


Preview text:
"Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giải bày và gửi gắm tâm tư" – nhận định của Lê Ngọc Trà đã khẳng định thiên chức cao cả của văn chương là soi sáng thế giới nội tâm đầy uẩn khúc của con người. Trong dòng chảy miên viễn của truyện thơ Nôm Việt Nam, "Quan Âm Thị Kính" không chỉ đơn thuần là một tác phẩm mang màu sắc tôn giáo mà còn là tiếng khóc xé lòng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trích đoạn bắt đầu từ câu: "Bạch vân kia nẻo xa xa" đến "Mắt ngừng trên vách mấy thu đã chầy" đã tái hiện chân thực nỗi đau khổ, sự nhẫn nhục cùng nghị lực phi thường của nhân vật khi gánh chịu nỗi oan khiên tày trời. Bằng ngôn ngữ giản dị mà súc tích, đoạn trích không chỉ mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà còn khẳng định một tư duy nghệ thuật bậc thầy, để lại sức ám ảnh khôn nguôi.
Ngược dòng thời gian để thấu cảm bi kịch, đoạn trích nằm ở thời điểm Thị Kính bị hàm oan giết chồng, phải giả trai tu hành và tiếp tục bị Thị Mầu vu khống. Vì giữ gìn giới luật và bảo vệ phẩm hạnh trước sự khắc nghiệt của lễ giáo, nàng đành nén đau thương vào lòng, lấy sự tĩnh lặng của cửa thiền làm nơi nương náu. Toàn bộ đoạn thơ là một dòng chảy độc thoại nội tâm đầy uất nghẹn nhưng cũng rất đỗi kiên cường.
Trước hết, bao trùm không gian thơ là tâm trạng cô độc cùng nỗi nhớ thương song thân d a diết. Đứng trước cái vô biên của đất trời, Thị Kính thấy mình nhỏ bé, lạc lõng vô cùng: "Bạch vân kia nẻo xa xa, Song thân ta đấy là nhà phải không?". Hình ảnh "bạch vân" gợi sự phiêu dạt, vô định của một kiếp người lưu lạc. Nàng xót xa vì chưa kịp đền đáp công ơn sinh thành ("Bể, non chưa chút đền công") đã phải chịu cảnh đời nhuốm màu nhục nhã.
Tiếp nối mạch cảm xúc ấy là sự bàng hoàng trước nghịch cảnh trớ trêu của số phận. Thị Kính tự vấn, xoáy sâu vào nỗi đau khi tai ương liên tiếp giáng xuống: "Ngỡ đà qua nạn Cự môn, Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây." Việc vận dụng các thuật ngữ chiêm tinh "Cự môn", "Thái tuế" không chỉ cho thấy sự uyên bác của tác giả mà còn khắc họa nỗi đau nhân vật như một định mệnh nghiệt ngã. Nàng cay đắng cho thân phận "mắt phàm khốn tỏ ngay gian", khi miệng đời độc địa cứ bám lấy nàng như bóng với hình.
Tuy nhiên, điểm sáng ngời nhất chính là tâm thế nhẫn nhục và đức tin hướng thiện mãnh liệt. Dù bị đẩy vào chân tường của sự oan ức, Thị Kính vẫn chọn lấy từ bi để hóa giải hận thù: "Chữ rằng: Nhẫn nhục nhiệm hòa, Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu." Đây là đỉnh cao của bản lĩnh. Nàng chọn cách "rửa đi cho khéo" nhữ ng bụi trần oan nghiệt, qua đây khẳng định sâu sắc một tâm hồn cao khiết, một cốt cách phi thường của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Tựu chung lại, Tâm trạng Thị Kính là sự giao thoa phức tạp giữa cái "tôi" cá nhân đầy u uất và cái "ta" đạo hạnh đang vươn tới sự giải thoát. Nàng không chỉ đau nỗi đau của một người con xa xứ, mà còn đau nỗi bi kịch của một kiếp người bị định mệnh thử thách đến tận cùng.
