



















Preview text:
 HỌC VIỆN BÁO CHÍ KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ 
 VÀ TUYÊN TRUYỀN                 
TIỂU LUẬN   
MÔN: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ   
Chủ đề: Phân tích tiềm năng và hạn chế trong quá trình phát triển 
kinh tế đối ngoại của Việt Nam        Giảng viên 
 : Nguyễn Thị Thu Hà 
 Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Oanh   Lớp   : QHCT & TTQT K40   Mã sinh viên   : 2056110037     
HỌC VIỆN BÁO CHÍ KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ 
VÀ TUYÊN TRUYỀN                   
TIỂU LUẬN   
 MÔN: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ   
Chủ đề: Phân tích tiềm năng và hạn chế trong quá trình phát triển 
kinh tế đối ngoại của Việt Nam   Giảng viên 
 : Nguyễn Thị Thu Hà 
 Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Oanh   Lớp   : QHCT & TTQT K40 
 Mã sinh viên : 2056110037       
MỤC LỤC  I. 
Những hiểu biết về kinh tế đối ngoại......................................................... 1 
1.1. Khái niệm “ Kinh tế đối ngoại” ..................................................1  
1.2. Cơ sở khách quan của việc hình thành kinh tế đối ngoại .............2 
1.3. Vai trò của kinh tế đối ngọai .....................................................4  II. 
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại .......................................................5 
2.1. Tình hình trên thế giới ................................................................5 
2.2. Tình hình Việt Nam từ sau đổi mới đến nay ..............................7 
2.2.1. Đánh giá chung ...........................................................7 
2.2.2. Những thành tựu cơ bản ..............................................9 
2.2.3. Những hạn chế còn tồn tại .........................................11 
 III. Tiềm năng và những thách thức trong việc phát triển kinh tế đối ngoại.........13 
 3.1. Những tiềm năng phát triển kinh tế đối ngoại ............................13 
 3.2. Những thách thức trực tiếp đối với Việt Nam ............................16 
IV. Giải pháp phát triển kinh tế đối ngoại .......................................................19 
4.1. Lợi ích của việc mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại .....................19 
4.2. Phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại ....................................20 
KẾT LUẬN ............................................................................................................23 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................24        1    NỘI DUNG 
III. Những hiểu biết về kinh tế đối ngoại 
3.1. Khái niệm “ Kinh tế đối ngoại” 
 Khái niệm về kinh tế đối ngoại theo giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lênin do 
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đưa ra như sau: “Kinh tế đối ngoại của một quốc 
gia là một bộ phận kinh tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công 
nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia còn lại hoặc với các tổ chức kinh 
tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên 
cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế”. 
Trên tổng quan thì khái niệm về kinh tế đối ngoại có vẻ giống với kinh tế quốc 
tế vì đều thiên về nghiên cứu các lý thuyết, mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, 
lãnh thổ khác nhau. Dù vậy, kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế về bản chất vẫn là 
hai khác niệm khác biệt. Ở chỗ, kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của 
nó là một quốc gia với bên ngoài- với nước khác hoặc tổ chức kinh tế quốc tế khác, 
nghĩa là kinh tế đối ngoại luôn đại diện cho một quốc gia mà từ đó đưa ra chiến lược, 
chính sách rõ ràng để bảo hộ quyền lợi cho quốc gia đó và những bên còn lại trong 
mối quan hệ kinh doanh. Trong khi đó, quan hệ quốc tế là mối quan hệ kinh tế với 
nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế, 
nghĩa là đem lại cái nhìn tổng thế về mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trên thê 
giới, nhằm bảo hộ mậu dịch và thương mại tự do chứ không đại diện cho một quốc 
gia nào và không có chiến lược, chính sách riêng cho quốc gia nào. 
Chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế đối ngoại là các quốc gia, tuy nhiên chủ 
thể tham giao vào các quan hệ phát sinh từ hoạt động kinh tế đối ngoại rất đa dạng 
bao gồm: các công ty, các xí nghiệp, các hiệp hội, các tập đoàn quốc tế, các công ty  xuyên quốc gia  2   
3.2. Cơ sở khách quan của việc hình thành kinh tế đối ngoại 
Từ thời cổ xưa, sự xuất hiện “ con đường tơ lụa”- một hệ thống các con đường 
buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu, đó là minh chứng 
cho việc quan hệ kinh tế quốc tế đã xuất hiện từ rất sớm. Sự giao thoa thương mại 
giữa nhiều nước mang lại nhiều lợi ích cho các nước tham gia. Mỗi nước từ những 
lợi thế như, điều kiện tự nhiên khác nhau, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, trình độ 
chuyên môn hóa lao động khác nhau. Tuy nhiên, thời kì này, quan hệ kinh tế quốc 
tế nhìn chung mà nói mới chỉ xuất hiện mà chưa phát triển mạnh mẽ bởi chưa có sự 
xuất hiện của công nghệ thông tin và các phương tiện vạn tải. 
