lOMoARcPSD| 58707906
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
1. Giải thích chứng minh giáo dục một hiện tượng hội đặc biệt.
Phân tích tính lịch sử- xã hội và tính giai cấp của giáo dục. Giải thích:
Khái niệm giáo dục: giáo dục là hoạt động có ý thức có mục đích của con người,
hệ thống các tác động làm cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hóa của
loài người và tổ chức cho người học sáng tạo thêm các giá trị văn hóa đó.
dụ: Hoạt động dạy học: Giáo viên truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng của mình cho học sinh để học sinh thể nắm các kiến thức về một sgiá trị
văn hóa nào đó.
Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải tiến hành hoạt động lao
động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người tiến hành nhận thức
thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được một kho tàng kinh nghiệm phong phú
bao gồm các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng những giá trị văn hóa hội như các
chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt động giao lưu của con người trong
xã hội… Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội lòai người, con người có nhu
cầu trao đổi và truyền thụ lại những kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau. Sự truyền
thụ và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm đó chính là hiện tựơng giáo dục.
dnhư người cổ xưa đi săn thú kèm theo những đứa trẻ nhỏ - con trai, việc truyền
thụ kinh nghiệm của người lớn cho trẻ với mục đích giúp trẻ được các tri thức,
kỹ năng, thao tác cần thiết để săn bắt thú, tránh được nguy hiểm.
Giáo dục một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong hội loài người giáo dục
mới nảy sinh, phát triển tồn tại vĩnh hằng. Lúc đầu giáo dục xuất hiện như một
hiện tượng tự phát (tự phát sinh, không có lãnh đạo, tổ chức, thiếu cân nhắc) diễn ra
theo lối quan sát, bắt chước ngay trong qúa trình lao động (săn bắt, hái lượm, chăn
nuôi, trồng trọt…). Về sau giáo dục trở thành một hoạt động tự giác (bản thân nhận
thức thế nào, phải làm ra sao) tổ chức, mục đích, nội dung phương
pháp… của con người. hội loài người ngày càng biến đổi, phát triển, giáo dục
cũng phát triển trở thành một hoạt động được tổ chức chuyên biệt: chương
trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học.
Chẳng hạn như các loài động vật, tuy truyền lại kinh nghiệm cho con cái,
nhưng đó chỉ là sự truyền lại theo bản năng chứ không phải là giáo dục
lOMoARcPSD| 58707906
GD là 1 hình thái ý thức xã hội, hoạt động GD là hoạt động có mục đích, lựa chọn,
kế thừa, sáng tạo. Về bản chất, GDsự truyền đạt lĩnh hội kinh nghiệm, về mục
đích đó sự định hướng của thế hệ trước cho thế hệ sau, về phương thức đảm
bảo tính kế thừa và phát triển.
GD 1 hiện tượng mang tính lịch sử và tính vĩnh hằng; hiện tượng mang tính
giai cấp dân tộc. GD tạo ra sự phát triển cá nhân và XH, là quá trình truyền thụ,
chiếm lĩnh làm phong phú những kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình
phát triển lịch sử XH. Do đó, GD là quá trình XH hóa liên tục trog cuộc đời mỗi con
ng, là điều kiện quyết định sự tồn tại phát triển loài người.
Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với hội hình thành phát triển nhân
cách.
Như vậy, việc truyền thụ, lĩnh hội hệ thống kinh nghiệm chủ động, sáng tạo nét
đặc trưng của GD với tư cách là 1 hiện tượng XH đặc biệt, 1 nhu cầu đặc biệt của
XH loài người
Phân tích tính lịch sử - xã hội và tính giai cấp của giáo dục:
Sự ra đời phát triển của giáo dục gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội.
Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - hội khác nhau, do đó các nền giáo
dục tương ứng cũng khác nhau. Mặt khác, mục đích, nội dung, phương pháp giáo
dục, chính sách giáo dục,..tại một giai đoạn phát triển của xã hội luôn chịu sự quy
định bởi các điều kiện xã hội ở giai đoạn xã hội ấy. Tính chất của giáo dục thay đổi
theo sthay đổi về tính chất của phương thức sản xuất ( giáo dục chịu sự chi phối,
quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tính chất của quan hệ xã
hội. bao nhiêu chế đhội thì sẽ bấy nhiêu nền giáo dục tương ứng (mục
đích, tính chất, nội dung, phương pháp giáo dục,..thay đổi qua các chế độ hội
khác nhau. dụ như giáo dục hội phong kiến thì bất bình đẳng, trọng nam
khinh nữ, phân biệt giai cấp. Còn giáo dục ở hội chủ nghĩa thì bình đẳng cho tất
cả mọi người mang tính toàn Đảng, toàn dân tộc. Và trong cùng một chế độ xã hội
nhưng các giai đoạn khác nhau nền giáo dục cũng thay đổi. Chẳng hạn như nền
giáo dục của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: từ thời kháng chiến chống pháp thì
giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc, thời kì 1954-1975 thì giáo dục phục vụ sự
nghiệp xây dựng CNXH miền Bắc thống nhất đất nước, còn từ 1975 đến nay
lại xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước và đổi mới giáo dục việt
nam.
lOMoARcPSD| 58707906
mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển của mình đều một nền giáo dục
phù hợp. Ví dụ như giáo dục Việt Nam thì giáo dục mầm non được đào tạo từ 16
năm còn ở giáo dục Trung Quốc sẽ là 3 năm. Cần cải cách, đổi mới về mục tiêu, nội
dung, hình thức cho phù hợp với yêu cầu của hội. vậy giáo dục luôn một
phạm trù lịch sử, mang tính lịch sử rõ nét.
Trong xã hội giai cấp, giáo dục một phương thức đấu tranh giai cấp, nhà trường
là công cụ chuyên chính giai cấp. Ngoài ra, tính giai cấp của giáo dục thể hiện trong
toàn bộ hệ thống giáo dục và trong toàn bộ hoạt động của nhà trường, từ mục đích,
nội dung giáo dục đến phương pháp hình thức tổ chức giáo dục. Ứng với giai cấp
chủ giáo dục chiếm hữu lệ, ứng với giai cấp phong kiến nền giáo dục
phong kiến, ứng với giai cấp sản nền giáo dục bản chủ nghĩa, ứng với giai
cấp sản nền giáo dục hội chủ nghĩa. Trong hội giai cấp đối kháng,
không thể có một nền giáo dục trung lập, đứng ngoài hoặc đứng trên cuộc đấu tranh
giai cấp trong hội, không thể một nền giáo dục thoát ly mọi hệ tưởng của
giai cấp. Xã hội Việt Nam hiện nay có phân chia giai cấp nhưng không còn dựa vào
sở hữu tư sản mà phân hóa theo các chức năng lao động trong xã hội: Giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tri thức, giai cấp lãnh đạo, giai cấp thiểu thương.
Hiện nay, trong thời công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tính giai cấp của giáo
dục được phản ánh đậm nét nhằm thực hiện dân chủ hóa, hội hóa giáo dục hướng
tới việc phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách của mọi thành viên trong xã hội nói
chung, thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng.
2. Các con đường giáo dục. Phân tích con đường chủ đạo ngắn nhất
giúphọc sinh tránh khỏi những sai lầm, vấp váp.