Song hành cùng nội dung, phương diện nghệ thuật của đoạn trích cũng đạt đến độ chín muồi. Trước hết là sự nhuần nhuyễn thể thơ lục bát – "linh hồn" thi pháp dân tộc. Tác giả khuyết danh đã vận dụng thể thơ này một cách uyển chuyển để diễn tả nhịp điệu của nỗi đau: "Bạch vân kia nẻo xa xa, Song thân ta đấy là nhà phải không?" Sự phối hưởng bằng trắc nhịp nhàng đã biến mỗi dòng thơ thành một nốt nhạc sầu thương, đưa người đọc vào thế giới nội tâm xao động.
Hơn thế nữa, nghệ thuật sử dụng điển tích và từ ngữ Hán Việt đã tạo nên màu sắc trang trọng, cổ kính. Những khái niệm như "Cự môn", "Thái tuế" không đơn thuần là từ ngữ mà là biểu tượng cho tai ương nghiệt ngã, nâng tầm bi kịch cá nhân thành triết lý về thân phận con người trong vòng xoáy nhân quả.
Đặc biệt, nghệ thuật độc thoại nội tâm đóng vai trò then chốt trong việc khắc họa chiều sâu tâm lý. Tác giả đã "nhập thân" hoàn toàn vào Thị Kính để nói lên những điều khó nói bằng các câu hỏi tu từ đầy day dứt: "Mắt phàm khốn tỏ ngay gian, Hai phen đem buộc tiếng oan tày trời." Thủ pháp này đã phá vỡ rào cản giữa văn bản và độc giả, khiến chúng ta như nghe thấy nhịp đập của một "trái tim rỉ máu" đang tự chữa lành vết thương lòng.
Khi đặt trong tương quan so sánh, ta thấy nét gặp gỡ giữa Thị Kính và Thúy Kiều (trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du). Nếu Kiều tại lầu Ngưng Bích nhìn mây để nhớ cha mẹ ("Xót người tựa cửa hôm mai"), thì Thị Kính mang một nỗi đau kép: vừa nhớ thương gia đình, vừa mang nỗi hàm oan không thể giãi bày. Tuy nhiên, nếu Kiều là hiện thân của nỗi đau quằn quại, thì Thị Kính lại đại diện cho vẻ đẹp của sự nhẫn nhục dưới ánh sáng Phật pháp.
Tựu chung lại, những thủ pháp trên chính là "linh hồn" của đoạn trích. Đúng như nhà văn George Eliot đã chiêm nghiệm: "Nghệ thuật không phải là sự mô phỏng thực tại mà là sự sáng tạo lại thực tại bằng ngôn từ và cảm xúc". Tác giả khuyết danh đã sáng tạo vô cùng thành công một không gian nghệ thuật đặc sắc, nơi nỗi đau được thăng hoa thành vẻ đẹp của sự nhẫn nhục.
Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng nhân văn và hình thức biểu đạt tài tình, đoạn trích đã tạc dựng nên một tượng đài về lòng nhẫn nhục. đúng như Nhà văn Nga lỗi lạcLê-ô-nít Lê-ô-nốp từng khẳng định: "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung". Trích đoạn này thực sự là một phát minh khi biến nỗi đau riêng thành tiếng lòng chung của thời đại, khám phá vẻ đẹp nhân phẩm ngay trong bùn lầy oan khiên. Qua đó, ta càng thêm trân trọng tài năng của tác giả khuyết danh, người đã thay mặt nhân dân cất lên tiếng nói công lý.
Tựu chung lại, khi Xâu chuỗi lại toàn bộ mạch cảm xúc, hình ảnh Thị Kính lặng lẽ bên bức vách chùa mãi là biểu tượng đẹp về đức hạnh. Với bản thân em cũng như độc giả, nàng là bài học vô giá về lòng bao dung trước nghịch cảnh. Khép lại những vần thơ đầy trăn trở từ câu: "Bạch vân kia nẻo xa xa" đến khi "mắt ngừng trên vách mấy thu đã chầy" của tác giả khuyết danh, đoạn trích đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình. Tại đây, tác giả khuyết danh xứng đáng là "người thư ký trung thành” như Balzac từng chiêm nghiệm: "Nhà văn là người thư kí trung thành nhất của mọi thời đại". Bởi lẽ, sau tất cả, "Văn học nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội" (Phạm Văn Đồng).