Về mặt lý luận, thì lý thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo là cơ sở 
cho việc hình thành kinh tế đối ngoại. Theo đó, trong một môi trường chung đó là 
thế giới gồm nhiều quốc gia và dân tộc, Một dân tộc có hiệu quả thấp hơn so với các 
dân tộc khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, vẫn có cơ sở cho phép 
tham gia vào sự phân công lao động và thương mại quốc tế, tạo lợi ích cho dân tộc 
mình.Theo ông, một hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế tương đối là những hàng hoá, 
dịch vụ mà việc tạo ra nó có những bất lợi ít nhất. Và hàng hoá hoặc dịch vụ không 
có lợi thế tương đối là những hàng hoá, dịch vụ mà việc sản xuất ra chúng có nhiều 
bất lợi nhất.Và cũng theo lí thuyết này, một quốc gia cho dù bất lợi trong sản xuất 
các loại hàng hoá dịch vụ so với các quốc gia khác vẫn có thể tham gia thương mại 
quốc tế nếu biết lợi dụng sự chênh lệch về tiền lương và theo đó là tỷ giá giữa hai 
đồng tiền nội tệ và ngoại tệ khi thực hiện trao đổi quốc tế 
Về mặt thực tiễn, với sự càng phát triển của thời đại ngày nay, quan hệ kinh tế 
đối ngoại được tạo điều kiện phát triển rất mạnh ở ở mỗi quốc gia nói riêng và toàn 
thế giới nói chung. Quan hệ kinh tế đối ngoại là một xu thế mới và tất yếu mà các 
quốc gia phát trên đường đua phát triển sống còn cần nắm bắt và tham gia vận dụng 
tốt. Các quốc gia phát triển thì tham giam để phát triển hơn, các quốc gia đang và  3   
chưa phát triển thì vận dụng để nâng cao vị thế. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những 
thời cơ và những thách thức mới, quốc gia nào nắm bắt được thời cơ đó thì phát triển 
nhanh hơn và ngược lại thì sẽ nhanh chóng bị bỏ lại. Bối cảnh này khiến việc mở 
rộng quan hệ kinh tế trở thành tất yếu và là điều gần như bắt buộc đối với mọi quốc 
gia bởi không một quốc gia nào muốn bị bỏ lại. 
Thời đại ngày nay phát triển với nhiều đột phá, tuy nhiên sự ra đời của cách 
mạng khoa học- công nghệ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp nhất của toàn cầu 
hóa kinh tế. Bởi lẽ, thứ nhất, cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tạo ra sư 
phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất làm cho nó vượt khỏi khuôn khổ các quốc 
gia, đòi hòi phải mở rộng không gian kinh tế mới để đáp ứng nhu cầu của lực lượng 
sản xuất và vận dụng khả năng sử dụng hiệu quả. Thứ hai, cách mạng khoa học công 
nghệ giải quyết vấn đề về phương tiện vận chuyển hàng hóa, nếu như ở thời “ con 
đường tơ lụa”, các quốc gia vận chuyển thương mại bằng phương tiện chủ yếu là lạc 
đà, điều này đồng nghĩa rằng việc vận chuyển mang yếu tố “may rủi” vì một khi con 
lạc đà đó mất sức sẽ làm quá trình di chuyển chậm lại, hơn nữa tốc độ di chuyển của 
lạc đà rất chậm. Tuy nhiên, ngày nay với sự ra đời của nhiều phương tiện như tàu 
thuyền, máy bay,..rút ngắn khoảng cách ở nhiều quốc gia vì động cơ ổn định và tốc 
độ nhanh. Ba là, việc ra đời khoa học công nghệ tạo nên một cuộc chiến ngầm giữa 
những quốc gia bởi khoa học công nghệ là thước đo sự phát triển của quốc gia đó và 
khoa học công nghệ của quốc gia phát triển cũng đồng nghĩa với việc năng suất lao 
động tăng lên. Đối với những quốc gia chưa phát triển về khoa học công nghệ, nhờ 
sự ra đời của kinh tế đối ngoại mà có thể tiếp cận khoa học công nghệ của các nước 
khác nhằm học hỏi và phát triển. Cuối cùng, cách mạng khoa học công nghệ làm 
xuất hiện nhiều vấn đề toàn cầu ( môi trường, tội phạm quốc tế, khoảnh cách chênh 
lệch giàu nghèo giữa các nhóm người,..), quan hệ kinh tế đối ngoại giúp các nước có 
cơ hội ngồi lại và đề ra những chính sách giải quyết hiệu quả.  4   
Hơn nữa, phân công lao động quốc tế cũng là cơ sở cho việc hình thành và 
phát triển kinh tế đối ngoại. Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc 
sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia 
nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, 
kinh tế, khoa học, công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông  qua trao đổi quốc tế . 