Trả lời:
Giải thích:
Con đường giáo dục: Là khái niệm chỉ sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục,
vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo dục
trong đó người học được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh hội kết
quả các hệ thống giá trị văn hóa-khoa học-thẩm mỹ… đồng thời góp phần sáng tạo
ra các giá trị mới.
Có 4 con đường giáo dục:
lOMoARcPSD| 58707906
Con đường thứ nhất là con đường dạy học. Là con đường thuận lợi nhất giúp học
sinh chiếm lĩnh hệ thống tri thức về khoa học về tnhiên, hội,… đồng thời rèn
luyện được hệ thống kỹ năng kỹ xảo. Đây con đường bản hình thành phát
triển ở học sinh năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực về tư duy sáng tạo.
Ngoài ra, con đường dạy học còn góp phần giáo dục học sinh thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Con đường thứ hai là giáo dục thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp,
con đường gắn thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức
hành động. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hướng tới mục tiêu củng cố khắc
sâu những kiến thức của môn học, mở rộng nâng cao hiểu biết cho học sinh về
các lĩnh vực đời sống văn hóa. Đồng thời rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản
phù hợp với từng lứa tuổi, củng cố và phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học
tập, lao động công tác hội. Bồi dưỡng cho học sinh thái độ tự giác, tinh thần
tích cực tham gia các hoạt động tập thể và xã hội.
Gồm 4 hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cơ bản:
- Hoạt động lao động:
Những hoạt động lao động bản của học sinh nlao động tự phục vụ, lao động
sản xuất, lao động công ích,…Đây là phương tiện để phát triển các mặt như: trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ, thể chất,…Ngoài ra, giúp học sinh biết làm một số công việc lao
động. Chuẩn bị cho học sinh về tâm lý cũng như các phẩm chất năng lực cần thiết
khác để tham gia lao động trong tương lai. Hoạt động này có một số yêu cầu cơ bản
đó phải mang ý nghĩ giáo dục. Đồng thời đảm bảo được tính tập thể, tính vừa sức,
tính sáng tạo, tính thường xuyên, liên tục, tang dần tính phức tạp của hoạt động lao
động theo lứa tuổi. Cần tchức cho học sinh tính tự giác, tích cực tham gia vào nhiều
hình thức lao động khác nhau, kích thích tính sáng tạo của học sinh trong lao động.
- Hoạt động chính trị - xã hội:
Đây là hình thức hoạt động của cá nhân với các mối quan hệ giao tiếp đa dạng trong
cộng đồng, trong môi trường hội nhất định. Là những hoạt động liên quan đến
những dịp kỉ niệm, ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị, xã hội, các hoạt động tìm hiểu
truyền thống tốt đẹp của nhà trường, địa phương, dân tộc, các hoạt động nhân đạo,
đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện,…Hoạt động này hướng đến nhằm tạo cơ hội
và điều kiện cho người học thâm nhập, gắn với cuộc sống, ý thức mình là một
lOMoARcPSD| 58707906
thành viên của xã hội. Đồng thời, tạo điều kiện và cơ hội cho cá nhân đóng góp vào
sự phát triển xã hội, phát triển tích cực của cá nhân.
- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao:
Hoạt động này bao gồm các hoạt động như: hát, múa, kể chuyện, ngâm thơ, tấu hài,
vẽ, kịch, tạo hình, biểu diễn thời trang,…Hoạt động này được tổ chức nhằm giúp
tinh thần người học sảng khoái, bớt căng thẳng. Giáo dục giúp người học biết cách
cảm thụ nghệ thuật, cảm thụ cái hay, cái đẹp, tạo ra những cảm xúc thẩm mỹ, những
tình cảm đẹp đẽ, phát triển tâm hồn tự nhiên trong sáng. Ngoài ra còn giáo dục cho
người học những phẩm chất đạo đức như tình yêu quê hương, đất nước, yêu con
người.
- Hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch:
Hoạt động này nhằm phát triển phẩm chất đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ, cảm thụ
cái đẹp cho người học. Đồng thời giúp hình thành phát triển cho người học các
kỹ năng hoạt động như: tổ chức, điều khiển, thích ứng, giao tiếp, hợp tác, kiểm tra,
đánh giá,… bên cạnh đó còn phát triển những phẩm chất vận động, qua các hoạt
động ngoại, du lịch. Hoạt động cần đáp ứng một số yêu cầu bản. Hoạt động
vui chơi phải phong phú, đa dạng giúp kích thích sự hứng thú, tính tự giác tham gia
cho học sinh trong hoạt động vui chơi dưới squản của giáo viên. Tố chức hoạt
động vui chơi phải kế hoạch, những điều kiện cần thiết. Cần thu hút các lực lượng
xã hội và tận dụng điều kiện có sẵn một cách hợp lí.
Tóm lại, các hoạt động GDNGLL mối quan hệ biện chứng đan kết, xâm
nhập và hỗ trợ lẫn nhau, cần tổ chức đồng bộ hài hòa các hoạt động giáo dục. Các
hoạt động y cần phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lứa tuổi, hứng thú, sở thích
học sinh. Đồng thời đảm bảo phát huy được tính tích cực. độc lập, sáng tạo của người
học. Bên cạnh đó cũng cần đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật
có sự thay đổi liên tục.
Con đường chủ đạo và ngắn nhất giúp học sinh tránh khỏi những sai lầm,
vấp váp đó chính là con đường dạy học.
Bởi thông qua các dạng hoạt động dạy học với các phương pháp phong phú, đa
dạng, chất lượng học tập (đào tạo) ngày càng được nâng cao, học sinh không những
tiếp thu các hthống giá trị loài người đã còn góp phần sáng tạo ra những
giá trị mới”. nghĩa thông qua con đường dạy học – con đường quan trọng nhất,
lOMoARcPSD| 58707906
học sinh sphát triển một cách hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt
năng lực hoạt động sáng tạo, nhân cách được hoàn thiện.
Thông qua việc giảng dạy sẽ giúp học sinh hình thành thế giới quan nhân sinh
quan, đây chính là sản phẩm của nhận thức khoa học hoạt động hội, hiểu được
nguồn cội đất nước và sự phát triển của lịch sử Việt Nam, từ đó tạo nên lòng tự hào
dân tộc, tình yêu qhương đất nước, tạo lập thói quen tư duy, hành động theo chân
lý, lẽ phải. Đồng thời, cho học sinh nhận thức được những khái niệm cơ bản về văn
hoá thẩm mỹ, nhận ra giá trị đích thực của nền văn minh nhân loại, giá trị cuộc sống
chân chính. Ngoài ra còn giáo dục học sinh cả về kiến thức, thái độ kỹ năng lao
động sáng tạo, ý thức vận dụng khoa học vào đời sống.
Như vậy, dạy học con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất hiệu quả, giúp
thế hệ trẻ tránh được những mò mẫm, vấp p trong cuộc đời. Do đó, dạy học là con
đường quan trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục.
Kết luận sư phạm:
- Muốn cho việc dạy học đạt chất lượng hiệu qucao đòi hỏi phải tạo ra
“môi trường kiến thức” thích hợp, trong đó hứng thú, nhu cầu học tập được
khơi dậy, được định hướng đúng đắn đối với học sinh.
- Mọi dạng hoạt động phải có trọng tâm, ưu tiên cho chất lượng.
