúc, không hiểu vì sao em lại
nghĩ tiếp đến nhà mình, đến mẹ.
Nhận được một bàn tay tin cậy của một người đàn ông tin cậy, bác Phi-líp (lúc
đầu Xi-mông chưa biết đó là ai), em thấy cần phải giãi bày nỗi niềm cay đắng
xót xa với giọng điệu hờn tủi vì oan ức của mình để "người thợ cao lớn, râu tóc
đen, quăn" thấu hiểu. Sự tin cậy ấy thật hồn nhiên khi hai bác cháu trở về như
một cuộc dạo chơi vui vẻ "người lớn dắt tay đứa bé", như cha và con chẳng còn
một chút gì là ưu tư phiền muộn nữa. Nhu cầu cần có một người cha ở Xi-mông
mạnh mẽ đến mức chỉ cần một cái gì đó na ná như thế, hoặc tưởng tượng ra như
thế, em đã hạnh phúc lắm rồi. Ảo tưởng của Xi-mông chỉ hoàn toàn biến mất
khi em trở về với thực tại, một thực tại tàn nhẫn, phũ phàng qua câu nói và
giọng nói của người thợ mới quen với mẹ Xi-mông: "Đây, thưa chị, tôi dắt về
trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông" (Trong trí óc tuy còn non nớt của mình:
Xi-mông cảm thấy mình đâu có bị lạc vì quên đường, mà em đang đứng trước
một ngã ba không biết rõ con đường tiến thoái).
Nhưng hi vọng ở em không tắt. Để giải thoát cho cảnh ngộ của mình, cũng là
của mẹ (vừa hôn con vừa khẽ tuôn rơi nước mắt), một câu hỏi vụt hiện lên như
một chiếc phao cứu người chết đuối lúc này là: "Bác có muốn làm bố cháu
không?" với bao tha thiết, hồi hộp, lo âu. Thời gian như ngừng lại, như nín thở.
Phải đến lúc, bác Phi-líp đồng ý, đồng ý như một giao kèo, một cam đoan đồng
thuận, Xi-mông mới thật yên tâm. "Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu". Lần
đến trường sau đó, Xi-mông đã trở thành một con người khác hẳn, đầy tự tin.
Lời em nói với "thằng kia" không phải là câu nói thường tình. Đó là bao nhiêu
căm hờn, uất ức bật ra. Xi-mông "quát vào mặt nó những lời này, như ném một
hòn đá", những câu trả lời về bố mình là ai (dù em vì vội quên không hỏi họ của
người ấy): "Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp".
Trong ca dao Việt Nam, có một câu hài hước nhằm đả kích những ông thầy bói
nói dựa ngày xưa "Số cô có mẹ có cha – Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông". Nhưng,
thực tình, nó đâu phải là vô nghĩa. Bởi trong cuộc đời này còn có bao nhiêu kẻ
mồ côi cha hoặc mẹ (thậm chí cả hai). Câu nói hãnh diện của Xi-mông có sức
sâu xoáy vào lòng người chính là những khát khao thật giản dị, thật bình thường
là được "có mẹ", "có cha" như mọi người trong thiên hạ mà thôi. Tính nhân văn
ở cách nghĩ trên đây còn là ước mơ của loài người mãi mãi.
Bác thợ Phi-líp là điểm tựa cho câu chuyện thương tâm mà thật ấm áp tình
người. Hình như, trên một phương diện nào đó, con người bình thường, vô danh
này là lương tâm của nhân loại. Cuộc gặp gỡ giữa bác với Xi-mông vừa ngẫu
nhiên vừa là tất nhiên, quy luật thương người như thương mình. Câu hỏi đầu
tiên với đứa bé đầy tâm sự (ngồi bên dòng sông, ngồi bên cái chết) âu yếm biết
bao: "Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi?". Nhu cầu được chia sẻ,
được gánh chịu, được bảo vệ đối với bác Phi-líp gần giống với một bản năng.