3.3. Vai trò của kinh tế đối ngọai 
Kinh tế đối ngoại của nước ta gồm năm hoạt động chính: hoạt động ngoại 
thương xuất nhập khẩu, hoạt dộng đầu tư hợp tác quốc tế, hoạt động hợp tác lao động 
quốc tế, du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như thu dổi tiền 
ngoại tệ, bán hàng lưu niệm bằng tiền nước ngoài,...Kinh tế đối ngoại đóng một vai 
trò rất quan trọng đối với việc phát triển nền kinh tế nói riêng và phát triển đất nước 
nói chung. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, kinh tế đối ngoại ngày càng có vai 
trò to lớn, nếu thực hiện tốt những chính sách kinh tế đối ngoại, quốc gia đó có thể 
khẳng định vị trí của mình trên thế giới.Từ đấy, có thể khái quát vai trò to lớn của 
kinh tế đối ngoại qua các mặt sau đây: 
Thứ nhất, từ xu thế mới của thời đại, là cơ sở khách quan để hình thành kinh tế 
đối ngoại, từ đó có thể thấy kinh tế đối ngoại góp phẩn thúc đẩy quá trình đổi mới 
và mở cửa hội nhập quốc tế nhằm nâng cao cạnh tranh, nội lực của nền kinh tế. G  óp 
phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối 
liền thị trường trong nước với thị trường quốc tế và khu vực. Đặc biệt đối với những 
quốc gia đang phát triển như Việt Nam, kinh tế đối ngoại hỗ trợ nâng cao vị thế về 
chính trị, ngoại giao,... 
Thứ hai, bằng những chính sách kinh tế đối ngoại tài tình, cho thấy tầm nhìn và 
vị thế của quốc gia, góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp( FDI) vốn viện trợ chính  5   
thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA) nhằm cung ứng nguồn lực 
cho sự phát triển kinh tế đất nước; thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khai thác 
và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước 
ta. Thông qua kinh tế đối ngoại, Chính phủ tăng cường hoàn thiện phát luật, chính 
sách đầu tư, kết cầu hạ tầng kinh tế, nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp 
dẫn, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các quốc gia, các tổ chức quốc tế. 
Thứ ba, góp phần tích lũy vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên 
tiến hiện đại từ các nguồn vốn FDI, FII và ODA tình trạng thiếu vốn của các nước 
đang phát triển được điều hòa, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đóng góp quan 
trọng cho nguồn thu ngân sách thông qua việc nộp thuế. 
Thứ tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, 
giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo 
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tại Việt Nam, 
điều này được minh chứng rõ ràng khi Việt Nam đẩy mạnh kinh tế đối ngoại nói 
riêng và kinh tế quốc tế nói chung, đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 
ra thị trường quốc tế, tăng trưởng mạnh mẽ kể cả giai đoạn khủng hoảng kinh tế- tài 
chính toàn cầu và bùng phát dịch Covid- 19. 
Nhìn chung, để phát huy những vai trò đã nêu trên, các chính sách kinh tế 
đối ngoại cần được ban hành theo đúng hướng và khắc phục tối đa những khuyết  điểm h ệ i n thời. 
IV. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
4.1. Tình hình trên thế giới 
Về cơ hội, hòa bình và hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Xu 
thế phát triển thế giới đa cực, đa trung tâm ngày càng định hình rõ nét. Bên cạnh đó,  6   
xu hướng phát triển của kinh tế thế giới đang có dấu hiệu chuyển dần sang các nước 
đang phát triển, từ phương Tây sang phía Đông và xuống phía Nam. Việt Nam, với 
tư cách là một nước đang phát triển, lại có quan hệ kinh tế đa dạng với nhiều nước 
thuộc cả nhóm phát triển và đang phát triển, hoàn toàn có thể tận dụng xu hướng 
này, tham gia vào các tập hợp lực lượng kinh tế mới để đẩy mạnh tăng trưởng kinh 
tế quốc gia. Cơ hội này giúp cho quá trình kinh tế đối ngoại diễn ra là điều tất nhiên 
và tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào xu thế chung của thế giới 
Về thách thức, nhìn chung bên cạnh xu thế hòa bình và hợp tác tạo ra, bối cảnh 
thế giới hiện nay cũng tồn tại rất nhiều thách thức đối với những nước đang phát 
triển như Việt Nam trước áp lực của những cường quốc, mà nổi bật hiện nay là vấn 
đề cạnh tranh quyền lực của hai nước lớn Mỹ- Trung. Trung Quốc trỗi dậy trở thành 
đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Mỹ. Hiện nay, Trung Quốc đã hội tụ đủ điều kiện để 
thay thế Liên Xô/Nga trở thành đối thủ của Mỹ khi kết hợp được cả sức mạnh kinh 
tế và quân sự, sự khác biệt với Mỹ về hệ giá trị và tổ chức chính trị - xã hội và ý chí 
vươn lên trở thành nước lớn đang tìm cách thay đổi trật tự hiện hành. Cạnh tranh Mỹ 
- Trung đang tăng lên. Mỹ tìm cách đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc nhằm 
duy trì vị trí dẫn dắt trật tự thế giới và khu vực. Sự điều chỉnh chính sách đối nội và 
đối ngoại của Mỹ đã tạo ra những chuyển động mới trong tình hình khu vực liên 
quan đến chuỗi “hành động - phản ứng” trong quan hệ Mỹ - Trung và quá trình tập 
hợp lực lượng mới trong khu vực. 