- Bảo đảm cho việc chuyển từ học đơn thuần tri thức sang mặt phát triển cả về
trí tuệ, thể chất, tình cảm, hội đạo đức đồng thời việc giảng dạy, học tập
không thể tiến hành tách biệt với các hoạt động khác.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển nhân cách? Phân
tích yếu tố ý nghĩa quyết định đến sự hình thành phát triển nhân cách.
Trả lời:
Khái niệm nhân cách:
Nhân cách tổ hợp các thái độ, các thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của
từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do con người tạo ra. toàn bộ
những đặc điểm, phẩm chất tân quy định giá trị hội hành vi của người đó.
Bao gồm các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người và
nó còn là sự thống nhất giữa phẩm chất năng lực nhân bao gồm các phẩm chất
chính trị, tưởng, đạo đức, tác phong các năng lực, sở trường, năng khiếu.
lOMoARcPSD| 58707906
người nhân cách phải là người thống nhất được 2 mặt phẩm chất năng lực, tức
là thống nhất giữa mặt đức và mặt tài.
Khái niệm sự phát triển nhân cách:
Con người khi mới sinh ra chưa nhân cách, nhân cách phản ánh bản chất hội
của mỗi cá nhân và chỉ được hình thành, phát triển trong hoạt động giao lưu. Chính
trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi, giải trí,…con người đã
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Sự phát triển nhân cách được biểu
hiện qua những dấu hiệu cơ bản: Sự phát triển về thể chất (tăng trưởng về chiều cao,
trọng lượng, sự phát triển bắp hoàn thiện các giác quan,..); Sự phát triển về
mặt tâm (những biến đổi bản trong các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí,
nhu cầu,…đặc biệt các thuộc tính tâm mới của nhân cách); Sự phát triển về mặt
xã hội ( tính tích cực, năng động, sáng tạo trong quá trình tham gia vào các lĩnh vực
hoạt động, giao tiếp khác nhau ). Như vậy, sự phát triển nhân cách là quá trình tăng
trưởng, tích lũy, hoàn thiện về thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.
Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng và bị chi
phối bởi các yếu tố: Di truyền, môi trường, giáo dục và yếu tố giao tiếp và
hoạt động của cá nhân.
Yếu tố di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Những chất
sẵn trong cấu tạo của não, trong các quan cảm giác, vận động hay ngôn ngữ,…
chỉ điều kiện. Một thể lành mạnh sẽ tạo tiền đthuận lợi cho sự phát triển nhân
cách. những chất di truyền chỉ định hướng cho con người vào các lĩnh vực
hoạt động chứ không quy định trước năng lực cụ thể của nhân. Các đặc tính
thể ảnh hưởng đến tốc độ, mức độ và tính chất của việc hình thành các kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực của cá nhân.
Môi trường tự nhiên ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành phát triển nhân
cách. Bởi cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ không hình thành và phát
triển nhân cách người. Môi trường hội tác động đến sự hình thành phát triển
nhân cách bao gồm có môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội nhỏ. Môi trường
hội lớn không tác động trực tiếp đến nhân mà ngược lại môi trường hội nhỏ
lại ảnh hưởng trực tiếp tác động thường xuyên, mạnh mẽ đến sự hình thành
phát triển nhân cách. Đối với trẻ em, môi trường hội nhỏ ảnh hưởng quan
trọng, còn đối với người trưởng thành hoạt động nghề nghiệp tác động đến cá nhân
lOMoARcPSD| 58707906
mạnh hơn tác động của môi trường nhỏ. Và tác động của môi trường hội không
hoàn toàn trực tiếp chi phối đến cá nhân mà phải thông qua “bộ lọc cá nhân”.
Khác với yếu tố di truyền và yếu tố môi trường, yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo
trong sự hình thành phát triển nhân cách. Cách giáo dục của phụ huynh, nhà
trường ảnh hưởng lớn đến hành vi ứng xử của con trẻ bạo lực gia đình ảnh
hưởng rất nhiều đến tâm nhận thức của trẻ. thế, giáo dục chính con đường
ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển bỏ qua những mò mẫm, vấp váp không cần thiết
trong cuộc đời. Giáo dục có nhiều loại tuy nhiên giáo dục nhà trường có vai trò quan
trọng nhất trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục
được thể hiện chỗ: giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành
phát triển nhân cách còn dẫn dắt quá trình đó đi theo chiều hướng, mục đích xác
định; giáo dục thể mang lại những tiến bộ các nhân tố khác như bẩm sinh – di
truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể được; giáo dục tầm quan
trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật vì nó có thể bù đắp, khắc phục những
thiếu hụt của thể, tinh thần hoặc rủi ro, bệnh tật giúp họ hòa nhập vào cuộc
sống.
yếu tố cuối cùng chính yếu tố giao tiếp hoạt động nhân. Hoạt động của
nhân ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó chính là nhân tố quyết định đến sự hình
thành và phát triển nhân cách. Nó giúp cá nhân trải nghiệm và thu thập vốn sống để
trưởng thành, phát triển; hoạt động giúp con người thích nghi được với hoàn cảnh
tự khẳng định nhân cách. Thông qua hoạt động, con người dần dần hoàn chỉnh
bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động
hội. Quá trình giao tiếp giúp cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân
cách phát triển. Và nhờ sự giao tiếp y trẻ mới có thể tồn tại và phát triển tâm n
định.
Yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách chính
là yếu tố giao tiếp và hoạt động cá nhân.
Giao tiếp quá trình truyền đạt thông tin, ý kiến ý nghĩa giữa các nhân, nhóm
hoặc tổ chức khác nhau. Nó là cách chúng ta trao đổi và tương tác với nhau để chia
sẻ thông tin, hiểu và được hiểu, xây dựng mối quan hệ và đạt được mục tiêu chung.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân hội loài người, nhu cầu giao tiếp
một trong những nhu cầu bản xuất hiện sớm nhất con người do đó không thể
thiếu trong sự phát triển nhân cách. Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan
lOMoARcPSD| 58707906
hệ hội, lĩnh hội nền văn hóa hội chuẩn mực, làm thành bản chất con người.
Đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
nhân loại để từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân cách phát triển. nhất
đối với trẻ em thì ngoài yếu tố để tồn tại thì còn giúp trẻ phát triển tâm lý ổn
định. Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức c quan
hệ hội còn nhận thức được chính bản thân mình, với chuẩn mực hội, tự
đánh giá bản thân mình như là một nhân cách để hình thành một thái độ cảm xúc
nhất định đối với bản thân, hay nói ý khác đi qua giao tiếp con người hình thành
năng lực ý thức. dụ như cho trẻ tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể
thao, khỏe bé ngoan, ... trẻ sẽ ý thức được vai tcủa mình, trsẽ ng động n,
thích giao lưu, tiếp xúc với mọi người, không sợ khi đứng trước đám đông, hình
thành trong trẻ stự tin,... ngược lại những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em
không tập giao tiếp làm quen bạn thầy nên khi lên lớp 1 sẽ rất rụt nhút
nhát.
Còn hoạt động nhân là những hành động một người thực hiện một cách độc
lập, không liên quan trực tiếp đến các nhân khác hay tập thể. Đây là những hoạt
động tự phát, xuất phát từ nhu cầu, sở thích, mục đích riêng của mỗi người. Con
đường tác động mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không
hiệu quả nếu như bản thân nhân không tiếp nhận, không hưởng ứng, không trực
tiếp tham gia vào các hoạt động đó nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách.