Đó là một con người – đúng nghĩa – ở thái độ không thể thờ ơ, lạnh nhạt, quay
lưng với nỗi khổ của con người, dù con người ấy chỉ là một sinh linh bé nhỏ, và
cũng vô danh như bác. Cái cách hành động của bác lúc đầu là một cách nghĩ rất
đỗi ngây thơ, cốt chỉ là để an ủi và khích lộ đứa trẻ đứng lên: "Thôi nào… đừng
buồn nữa, cháu ơi", "Người ta sẽ cho cháu…. một ông bố". Nhưng khi đến nhà
của mẹ con Xi-mông rồi, nụ cười hồn nhiên và bao dung vì sao vụt tắt? Làm sao
có thể bỡn cợt được với một "cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm nghị trước
cửa nhà mình". Đó là một giới hạn mà con người giàu tướng tượng nhất cũng
không thể vượt qua. Bác Phi-líp cảm thấy mình không được phép bước qua
ngưỡng cửa ngôi nhà ấy. Người đàn ông từng trải đã phải bối rối như một đứa
trẻ thơ, dại dột một cách thật thà trước một vấn đề quá phức tạp mà anh ta đang
gặp phải và không biết xử lý ra sao. Chỉ tới khi có được một cơ hội, ấy là câu
nói thơ ngây (không hàm ý sâu xa nào) của đứa trẻ, bác mới vừa trả lời được
Xi-mông vừa giải thoát được chính mình. "Bác công nhân nhấc bổng em lên,
đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh". Sau này,
con người có tấm lòng nhân hậu ấy còn chia sẻ với Xi-mông, đùm bọc và che
chở cho Xi-mông đúng như một người cha tốt.
Về nghệ thuật của đoạn văn, nên dựa vào tiêu chí nào để đánh giá? Có thể xem
nó là một tác phẩm tự sự thông thường, nhưng có lẽ, đúng hơn cần xác định:
đây là truyện thiếu nhi. Viết về trẻ em và nói bằng giọng điệu trẻ em – cách nhìn
và nghĩ ngây thơ nhất của loài người, ấy là đặc điểm bao trùm của nó. Về
phương diện này, ta nên nghĩ đến Thời thơ ấu của Goóc-ki, những tác phẩm tự
truyện của Nguyên Hồng,… Bố của Xi-mông dựa trên một cái mặt bằng như thế.
Theo định hướng này, Xi-mông đúng là một nhân vật trung tâm. Người mẹ
đáng thương Blăng-sốt là ngôi nhà của em, còn bác Phi-líp là bầu trời của em,
ngôi nhà thì quen thuộc, thân yêu, còn bầu trời là cả một không gian mênh
mông hi vọng. Tâm tình – nghĩa là bao nhiêu cay đắng, buồn vui, mơ ước, cả
một thế giới tâm trạng về số phận con người – quy tụ vào những cảm nghĩ trẻ
thơ. Những cảm nghĩ ấy trong sáng như bầu trời mà bất hạnh chỉ giống như một
thứ mưa bóng mây. Đứa con không có cha không phải là một định mệnh nghiệt
ngã suốt đời, rồi một lúc nào đó, nó không là một ám ảnh. Nhưng hình tượng
nhân vật bé bỏng mà ta vừa nói trên đây là từ con mắt của người lớn nhìn vào.
Do vậy, mà có sự tiết chế và chọn lọc để vừa khắc hoạ một tính cách trẻ thơ vừa
phát hiện được ở chiều sâu những quy luật khách quan của cuộc sống. Lời văn
dung dị, hồn nhiên như không được đẽo gọt đi thẳng vào khả năng cảm nhận
trực tiếp của người đọc, để với người đọc sẽ hình thành một loại văn bản thứ hai
từ những liên tưởng, rung động về cuộc sống mà chính bản thân mình trải
nghiệm. Một tác phẩm hay cũng như cuộc chạy tiếp sức: người viết và người
đọc cứ nối tiếp nhau đi trên một con đường không biết đâu là điểm giới hạn cuối cùng.
Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông - Mẫu 8
Guy Đơ Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của nước Pháp ở thế kỷ 19.
Ông có một tuổi thơ nhiều nỗi buồn, cay đắng với những bất hạnh trong gia
đình và nhà trường. Chính bởi cuộc đời nhiều sóng gió đã làm nên một tác giả
có tấm lòng nhân hậu, vị tha trong từng trang viết. Sự nghiệp văn chương của
ông vô cùng đồ sộ với khoảng trên 300 truyện ngắn, vở kịch và tiểu thuyết.
Một trong những tác phẩm đặc sắc và để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí bạn
đọc là "Bố của Xi-mông". Nhân vật chính của tác phẩm là cậu bé Xi-mông, một
em bé "không có bố" nhưng sau cùng, trải qua những tủi nhục trong cuộc sống,
em đã có một người bố ấm áp và chan chứa tình yêu thương như một sự bù đắp
cho cuộc đời bất hạnh của em.
Câu chuyện kể về cuộc đời của cậu bé Xi-mông. Đó là hoàn cảnh đáng thương
của một em bé sinh ra đã không biết cha mình là ai. Cậu bé có một tuổi thơ bất
hạnh với những ánh nhìn dè bỉu, chê bai, lạnh nhạt của mọi người. Mẹ cậu bé là
Blăng-sốt. Cô từng là một cô gái xinh đẹp nhất vùng. Tuy vậy, cô phải nhận sự
tệ bạc của một gã đàn ông và đánh mất tuổi trẻ của mình. Một mình cô sinh ra
Xi-mông. Hai mẹ con sống với nhau trong một ngôi nhà nhỏ. Mặc dù đã hết
lòng chăm sóc Xi-mông với trách nhiệm của một người mẹ, một người cha
nhưng cũng không thể bù đắp được sự thiếu thốn trong tâm hồn trẻ thơ như cậu bé Xi-mông.