Hơn nữa bên cạnh đặc thù nằm ở vị trí châu Á- Thái Bình Dương mang lại 
nhiều tiềm năng thì đây cũng là khu vực đang chứa đựng nhiều bất ổn định. Châu Á 
- Thái Bình Dương đã và sẽ là khu vực có khả năng xảy ra nhiều biến động nhất và 
những biến động này sẽ tác động mạnh trên phạm vi toàn cầu. Đó là các vấn đề:  7   
• Dân số đông nhất, dân số khu vực gần 4 tỷ người, gấp 8-10 lần EU, 
chiếm hơn một nửa dân số thế giới; có 4 trong số những quốc gia đông dân 
nhất thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Indonesia. 
• Môi trường chính trị/xã hội đang chuyển động nhanh theo hướng đô 
thị hóa, dân chủ hóa, trung lưu hóa, cá nhân hóa, kể cả bần cùng hóa - là khung 
cảnh thuận lợi cho các trào lưu dân tộc cực đoan, dân túy phát triển. 
• Có sự hiện diện của nhiều nước lớn nhất, nổi bật là Mỹ và Trung Quốc; 
đồng thời, trong đó cạnh tranh Mỹ - Trung đang là thách thức đặt ra toàn cầu 
đối với những nước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế đối ngoại 
• Thiếu một cơ chế/trật tự an ninh, kinh tế bao trùm để điều hòa quan hệ 
giữa các nước trong khu vực. 
• Sự đan xen của các yếu tố đối nội và đối ngoại, các vấn đề an ninh 
truyền thống và phi truyền thống, và sự tồn tại lúc âm ỉ, lúc bùng phát của các 
điểm nóng khu vực (Biển Đông, Hoa Đông, Đài Loan và Bán đảo Triều 
Tiên...) và các tranh chấp về tài nguyên. Kết quả là quan hệ quốc tế trong khu 
vực châu Á - Thái Bình Dương vận động nhanh và biến động khó lường. Điều 
chỉnh chính sách và cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn khu vực châu Á 
- Thái Bình Dương sẽ trở thành yếu tố quyết định đến trật tự thế giới trong  tương lai. 
4.2. Tình hình Việt Nam từ sau đổi mới đến nay 
4.2.1. Đánh giá chung 
Để nói về nền kinh tế Việt Nam từ xưa đến nay, có thể chia thành bốn giai đoạn, 
mà giai đoạn tập trung phát triển kinh tế đối ngoại nhất là giai đoạn cuối. Thời kỳ 
1945-1954, thời kì đầu đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng 
chiến. Thời kỳ 1955-1975, khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện  8   
các chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất. Thời kỳ 
1976-1985, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp kinh tế đối ngoại chủ yếu 
diễn ra trong khối các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần viện trợ dựa theo nguyên 
tắc hàng đổi hàng; quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa, các nước không 
thuộc khối xã hội chủ nghĩa rất hạn chế do ý thức hệ và chính sách bao vây, cấm vận 
của Mỹ và các nước phương Tây. Thời kỳ 1986-2000, thực hiện đường lối đổi mới 
nền kinh tế. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn 
diện đất nước, trước hết thực hiện đổi mới về kinh tế, đưa ra quan điểm đổi mới kinh 
tế đi đôi với đổi mới về chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, xác định vai trò 
và vị trí quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong nền kinh tế quốc dân. Đại 
hội chỉ rõ: “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng 
như sự nghiệp phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của 
nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc 
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Chủ trương sử dụng tốt khả năng 
thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài; thu hút mọi nguồn 
lực cho phát triển kinh tế, mở rộng, nâng cao hiệu quả đối ngoại, đẩy mạnh công tác 
đổi mới chính sách và cơ chế xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế đất nước. Việt 
Nam rất coi trọng việc “tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc 
tế”, trước hết là với các đối tác truyền thống, như Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và với 
các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV); chủ trương “tích cực 
phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước khác, với các tổ chức 
quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”. Đây là một 
chủ trương mới về kinh tế đối ngoại của Đảng, là cơ sở quan trọng cho những chính  sách kinh tế tiếp theo.      9   
4.2.2. Những thành tựu cơ bản 
Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam từ sau khi đổi mới đạt được 
nhiều thành tựu nổi bật, có thể điểm qua bốn giai đoạn đầy chú ý sau đây: 
• Trong 20 năm đầu (1986 - 2006), bước đầu hình thành các ngành 
sản xuất hướng về xuất khẩu, xuất hiện hai mặt hàng xuất khẩu quan 
trọng làm thay đổi đáng kể cán cân thương mại là dầu thô và gạo, lần đầu 
tiên có dự trữ ngoại tệ (tuy không lớn), thu hút được vốn FDI của nước  ngoài. 