Hoạt động của nhân nhằm đthỏa mãn nhu cầu tự nhiên hay đời sống hội
những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách. Chẳng hạn như khi chúng
ta dạy cho trẻ viết chữ, nếu trẻ không tự thường xuyên luyện viết thì trẻ skhông
biết viết hay nói cách khác thì yếu tố giáo dục trong trường hợp này không phát huy
tác dụng.
Thông qua hoạt động con người thể cải tạo những nét tâm và những nét nhân
cách đang bị suy thoái, hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của hội. Mỗi
con người là sản phẩm hoạt động của chính mình, đó là con đường để thành đạt, để
vươn tới lí tưởng.
Hoạt động giao tiếp phản ánh hai loại quan hệ của con người với thế giới, hoạt
động được hiểu quan hệ với đối tượng vật thể, giao tiếp quan hệ với con
người. Trong cuộc sống hoạt động giao tiếp quan hệ qua lại với nhau. Bằng
hoạt động và giao tiếp con người với cách chủ thể tiếp thu các kinh nghiệm
xã hội - lịch sử, biến nó thành tâm lí, nhân cách.
lOMoARcPSD| 58707906
Và muốn phát huy vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách , nhà giáo dục cần: đưa học sinh vào những hoạt động đa dạng, coi hoạt
động là phương tiện giáo dục bản; qtrình giáo dục phải quá trình tổ chức
hoạt động tích cực sáng tạo của học sinh, cần thay đổi tính chất của hoạt động, làm
phong phú nội dung, phương pháp hình thức hoạt động, từ đó lôi cuốn học sinh
vào hoạt động. thể lồng ghét một số trò chơi đố vui vào bài giảng để học sinh
không cảm thấy nhàm chán và hứng thú hơn với nội dung hoặc có thể đưa nội dung
bài học vào một số hoạt động vui chơi ngoài giờ lên lớp để các em thể tích cực
tham gia phát huy tính sáng tạo của bản thân. Ngoài ra nhà giáo dục cũng cần
nắm được các hoạt động chủ đạo từng thời kì nhất định để tổ chức các loại hoạt
động phù hợp với đặc điểm của từng lứa tuổi học sinh. Chẳng hạn như học sinh
lứa tuổi mẫu giáo thì hoạt động chủ đạo là vui chơi còn ở học sinh tiểu học thì hoạt
động chủ đạo hoạt động học tập. Vì vậy, với tư cách nhà giáo dục cần phải phát
huy vai trò chủ đạo của mình trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục.
4. Các xu thế phát triển giáo dục. Từ đó xác định những định hướng
nghiêncứu và phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Trả lời:
Các xu thế phát triển giáo dục:
- GDTX là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục
- GD suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một
xã hội học tập
- GD phải làm cho mỗi người trở thành người dạy người kiến tạo nên sự tiến
bộ văn hóa của bản thân
- GD dạy cho con người khả năng thực hành, thực nghiệm, chú ý giáo dục
hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp.
- GD trẻ em trước tuổi đến trường là một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo
dục
- Nhà giáo phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục thực thụ
- Việc giảng dạy phải thích nghi với người học
- Tăng cường giáo dục nhân văn
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
- Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực
- Hiện đại hóa các phương pháp dạy học – giáo dục
lOMoARcPSD| 58707906
Những định hướng nghiên cứu và phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện
nay
- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục
- Nghiên cứu hoàn thiện các sở luận thực tiễn của giáo dục, định
mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển KTXH
- Nghiên cứu các vấn đề đối với mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
giáo dục đáp ứng sự phát triển thực tiễn
- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ vào quá trình dạy
học – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
5. Phân tích mục đích giáo dục Việt Nam tổng quát. Từ đó, xác định
phươnghướng phấn đấu của bản thân để thực hiện được các mục đích đó.
Trả lời:
Giải thích:
Mục đích của giáo dục hình dự kiến của sản phẩm giáo dục. một
thành tố quan trọng định hướng cho quá trình giáo dục, qui định việc lựa chọn nội
dung, chương trình, phương pháp các hình thức tổ chức giáo dục, xác định các
điều kiện để thực hiện quá trình GD
Mục tiêu của giáo dục những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối
với từng khâu nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục. Mục tiêu của GD nói
về kết quả cần phải đạt được trong thực tế. Dù mục đích hay mục tiêu đều có giá trị
định hướng, tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất lượng giáo dục. Nếu xác định đúng
đắn mục đích, mục tiêu của giáo dục sẽ có tác dụng kích thích tính tích cực, tạo động
lực cho hoạt động giáo dục.
Phân tích mục đích giáo dục Việt Nam tổng quát:
- Mục đích giáo dục được xét qua hai bình diện: Xét trên bình diện xã hội và xét
trên bình diện nhân cách.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, mục tiêu giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao n trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Đó là
các mục tiêu xét trên bình diện xã hội.
Về mục tiêu nâng cao dân trí, dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ
văn hóa của người dân trong từng thời kì lịch snhất định. Theo số liệu của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Việt Nam, hằng m khoảng 3,6% học sinh trong đtuổi không
lOMoARcPSD| 58707906
được đến trường. Tỷ lệ học sinh các vùng điều kiện kinh tế - hội đặc biệt khó
khăn, nạn bỏ học cao hơn so với các vùng kinh tế trọng điểm các khu đô thị.
các vùng núi cao, số trẻ em gái không biết chữ ở nhóm 10 tuổi là 13,69%; nhóm 11
– 14 tuổi là 7,98%; nhóm 15 17 tuổi là 9,08%. Qua số liệu có thể thấy đây là một
vấn đề cấp thiết và mục đích của giáo dục và đào tạo là khắc phục điều đó. Cần xây
dựng hoàn chỉnh phát triển các bậc học mầm non cho hầu hết các em trong độ
tuổi này, củng cố kết quả phổ cập giáo dục, xóa chữ, từng bước thực hiện phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi. Chú trọng phát triển mạng lưới trường
lớp, nhất vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu đông dân cư, phấn đấu giảm thiểu chênh lệc về phát triển GD giữa
các vùng lãnh thổ. Đồng thời củng cố nâng cao thành quả phổ cập GDTH, phổ
cập THCS và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phổ cập GD THPT.