Tưởng chừng như cậu bé bất hạnh ấy có thể sẽ không phải chịu thêm khổ đau gì
nữa. Vậy nhưng bất hạnh vẫn đeo bám cậu khi ở trường. Ngày đầu tiên đi học
cậu đã bị bạn bè đưa ra trêu chọc, nhục mạ và đánh đập vì sinh ra là một đứa trẻ
không có cha. Với sự lạnh nhạt và phân biệt đối xử từ bạn bè, cậu luôn sống
trong bóng tối với sự mặc cảm, tự ti. Chi tiết giọt nước mắt đã thể hiện rất rõ sự
đau đớn, nỗi tủi hờn của Xi-mông.
Điều này đã được tác giả khắc họa rất chi tiết: "cảm giác uể oải thường thấy sau
khi khóc", "và thấy buồn vô cùng, em lại khóc. Người em rung lên", "chẳng
nhìn thấy gì quanh em nữa và em chỉ khóc hoài"...Chính điều này đã thể hiện sự
bi kịch trong tâm hồn cậu bé bất hạnh và từ những suy nghĩ tiêu cực đã khiến
cậu có những hành động và việc làm tiêu cực. Cậu đã có ý nghĩ bỏ ra bờ sông
và tự tử để giải thoát sự đau đớn, dày vò. Nhưng nhờ vẻ đẹp đặc biệt của thiên
nhiên đã khiến cậu vơi bớt đi phần nào sự tủi hờn. Suy nghĩ vẩn vơ và bế tắc,
Xi-mông loay hoay với những ý nghĩ về gia đình, ở đó có mẹ, có nhà...
Thế rồi nỗi tuyệt vọng của em ngày một lớn dần. "Em quỳ xuống và đọc kinh
cầu nguyện...nhưng em không đọc hết được, vì những cơn nức nở lại kéo đến,
dồn dập, xốn xang choán lấy em". Dường như Xi-mông đã được đền đáp. Em
đã gặp được bác Phi-lip, một bác thợ rèn "cao lớn, râu tóc đen quăn… nhân
hậu". Như một phép màu giữa đời thường, chú Phi-lip nhẹ nhàng nói: "Thôi nào,
đừng buồn nữa, về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu...một ông bố".
Câu nói ấy có sức nặng vô cùng lớn, nó khiến tâm hồn của một đứa trẻ bất hạnh,
đau đớn tột cùng trở nên vui vẻ và hào hứng đến kì lạ. Nó xoa dịu mọi nỗi đau
trong tâm hồn cậu bé non nớt ấy.
Cuộc gặp gỡ định mệnh ấy là sợi dây nối kết tình phụ tử, nối kết hạnh phúc gia
đình. Cảnh tượng Xi-mông nhận bác Phi-lip làm cha thật khiến con người ta
chứa chan nhiều xúc cảm. Em ngây thơ hỏi: "Bác có muốn làm bố cháu
không?" đã thể hiện hết được nỗi khát khao cháy bỏng của cậu bé ấy. Và khi
được bác Phi-lip trả lời "Có chứ, bác có muốn" thì tâm hồn của cậu bé như được
vui tươi trở lại. Em nói với một giọng điệu chắc chắn: "Thế nhé! Bác Phi-lip,
bác là bố cháu". Chính sự việc này đã khiến cho em tự tin, hãnh diện và có niềm
tin hơn vào cuộc sống. Đó là sự tin tưởng, lạc quan về hạnh phúc trọn vẹn của
một gia đình. Và ai cũng có quyền được hưởng điều ấy.
Lê Nguyễn Cẩn đã nhận định "Bố của Xi-mông là câu chuyện về một mảnh đời
đặc biệt của trẻ thơ, mảnh đời ấy nhắc nhở mọi người về quyền của trẻ em được
sống trong tổ ấm gia đình. Nó còn cho thấy khát vọng trong sáng của tuổi thơ có
thể đánh thức dậy ở người khác tình yêu thương, lòng nhân hậu và thái độ
không định kiến với những người ở xung quanh mình". Qua nhân vật Xi-mông,
ta cũng hiểu thêm được nhiều điều về cuộc sống, về những ước mơ một mái ấm
gia đình tràn đầy yêu thương của những cô bé, cậu bé bất hạnh.