• Từ năm 1989, Việt Nam thực hiện chính sách tự do hóa thương 
mại, mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu và cải thiện cán cân 
thương mại. Quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nam được mở rộng với nhiều  nước trên thế giới. 
• Tính đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam có quan hệ 
kinh tế và thương mại với 140 quốc gia; có tới gần 70 nước và vùng lãnh 
thổ đầu tư vào Việt Nam; hoạt động xuất, nhập khẩu tăng lên đáng kể, 
đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu lương thực; tỷ lệ đóng góp của khu 
vực FDI trong GDP tăng dần từ 13,3% năm 2000 lên 13,8% năm 2001, 
16% năm 2005, 17,1% năm 2006; tiến hành hợp tác khoa học, kỹ thuật 
và chuyển giao công nghệ với nhiều nước trên thế giới; hoạt động dịch 
vụ thu ngoại tệ đạt được nhiều thành tựu nổi bật. 
Những kết quả trên đây cho thấy đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển 
kinh tế đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập: Mỹ bỏ cấm vận 
(năm 1994) và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (năm 1995), Việt Nam gia 
nhập ASEAN (năm 1995), tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình 
Dương (APEC) (năm 1998), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (năm  10   
2006). Việc mở rộng hợp tác quốc tế tạo đà cho kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển 
mạnh mẽ ở những giai đoạn tiếp theo, đóng góp quan trọng vào công cuộc công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước (trong đó có 3 đối tác 
chiến lược toàn diện, 13 đối tác chiến lược, 14 đối tác toàn diện) và có quan hệ bình 
thường với tất cả các nước lớn trên thế giới, có quan hệ thương mại với 224 đối tác, 
trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta, có quan hệ hợp tác với hơn 
500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp 
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều 
hiệp định hợp tác khác với các nước và tổ chức quốc tế. Việt Nam chủ động tham 
gia định hình các khuôn khổ, nguyên tắc hợp tác và đóng góp có trách nhiệm tại Liên 
hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC... Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam 
tăng cường hợp tác, đối thoại chiến lược và đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều 
sâu, thực chất và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận 
lợi cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ Tổ  quốc. 
Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại đạt kết quả rất ấn tượng, dòng vốn FDI vào Việt 
Nam tuy có nhiều biến động nhưng tổng vốn có xu hướng tăng lên theo thời gian, 
tính đến ngày 20-2-2020, có 31.434 dự án còn hiệu lực của 136 quốc gia và vùng 
lãnh thổ với tổng vốn đăng ký đạt 370 tỷ USD (vốn thực hiện đạt khoảng 50%), 
trong đó chủ yếu đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo, chế biến (58,5%), bất động 
sản (15,9%), điện, khí, nước, điều hòa (7,5%), dịch vụ ăn uống, lưu trú (3,3%) và từ 
các nền kinh tế lớn trong khu vực như Hàn Quốc (18,5%), Nhật Bản (16,1%), Xin-
ga-po (14,6%); xuất khẩu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2019 đạt 16,7% từ 
39,8 tỷ USD năm 2006 lên 264,2 tỷ USD năm 2019, tương tự, nhập khẩu tăng 15,4%  11   
từ 44,9 tỷ USD năm 2006 lên 253,1 tỷ USD năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu mạnh 
mẽ đã cải thiện đáng kể cán cân thương mại của nước ta. Vốn ODA cung cấp cho 
Việt Nam tăng mạnh qua các giai đoạn, từ 1993 - 2015 vốn cam kết đạt 91,1 tỷ USD, 
vốn giải ngân đạt 58 tỷ USD (63,7%), phần lớn vốn chưa giải ngân của thời kỳ trước 
được chuyển tiếp sang thực hiện của giai đoạn 2016 - 2020(12). Nhìn chung, sau gần 
35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế đối ngoại nước ta đã phát triển nhanh 
và mạnh, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và tạo đà phát 
triển trong giai đoạn mới. 