Về mục tiêu đào tạo nhân lực, nhân lực đây đó lực lượng lao động. Một
đất nước muốn phát triển phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có trình độ kỹ thuật
cao. Trong xã hội hiện đại, khi nền khoa học và công nghệ đạt tới trình độ cao, nhu
cầu hội đa dạng, người lao động phải những người trình độ học vấn cao,
kiến thức rộng, tay nghề vững, năng động sáng tạo, linh hoạt trong việc giải quyết
các tình huống của thực tiễn. Vì thế mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực nhằm đào tạo
nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, cán bộ quản giỏi công nhân
thuật lành nghề. Đồng thời đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, đào
tạo nhân lưc cho nông thôn để thực hiện việc chuyển giao cấu lao động. Ngoài
ra, cần phát triển đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
Thay đổi cấu lao động để đáp ứng với yêu cầu ng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên
cạnh đó cũng cần nâng cao chất lượng đảm bảo đủ số lượng giáo viên cho toàn
hệ thống giáo dục; tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa các điều kiện dạy học, tiếp tục phấn
đấu sớm có một số cơ sở ĐH, TCCN, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nền giáo dục của bất cứ quốc gia nào, thời đại nào không những hướng vào
việc nâng cao dân trí, mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Chủ tịch HCM đã coi việc nâng trọng bồi dưỡng nhân tài là một chiến lược, tài
sản quý báu của dân tộc. Theo Người: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết phải
nhân tài”, phải nhân tài trong các lĩnh vực khác nhau thì công việc kiến thiết
đất nước mới kết quả. thế bồi dưỡng nhân tài cũng một trong những mục
tiêu của giáo dục và đào tạo. Cần hình thành từng bước những trung tâm chất lượng
lOMoARcPSD| 58707906
cao các cấp học, bậc học, các trường lớp trọng điểm chất lượng cao. Mở rộng
hệ thống trường lớp năng khiếu, trường chuyên, lớp chọn phổ thông. Đồng thời,
đào tạo lực lượng công nhân lành nghề bậc cao, phát triển hệ đào tạo bồi dưỡng sau
bậc đại học. Bên cạnh đó cũng cần tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài
chính, để hiện thực hóa các chủ trương, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng nhân tài.
Bồi dưỡng nhân tài phải đi đôi với thu hút và sử dụng nhân tài hợp lí, tạo điều kiện
cho đội ngũ tri thức, các nhà khoa học điều kiện tiếp cận phát huy tiềm năng
của họ.
Ngoài ra giáo dục còn xét trên bình diện nhân cách cụ thể là hướng đến 3 mục
tiêu về tri thức, kỹ năng và thái độ.
Về tri thức, giáo dục hướng con người làm chủ tri thức khoa học công nghệ
hiện đại. Áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn nhằm tạo ra các giá trị mới cho xã
hội và phát triển tư duy sáng tạo ở chủ thể hoạt động. Ví dụ như trong lao động sản
xuất, trước đây người dân phải dùng sức người lao động rất vất vả, đem lại ít năng
suất nhờ áp dụng tri thức khoa học vào thực thực tiễn từ đó đã tạo ra những máy móc
công nghệ tiên tiến phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp phát triển.
Không chỉ về tri thức mà giáo dục còn giúp con người hoàn thiện về kĩ năng.
Rèn luyện khả năng vận dụng đúng, thành thạo, sáng tạo những tri thức khoa học
công nghệ đã lĩnh hội vào thực tiễn nghề nghiệp nhằm tạp ra các sản phẩm chất
lượng, sức cạnh tranh trên thị trường. Ví dnhư các kỹ phần mềm được đào
tạo về lập trình và phát triển phần mềm không chỉ học thuyết còn thực hành
qua các dự án thực tế. Họ áp dụng các kiến thức về lập trình, thiết kế hệ thống,
bảo mật để tạo ra các ứng dụng di động, trang web, và phần mềm doanh nghiệp. Sản
phẩm của họ không chỉ hoạt động tốt còn phải có tính cạnh tranh trên thị trường,
dụ như các ứng dụng nổi tiếng như Facebook, Google Maps, và các phần mềm kế
toán của các công ty lớn.
Ngoài ra, mục tiêu của giáo dục còn hướng tới mục tiêu hoàn thiện về thái độ.
Thiết tha với tưởng độc lập dân tộc và chnghĩa hội, kiên cường xây dựng, giữ
gìn kế thừa phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp. Đồng thời, rèn luyện bản thân
những phẩm chất tốt đẹp, giữ gìn đạo đức trong sáng, phát huy sự tích cực, sức
khỏe. dụ như ở các trường học, chương trình đào tạo luôn rèn luyện cho học sinh
đầy đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết: bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, đạo đức
trong sáng thông qua môn học đạo đức, giáo dục công dân,…Tchức các hoạt động
lOMoARcPSD| 58707906
hội ý nghĩa, rèn luyện thể chất, ng cường sức khỏe cho học sinh qua n học
thể dục, giáo dục thể chất.
Xác định phương hướng phấn đấu của bản thân để thực hiện được các mục
đích đó:
- Để thực hiện được những mục tiêu trên trước hết phải hoàn thiện được bant
thân mình. Trước hết, cần cố gắng, nổ lực học tập, trau dồi tri thức, trang bị
cho bản thân đầy đủ hành trang để bước vào nghề.
- Bên cạnh trau dồi tri thức, hoàn thiện cho bản thân các kỹ năng bản cần
thiết, tích cực tham gia nhiều hoạt động xã hội ý nghĩa; tạo dựng các mối
quan hệ tốt đẹp. Ngoài ra cũng cần tham gia vào các hoạt động thể dục thể
thao, nâng cao sức khỏe.
- Phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công dân trong việc thực hiện mục
tiêu đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Rèn luyện những kỹ năng kỹ xảo tương ng, phát triển năng lực phẩm chất
trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo
- Giữ gìn, chăm sóc bảo vệ phát triển sức khỏe, rèn luyện kỹ năng bản,
hình thành thói quen chăm sóc sức khỏe, luyện tập thể dục thể thao một cách
thường xuyên
- Hình thành phát triển năng lực nhận thức cảm thụ cái đẹp, năng lực nhận
xét cái đẹp. Có thái độ trân trọng gìn giữ cái đẹp, sáng tạo cái đẹp trong cuộc
sống.
6. Phân tích các nhiệm vụ giáo dục.
Trả lời:
Giáo dục đạo đức:
Làm cho học sinh được thế giới quan khoa học, hiểu được tính quy luật bản
của sự phát triển xã hội, ý thức phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công
dân trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; Làm cho học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được những cơ sở pháp luật của
Hiến pháp, các luật pháp hiện hành ( luật lao động, luật công dân, luật kinh tế, luật
giáo dục,..), ý thức, hành động lối sống theo pháp luật; Làm cho học sinh thấm
nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định về lối sống, phong
lOMoARcPSD| 58707906
cách, thái độ ứng xử trong cộng đồng, giáo dục cho học sinh biết tạo ra giá trị của
chính mình, đồng thời phải tạo ra giá trị cho xã hội; Giáo dục cho học sinh tích cực
tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, luôn có ý thức kiên quyết đáu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực, những lối sống lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp. Như vậy,
nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh quan trọng cần thiết. Nhiệm vụ này
cần được tiến hành một cách thường xuyên. như vậy mỗi học sinh lại thể ý
thức đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của người công dân, sống làm việc theo đúng
hiến pháp của pháp luật.
Giáo dục trí tuệ:
nhiệm vụ quan trọng nhằm phát triển năng lực phẩm chất ttuệ, đặc biệt
năng lực tư duy độc lập sáng tạo. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học,
góp phần phát triển nhân cách cho học sinh. Giáo dục trí tugiúp tchức, điều khiển
người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học, phổ thông, bản, hiện đại, phù
hợp với những yêu cầu của thực tiễn về tự nhiên, xã hội, con người. Rèn luyện cho
người học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực và phẩm chất trí
tuệ, đặc biệt là năng lực duy sáng tạo. Thêm vào đó còn bồi dưỡng cho người học
thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người công dân. Nhờ
sự phát triển trí tuệ, con người ngày càng phát triển nhu cầu nâng cao trình độ
học vấn, nhu cầu thường xuyên bổ sung, mở rộng hiểu biết, tự nghiên cứu để không
ngừng tiếp thu sáng tạo các giá trị văn hóa hội, trên sđó không ngừng
hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Giáo dục thể chất:
Truyền đạt lĩnh hội hệ thống tri thức phổ thông, bản, hiện đại vthể dục, thể
thao, giữ gìn, chăm sóc, bảo vệ phát triển sức khỏe rèn luyện kỹ năng bản.