4.2.3. Những hạn chế còn tồn tại 
 Sau gần 35 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những thành tựu 
đạt được, kinh tế đối ngoại Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau: 
Thứ nhất, nhìn chung nền kinh tế chưa đi theo cơ cấu có hiệu quả, theo đó chính 
sách liên quan đến thu hút FDI chậm được đổi mới. Việt Nam vẫn đang “dẫm chân” 
ở vị trí quốc gia đang phát triển vì sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và 
sản phẩm vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực; việc phát triển 
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy có những chuyển biến 
tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi lúng túng trong việc 
xác định hướng đi; vai trò của kinh tế tư nhân tuy đã được xác định là một trong 
những động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng cần có thêm những chính sách cụ 
thể để phát huy trong thời gian tới. Cũng trong công tác làm nghề các cán bộ hoạt 
động kinh tế đối ngoại, chưa tiếp cận tốt những xu thế của thời đại biểu hiện ở những 
chính sách và hành động của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài vẫn chưa 
thật sự đồng đều, toàn diện. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối 
ngoại vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục được nâng cao năng lực và trang bị những 
kỹ năng cần thiết, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế, kỹ năng  12   
thương lượng, đàm phán, vận động… Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế 
đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu 
cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của 
Việt Nam vẫn chủ yếu là các công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, 
không đa dạng hóa các hoạt động khiến lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế thua 
kém các công ty xuyên quốc gia của các quốc gia khác. 
Thứ hai, hạn chế vẫn đến từ sự hoạt động chưa hiểu quá của các cán bộ kinh tế. 
Đến nay, nhiều công dân vẫn chưa cập nhật hoặc thậm chí chưa có kiến thức về hội 
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Không chỉ là công dân bình thường mà các các bộ cấp 
trung ương nhiều khi vẫn ỡm ờ
 về những kiến thức ấy. Công tác phổ biến thông tin, 
kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật sâu rộng ở tất cả các cấp từ trung 
ương đến địa phương và cả trong cộng đồng doanh nghiệp. Toàn dân mà thiếu hiểu 
biết trong việc tiếp cận xu thế mới của của giới sẽ khiến mọi người thiếu ý chí vươn 
lên sáng táo, phát triển đất nước. Bên cạnh đó, việc cung cấp thông tin tham mưu 
chiến lược về tình hình kinh tế thế giới, về đối tác, thị trường trong thời gian qua đã 
được tăng cường, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh mới... Khả năng 
nhận định, đánh giá và dự báo tình hình chưa cao, các vấn đề về xây dựng cơ chế 
nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh 
Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu. 
Thứ ba, mặc dù những chiến lược quan hệ đối ngoại đã được hoạch định rõ 
ràng, tuy nhiên hiệu quả hợp tác chưa được như kỳ vọng, ngoại giao đa phương chưa 
phát huy hết các lợi thế, chưa tận dụng tốt các cơ hội để kinh tế nước ta hội nhập 
quốc tế nhanh và sâu hơn. công tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ trợ xúc tiến kinh 
tế đối ngoại chưa ngang tầm với tiềm năng quan hệ giữa Việt Nam và đối tác. Về 
mặt chính sách, Việt Nam đang thiếu một Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế  13   
quốc tế, từ đó tăng cường hiệu quả và tính chủ động trong phối hợp liên ngành để 
triển khai các cam kết quốc tế. 
 III. Tiềm năng và những thách thức trong việc phát triển kinh tế đối ngoại  
3.1. Những tiềm năng phát triển kinh tế đối ngoại  
Việt Nam là một quốc gia được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm 
năng phát triển kinh tế đối ngoại nhất. Những tiềm năng là sự thống nhất giữa nhiều 
yếu tố: chế độ chính trị an ninh xã hội, nguồn nhân lực và con người Việt Nam, tài 
nguyên thiên nhiên,…Trước hết, về chế độ chính trị- xã hội, Việt Nam là Nhà nước 
Xã hội chủ nghĩa pháp quyền đơn đảng ( Đảng Cộng sản Việt Nam), chế độ này 
được thiết từ sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất hai miền Nam- Bắc vào ngày 
25/4/1976. Từ khi thống nhất đất nước vào ngày 25- 4- 1976 với tên chính thức là 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa 
đơn đảng ( Đảng Cộng sản Việt Nam), nước ta đã thiết lập được một chế độ chính 
trị- xã hội ổn định, được quốc tế thừa nhận là một trong những quốc gia an toàn 
nhất cho các hoạt động kinh tế, đặc biệt là các hoạt động kinh tế đối ngoại. Không 
ai dám phủ nhận công sức và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam 
tạm tính từ năm 1945 trở lại đây. Với những thành tích nổi trội và cuộc đấu tranh 
giải phóng dân tộc qua các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Đảng Cộng sản 
Việt Nam từ khi sơ khai đến khi làm chủ vận mệnh của đất nước trở thành quốc gia 
độc lập, tự do, hạnh phúc, họ đã lấy được niềm tin yêu của đa phần người dân trong 
cả nước, họ đã làm được những điều kỳ diệu mà không nhiều quốc gia trên thế giới 
làm được. Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn đối với những nhà đầu tư quốc tế, 
trước sự bất ổn của thế giới như vụ xả bom ở hai tòa tháp đôi ở Mỹ, vấn đề xung đột 
giữa Triều Tiên, Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam sẽ là một lựa chọn an toàn và bền 
vững cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới.  14   
Về tài nguyên thiên nhiên, thiên thời- địa lợi- nhân hòa là ba yếu tố quyết định 
sự thành công của một vấn đề. Ở vị trí thuận lợi và có nhiều tài nguyên thiên nhiên 
quý giá, Việt Nam có rất nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại từ việc khai 
thác tài nguyên thiên nhiên có sẵn. Trước hết, về địa kinh tế, dải đất hình chữ S của 
Việt Nam nằm ở vị trí đắc địa, tiếp giáp với nhiều vùng lãnh thổ có thị trường năng 
động. Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, khu vực châu Á- Thái Bình 
Dương. Đây được đánh giá là trung tâm kinh tế mới của thế giơi sẽ thay thế châu Âu 
trong tương lai. Với thuận lợi này, Việt Nam dễ dàng giao thoa phát triển và hội 
nhập kinh tế- thương mại, văn hóa, khoa học- kĩ thuật với các nước trong thế giới và 
khu vực. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam hiện là thành viên của 
rất nhiều cơ chế hợp tác đa phương. Mặc dù các cơ chế này có chức năng chồng 
chéo, tính ràng buộc thấp, hiệu quả hợp tác hạn chế, nhưng chỉ riêng sự tồn tại tiếp 
tục của chúng cũng đã là một điều kiện thuận lợi cho Việt Nam. Thông qua các thể 
chế này Việt Nam tiếp tục có phạm vi hoạt động đối ngoại rộng. Cụ thể, tham gia 
vào các cơ chế đa phương trong khu vực giúp tiếng nói của Việt Nam có trọng lượng 
hơn; vai trò của chúng ta trong các vấn đề khu vực được nâng cao; lợi ích quốc gia 
được đảm bảo tốt hơn đặc biệt khi lợi ích đó gắn với lợi ích của khu vực. Khu vực 
châu Á - Thái Bình Dương trở thành trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng hàng 
đầu thế giới. Sự chuyển dịch này được thể hiện trên nhiều khía cạnh như các nền 
kinh tế khu vực ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP toàn cầu, dẫn đầu thế 
giới về tăng trưởng và liên kết kinh tế; Mỹ và các nước lớn đều điều chỉnh chính 
sách đối ngoại hướng về châu Á - Thái Bình Dương và coi trọng khu vực. Trong 
cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng tại đây, các đối tác trong và ngoài khu vực luôn 
phải tìm tòi, khởi xướng những nội dung hợp tác mới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam 
có thể phát huy vị trí địa chiến lược của một nước Đông Nam Á - nằm ở trung tâm 
của sự chuyển dịch, qua đó thúc đẩy các dự án hợp tác có lợi cho ta trong nhiều lĩnh 
vực khác nhau, đồng thời làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác trong và ngoài  15   
khu vực. Đặc biệt, yếu tố Trung Quốc trỗi dậy đã mang lại một số lợi thế mới cho 
Việt Nam. Đó là sự cận kề về địa lý với Trung Quốc đã tạo cho Việt Nam một số lợi 
thế về địa chiến lược (quy định bởi cạnh tranh nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - 
Trung) và địa kinh tế (quy định bởi độ lớn của thị trường Trung Quốc; chiến lược  China Plus One). 
Tiếp đó, với đường bờ biển dài 3200km trải dài trên 15 vĩ tuyến, cùng những 
cảng quốc tế trên những tuyến hàng hải quan trọng, Việt Nam dễ dàng vận chuyển 
hàng hóa trao đổi và giao thương quốc tế, cũng là điểm đến hấp dẫn mà nhiều cường 
quốc muốn giao thương vì vị trí thuận lợi giúp cho việc giao thương dễ dàng, chi phí 
rẻ và ít rủi ro. Bên cạnh đường bờ biển dài, vùng biển Việt Nam vô cùng rộng lớn 
và giàu tài nguyên- mang lại nhiều giá trị kinh tế cao trong lĩnh vực xuất khẩu. 
Bên cạnh đường biển, Việt Nam còn nằm chắn ngang đường hàng không từ 
Tây sang Đông, từ Nam ra Bắc và có khá nhiều sân bay quốc tế quan trọng khác nên 
việc vận chuyển, giao lưu càng có nhiều thuận lợi ở hàng không và hàng hải. Điều 
này, không chỉ mang lại lợi thế trong luân chuyển hàng hóa mà còn giúp Việt Nam 
dễ dàng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. 