Giúp hình thành những thói quen và hứng thú luyện tập một cách thường xuyên, có
hệ thống, rèn luyện cho các em thói quen và những hiểu biết cần thiết về vệ sinh cá
nhân và xã hội, vệ sinh trong học tập lao động. Và cần phát hiện và bồi dưỡng nhân
tài thể dục thể thao. Giáo dục thể chất nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết
về giáo dục quốc phòng: lòng trung thành với tổ quốc, niềm tin và tự hào dân tộc, ý
thức cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc, giáo dục tính tổ chức, tính kỷ luật,..
Giáo dục thẩm mỹ:
Cần hình thành phát triển học sinh năng lực nhận thức, cảm thụ cái đẹp trong
tự nhiên, trong nghệ thuật,…Giáo dục cho học sinh thị hiếu thẩm mỹ, năng lực nhận
lOMoARcPSD| 58707906
xét, đánh giá cái đẹp, phải biết phân biệt cái đẹp chân chính những phi thẩm
mỹ, vô văn hóa. Giáo dục các em có thái độ trâm trọng, bảo vệ, giữ gìn cái đẹp, phê
phán đúng mức những cái phi thẩm mỹ. Từ đó động viên, khuyến khích các em
mong muốn sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống. vậy việc phát hiện nhân tài, bồi
dưỡng năng khiếu thẩm mỹ kịp thời, tạo điều kiện để phát triển sớm tài năng cho các
em là việc làm cần thiết nhất.
Giáo dục lao động:
Cần truyền đạt lĩnh hội hệ thống tri thức bản về các loại hình lao động phổ
biến. Hình thành những cơ sở ban đầu của phẩm chất người lao động trong thời đại
mới, những thói quen kỹ năng lao động tập thể. Ngoài ra cần tạo mọi điều kiện
hợp để học sinh vận dụng tri thức, kỹ năng vào cuộc sống, tổ chức cho học sinh
trực tiếp tham gia lao động sản xuất góp phần làm ra của cải vật chất cho xã hội.
như vậy, mỗi học sinh mới nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục lao
động, kỹ năng lao động trong một lĩnh vực hoặc một ngành nghề nhất định nào
đó.
7. Phân tích nguyên lí của giáo dục Việt Nam. Nguyên lý giáo dục Việt Nam
có những đặc điểm nào? Làm rõ. Trả lời:
Nguyên giáo dục Việt Nam những luận điểm chung nhất của lý thuyết giáo dục,
tính quy luật, được khái quát trên các căn cứ khoa học thực tiễn giáo dục.
những luận điểm khái quát mang tầm tưởng tính quy luật của quá trình giáo
dục, định hướng, chỉ dẫn toàn bộ hệ thống giáo dục và quá trình sư phạm tổng thể.
Hoạt động giáo dục được thực hiện theo 4 nguyên lý: Học đi đôi với hành; Lí luận
gắn liền với thực tiễn; Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất; Giáo dục nhà trường
kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Học đi đôi với hành là một tư tưởng giáo dục vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa
tính khoa học vừa tính giá trị thực tiễn. Hoạt động chính yếu của học sinh trong
nhà trường học tập. Đây là một hoạt động thuộc dạng lao động trí tuệ, đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách. Học không chỉ việc tiếp thu kiến
thức trong sách vở, n quá trình nhận thức, chiếm lĩnh tinh hoa của loài người
để trở thành tài sản riêng. thế học còn là quá trình tiếp thu rèn luyện: “học” và
“tập”. Hành quá trình vận dụng kiến thức đã được “cá nhân hóa” để giải quyết
thực tiễn. Hành mục đích, động lực và là kết quả của sự học. Học và hành là hai
mặt hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau, không chỉ đóng khung trong trường, lớp mà n
lOMoARcPSD| 58707906
được tiếp tục trong thực tiễn tại các sở ngoài hội, gia đình. dụ như trong
môn Kỹ thuật, học sinh không chỉ học về lý thuyết của phép đo và tính toán mà còn
được tham gia vào các hoạt động thực tế như làm các mô hình, sửa chữa thiết bị,..
luận gắn liền với thực tiễn đó một yêu cầu quan trọng đối với quá trình giáo
dục và đào tạo trong nhà trường Việt Nam. Chúng ta đều biết, nhà trường là một bộ
phận của hội. Nội dung giáo dục ntrường phải phản ánh những đang diễn
biến trong thực tiễn hội. Học tập liên hệ với thực tiễn làm cho luận không
còn khô khan, khó tiếp thu trở nên sinh động ngược lại, các sự kiện, hiện
tượng thực tiễn được phân tích, được soi sáng bằng những luận khoa học vững
chắc. dụ như khi chúng ta học môn Vật lý, thay vì giảng giải về nguyên áp suất
khó hiểu giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu về ứng dụng của áp suất trong cuộc
sống hàng ngày, chẳng hạn như hoạt động bơm của xe đạp.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất tưởng giáo dục hiện đại của nhà trường
Việt Nam. Giáo dục lao động một nội dung của giáo dục toàn diện, học sinh chính
là những lao động của tương lai, vì vậy nhà trường phải chuẩn bị cả về tâm lý, kiến
thức và kĩ năng cho học sinh sẵn sàng vững bước. Các môn hoc như thủ công, giáo
dục hướng nghiệp,..được đưa vào dạy học. một nguyên tắc cần chú ý chính
giáo dục trong lao động và bằng lao động. Lao động sản xuất vừa là môi trường và
là phương tiện giáo dục con người. Mọi phẩm chất nhân cách được hình thành trong
lao động và hoạt động xã hội. Gia đình nhà trường cần tổ chức cho học sinh lao
động tự phục vtham gia lao động công ích hội để giáo dục ý thức và kỹ ng
lao động cho học sinh. dụ như trong các trường học nghề, học sinh được giao
nhiệm vụ thực hành tại các doanh nghiệp địa phương hoặc xưởng sản xuất. Việc y
giúp học rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp thực tế và hiểu hơn về môi trường làm
việc.
Cuối cùng là giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Bản chất con người tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Giáo dục quá trình
nhiều lực lượng tham gia, trong đó ba lực lượng quan trọng nhất: gia đình, nhà
trường các đoàn thể hội. Ba lực lượng này đều chung mục đích hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ. Gia đình là nơi sinh ra, i nuôi dưỡng giáo dục trẻ em.
Giáo dục gia đình dựa trên tình cảm huyết thống, gắn với nhau như vậy giáo
dục gia đình trở nên bền vững nhất. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định giáo
dục gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ trẻ. Giáo dục xã hội là giáo dục trong
môi trường nơi trẻ em sống. Giáo dục xã hội bao hàm cả giáo dục của các đoàn thể.
lOMoARcPSD| 58707906
Tuy nhiên quá trình giáo dục phải lấy nhà trường làm trung tâm. Giáo dục nhà trường
mục đích, nội dung nội dung giáo dục toàn diện, dựa trên sở khoa học
thực tiễn. Mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình vàhội đem lại những thành công
cho giáo dục. Trong đó nhà trường chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp với
tất cả các lực lượng giáo dục. Chẳng hạn như, trường tổ chức các buổi gặp gỡ giữa
giáo viên phụ huynh để trao đổi về tiến trình học tập của học sinh, cũng như tổ
chức các hoạt động ngoại khóa kết hợp với cộng đồng địa phương để học sinh
hội tham gia vào các hoạt động xã hội và phát triển kỹ năng xã hội.