Hơn nữa, tiềm năng du lịch của Việt Nam trong việc phát triển hình thức du 
lịch trong kinh tế đối ngoại, cũng được thiên nhiên rất ưu ái. Việt Nam có tiềm năng 
lớn để phát triển du lịch vì nó được ưu đãi với vị trí thuận lợi về địa lý, khí hậu 
và điều kiện tự nhiên, bao gồm cả một đường bờ biển dài hơn 3.000 km dọc 
theo nước với rừng cây xanh và cảnh quan hùng vĩ. Việt Nam tự hào có hơn 125 bãi 
biển và nằm trong danh sách 12 quốc gia hàng đầu cho những vịnh đẹp nhất trên thế 
giới. Du lịch đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam với kim 
ngạch xấp xỉ 200.000 tỷ đồng vào năm 2013, từ đó mỗi năm con số này đều tăng lên  đầy đáng kể.  16   
Ngoài ra, vấn đề khí hậu hay tài nguyên cũng mang lại rất nhiều thuận lợi cho 
Việt Nam. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế 
độ gió mùa châu Á; có nhiều vùng tiểu khí hậu thuận lợi cho việc đa dạng cây trồng; 
nguồn năng lượng tự nhiên quan trọng, có thể khai thác và sử dụng vào việc kinh 
doanh du lịch; độ ẩm cao, lượng mưa trung bình năm khá lớn, cho phép khai thác 
hiệu quả tài nguyên đất đai và nhân lên nhiều lần quỹ đất canh tác. Tài nguyên 
khoáng sản: Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong 
đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn (than, sắt, đầu mỏ, bôxit, aptit ...). Nguồn tài 
nguyên mang lại thu nhập nhiều nhất hiện nay là dầu khí- ngành mang lại thu nhập 
nhiều nhất cho Việt Nam. 
Về nguồn nhân lực ở Việt Nam, yếu tố con người ở Việt Nam đã được cả thế 
giới công nhận thông qua những cuộc chiến tranh trường kỳ chống hai cường quốc 
Mỹ và Pháp. Bản chất con người Việt Nam luôn chân chất, dũng cảm, bất khuất, 
hiên ngang, đặc biệt là sự sáng tạo. Về dân số, số lượng dân số trung bình năm 2018 
ước đạt 95,93 triệu người. Theo thông tin từ Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia, 
dân số sẽ đạt 98 triệu người vào 2020. Trong số này có khoảng 50% trong độ tuổi 
lao động làm cho giá nhân công của VN tương đối rẻ, đây là một thuân lợi trong 
phân công lao động quốc tế. Về bản chất như đã phân tích, người Việt Nam có đức 
tính cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học, công nghệ, 
có khả năng thích ứng được với những tình huống phức tạp. Trí tuệ của con người 
Việt Nam cũng được đánh giá rất cao so với con người ở các nước khác. Đối với 
Việt Nam mà nói, nguồn nhân lực chất lượng và dồi dào gần như là yếu tố quan 
trọng để phát triển kinh tế đối ngoại. 
3.2. Những thách thức trực tiếp đối với Việt Nam 
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam không chỉ 
có cơ hội, mà còn có không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú  17   
ý là nhiều thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu 
tố tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước.Việt Nam phải đối mặt với những 
thách thức đến từ sự ảnh hưởng của thế giới, khu vực và đến từ bản thân những vấn  đề trong nước. 
Thứ nhất, thách thức đến từ t
 hị trường thế giới, xu thế hội nhập ngày nay ngày 
càng phát triển, khiến các hàng hóa và các doanh nghiệp Việt Nam phải ngày càng 
cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài ở Việt Nam . 
Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình 
độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh 
nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có 
thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá 
trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ 
thấp, gia công, lắp ráp. Ngoài ra, những biến động trên thị trường khu vực, thế giới 
về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng 
lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm 
trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh 
tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước sẽ rất nghiêm 
trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp ứng phó và nếu nội lực của nền  kinh tế yếu. 
Thứ hai, thách thức đến từ những hạn chế của cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ tư, lần chuyển giao công nghệ số, theo đó, nếu các quốc gia nắm bắt tốt về công 
nghệ thì tốc độ phát triển sẽ ngày càng được đẩy nhanh, còn các nước không kịp tiếp 
cận thì sẽ bị bỏ lại rất xa ở phía sau. Việt Nam đứng trên những chênh vênh của 
nhóm nươc đang phát triển, nên theo kịp tốc độ phát triển của cuộc cách mạng công 
nghệ là thách thức rất lớn. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng để phát triển công nghệ 
cũng như các chính sác đào tạo- bồi dưỡng nhân lực phát triển khoa học công nghệ