Nguyên lý giáo dục Việt Nam có đặc điểm :
1 tưởng giáo dục được khái quát từ bản chất của giáo dục. Bản chất của hiện
tượng giáo dục sự truyền thụ lĩnh hội kinh nghiệm lịch s- hội của các thế
hệ loài người. Nó còn là quá trình tổ chức hoạt động giao lưu của nhà giáo dục cho
người được giáo dục để người đó năng lực biến các hành vi nhân thành các
chuẩn mực hội, ngược lại, biến các chuẩn mực hội thành các tiêu chuẩn để
đánh giá cá nhân để từ đó cá nhân hoạt động tích cực, nổ lực hơn.
Nó được rút ra từ mục đích giáo dục và trở thành phương thức để thực thi mục đích
giáo dục. Mục đích giáo dục là mô hình dự kiến của sản phẩm giáo dục, là thành tố
quan trọng định hướng quá trình giáo dục, quy định việc lựa chọn nội dung, chương
trình, phương pháp các hình thức tổ chức giáo dục, xác định các điều kiện để thực
hiện quá trình giáo dục.
Được rút ra từ những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến. Bởi nguồn gốc của giáo dục
chính là xuất phát tlao động sản xuất, những hoạt động đó đều nhằm truyền đạt
những kinh nghiệm lịch sử- xã hội cho nhau. Con người truyền lại cho nhau những
kỹ năng, kỹ xảo cũng những giá trị văn hóa hội và thay đổi chúng cho phù hợp
với thời đại.
8. Đặc điểm lao động phạm của nhà giáo. Trình bày các biện pháp rèn
luyện phẩm chất của người giáo viên?
Trả lời:
Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo:
Đặc điểm lao động phạm nhà giáo bao gồm: Mục đích, đối tượng, công cụ lao
động, sản phẩm, thời gian không gian hệ thống những kỹ năng đảm bảo cho
hoạt động giáo dục của người giáo viên đạt hiệu quả.
lOMoARcPSD| 58707906
Đầu tiên đó là mục đích của lao động sư phạm. Mục đích của nghề dạy học hình
thành cho thế hệ trẻ những phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng cho nhu cầu xã
hội trong những điều kiện lịch scụ thể. Giúp người học tiếp thu và chuyển hóa nền
văn hóa nhân loại thành phẩm chất và năng lực của bản thân.
Về đối tượng của lao động sư phạm, nghề dạy học đối tượng tác động con
người (chủ yếu là thế hệ trẻ) mang trong mình những nhân cách xác định tồn tại
phát triển như một thực thxã hội, ý thức chủ động tiếp thu sự giáo dục. Việc
hiểu biết đối tượng giáo dục của mình cụ thể, toàn diện bao nhiêu thì hiệu quả lao
động sư phạm càng có cơ sở vững chắc bấy nhiêu.
Tiếp đến là công cụ, phương tiện lao động của lao động sư phạm. Với đối tượng lao
động đặc biệt là con người, ta cần chuẩn bị những công cụ đặc biệt để việc lao động
phạm đạt hiệu quả. Cần trang bị hệ thống tri thức đầy đủ để truyền đạt cho học
sinh. Ngoài ra cũng cần hoàn thiện nhân cách cho người giáo viên, nắm được hệ
thống các dạng hoạt động được tổ chức theo những mục đích sư phạm và không thể
thiếu tập thể học sinh và tổ chức xã hội. Để việc lao động sư phạm có hiệu quả cao
hơn cần những phương tiện, thiết bị vật chất và kĩ thuật phục vụ cho dạy học
giáo dục.
Về sản phẩm của lao động sư phạm đó chính nhân cách trong những con người
chuẩn bị dì vào cuộc sống theo những chuẩn mực đã định ( mục đích giáo dục ). Đó
chính là những con người có sự biến đổi về chất so với thời điểm xuất xứ của họ xét
về mặt nhân cách.
Tiếp theo thời gian và không gian của lao động sư phạm. Về thời gian lao động
phạm được chia làm hai bộ phận: bộ phận theo quy chế của nhà nước ( số giờ lên
lớp, số giờ làm công tác chủ nhiệm,.v.v..) và bộ phận thời gian ngoài giờ hành chính
( thăm hỏi gia đình học sinh, liên hệ với các tổ chức hội, tổ chức tiến hành hoạt
động ngoại khóa cho học sinh,v.v…). Về không gian, lao động phạm chủ yếu
thực hiện trong phạm vi khuôn viên trường học ( lớp học, sân trường thư viện v.v…)
và có sự xen kẽ việc triển khai các công việc trong môi trường XH (làm việc với các
tổ chức).
Cuối cùng hệ thống các knăng đảm bảo cho hoạt động GD của người GV đạt
hiệu quả. Rèn luyện nhóm knăng thiết kế giúp người giáo viên nhìn thấy trước
công việc mình sẽ đạt tới vnội dung, hình thức, phương pháp tiến hành,…
Người giáo viên dễ dàng điều phối lực lượng giáo dục nhằm thực hiện nội dung đã
lOMoARcPSD| 58707906
“thiết kế” nhờ nhóm kỹ năng tổ chức. Để hòa nhập vào đối tượng giáo dục nhanh
chóng cần phái có nhóm kỹ năng giao tiếp thành thạo. Ngoài ra, cần trang bị nhóm
kỹ năng nhận thức để người GV thể tđánh giá được tiến trình kết quả hoạt
dồng giáo dục của bản thân đồng nghiệp. Bên cạnh đó còn hệ thộng những kỹ
năng chuyên biệt như kỹ năng giảng dạy, kỹ năng giáo dục, kỹ năng hoạt động
hội và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Các biện pháp rèn luyện phẩm chất của người giáo viên:
- Nổ lực học tập tập trung học hành, đọc sách nhiều hơn, nâng cao vốn hiểu
biết, trang bị hệ thống tri thức toàn diện để truyền đạt cho học sinh.
- Ngoài trang bị tri thức cần rèn luyện kỹ năng giảng dạy, đứng lớp một cách t
tin, áp dụng các công cụ tiên tiến hiện đại để việc giảng dạy hiệu quả hơn.
- Nắm được hthống các kỹ năng cần thiết như kỹ năng nhận thức, giao tiếp,
tuyền tải thông tin, tổ chức, kiểm tra,…
- Giữ vững đạo đức nghề nghiệp, tôn trọng nghề nghiệp, luôn giữ vững sự tâm
huyết, đam với sự nghiệp giáo dục, luôn công bằng, minh bạch và trách
nhiệm với công việc.
- Nghiên cứu, am hiểu nắm được các đặc điểm tâm sinh của đối tượng dạy
học, khả năng nhạy cảm trước các hình vi của học sinh.
- Tăng cường sức khỏe và tâm lí, tập thể dục ăn uống lành mạnh, luôn duy
trì tâm lí lạc quan vui vẻ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
1. Giải thích và chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Phân tích tính lịch sử- xã hội và tính giai cấp của giáo dục. Giải thích:
Khái niệm giáo dục: giáo dục là hoạt động có ý thức có mục đích của con người, là
hệ thống các tác động làm cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hóa của
loài người và tổ chức cho người học sáng tạo thêm các giá trị văn hóa đó.
Ví dụ: Hoạt động dạy học: Giáo viên truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng của mình cho học sinh để học sinh có thể nắm các kiến thức về một số giá trị văn hóa nào đó.
Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải tiến hành hoạt động lao
động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người tiến hành nhận thức
thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được một kho tàng kinh nghiệm phong phú
bao gồm các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng những giá trị văn hóa xã hội như các
chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt động giao lưu của con người trong
xã hội… Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội lòai người, con người có nhu
cầu trao đổi và truyền thụ lại những kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau. Sự truyền
thụ và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm đó chính là hiện tựơng giáo dục.
Ví dụ như người cổ xưa đi săn thú kèm theo những đứa trẻ nhỏ - con trai, việc truyền
thụ kinh nghiệm của người lớn cho trẻ với mục đích giúp trẻ có được các tri thức,
kỹ năng, thao tác cần thiết để săn bắt thú, tránh được nguy hiểm.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì chỉ có trong xã hội loài người giáo dục
mới nảy sinh, phát triển và tồn tại vĩnh hằng. Lúc đầu giáo dục xuất hiện như một
hiện tượng tự phát (tự phát sinh, không có lãnh đạo, tổ chức, thiếu cân nhắc) diễn ra
theo lối quan sát, bắt chước ngay trong qúa trình lao động (săn bắt, hái lượm, chăn
nuôi, trồng trọt…). Về sau giáo dục trở thành một hoạt động tự giác (bản thân nhận
thức rõ là thế nào, phải làm ra sao) có tổ chức, có mục đích, nội dung và phương
pháp… của con người. Xã hội loài người ngày càng biến đổi, phát triển, giáo dục
cũng phát triển và trở thành một hoạt động được tổ chức chuyên biệt: có chương
trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học.
Chẳng hạn như các loài động vật, tuy có truyền lại kinh nghiệm cho con cái,
nhưng đó chỉ là sự truyền lại theo bản năng chứ không phải là giáo dục lOMoAR cPSD| 58707906
GD là 1 hình thái ý thức xã hội, hoạt động GD là hoạt động có mục đích, lựa chọn,
kế thừa, sáng tạo. Về bản chất, GD là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm, về mục
đích đó là sự định hướng của thế hệ trước cho thế hệ sau, về phương thức nó đảm
bảo tính kế thừa và phát triển.
GD là 1 hiện tượng mang tính lịch sử và tính vĩnh hằng; là hiện tượng mang tính
giai cấp và dân tộc. GD tạo ra sự phát triển cá nhân và XH, là quá trình truyền thụ,
chiếm lĩnh và làm phong phú những kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình
phát triển lịch sử XH. Do đó, GD là quá trình XH hóa liên tục trog cuộc đời mỗi con
ng, là điều kiện quyết định sự tồn tại phát triển loài người.
Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát triển nhân cách.
Như vậy, việc truyền thụ, lĩnh hội hệ thống kinh nghiệm chủ động, sáng tạo là nét
đặc trưng của GD với tư cách là 1 hiện tượng XH đặc biệt, 1 nhu cầu đặc biệt của XH loài người
Phân tích tính lịch sử - xã hội và tính giai cấp của giáo dục:
Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn liền với sự ra đời và phát triển của xã hội.
Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, do đó các nền giáo
dục tương ứng cũng khác nhau. Mặt khác, mục đích, nội dung, phương pháp giáo
dục, chính sách giáo dục,..tại một giai đoạn phát triển của xã hội luôn chịu sự quy
định bởi các điều kiện xã hội ở giai đoạn xã hội ấy. Tính chất của giáo dục thay đổi
theo sự thay đổi về tính chất của phương thức sản xuất ( giáo dục chịu sự chi phối,
quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tính chất của quan hệ xã
hội. Có bao nhiêu chế độ xã hội thì sẽ có bấy nhiêu nền giáo dục tương ứng (mục
đích, tính chất, nội dung, phương pháp giáo dục,..thay đổi qua các chế độ xã hội
khác nhau. Ví dụ như giáo dục ở xã hội phong kiến thì bất bình đẳng, trọng nam
khinh nữ, phân biệt giai cấp. Còn giáo dục ở xã hội chủ nghĩa thì bình đẳng cho tất
cả mọi người mang tính toàn Đảng, toàn dân tộc. Và trong cùng một chế độ xã hội
nhưng ở các giai đoạn khác nhau nền giáo dục cũng thay đổi. Chẳng hạn như nền
giáo dục của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: từ thời kháng chiến chống pháp thì
giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc, thời kì 1954-1975 thì giáo dục phục vụ sự
nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và thống nhất đất nước, còn từ 1975 đến nay
lại xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước và đổi mới giáo dục việt nam. lOMoAR cPSD| 58707906
Và mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển của mình đều có một nền giáo dục
phù hợp. Ví dụ như ở giáo dục Việt Nam thì giáo dục mầm non được đào tạo từ 16
năm còn ở giáo dục Trung Quốc sẽ là 3 năm. Cần cải cách, đổi mới về mục tiêu, nội
dung, hình thức cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy giáo dục luôn là một
phạm trù lịch sử, mang tính lịch sử rõ nét.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp, nhà trường
là công cụ chuyên chính giai cấp. Ngoài ra, tính giai cấp của giáo dục thể hiện trong
toàn bộ hệ thống giáo dục và trong toàn bộ hoạt động của nhà trường, từ mục đích,
nội dung giáo dục đến phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục. Ứng với giai cấp
chủ nô có giáo dục chiếm hữu nô lệ, ứng với giai cấp phong kiến có nền giáo dục
phong kiến, ứng với giai cấp tư sản có nền giáo dục tư bản chủ nghĩa, ứng với giai
cấp vô sản có nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội có giai cấp đối kháng,
không thể có một nền giáo dục trung lập, đứng ngoài hoặc đứng trên cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội, không thể có một nền giáo dục thoát ly mọi hệ tư tưởng của
giai cấp. Xã hội Việt Nam hiện nay có phân chia giai cấp nhưng không còn dựa vào
sở hữu tư sản mà phân hóa theo các chức năng lao động trong xã hội: Giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tri thức, giai cấp lãnh đạo, giai cấp thiểu thương.
Hiện nay, trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tính giai cấp của giáo
dục được phản ánh đậm nét nhằm thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục hướng
tới việc phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách của mọi thành viên trong xã hội nói
chung, thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng.
2. Các con đường giáo dục. Phân tích con đường chủ đạo và ngắn nhất
giúphọc sinh tránh khỏi những sai lầm, vấp váp. Trả lời: • Giải thích:
Con đường giáo dục: Là khái niệm chỉ sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục,
vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo dục
trong đó người học được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh hội có kết
quả các hệ thống giá trị văn hóa-khoa học-thẩm mỹ… đồng thời góp phần sáng tạo ra các giá trị mới.
• Có 4 con đường giáo dục: lOMoAR cPSD| 58707906
Con đường thứ nhất là con đường dạy học. Là con đường thuận lợi nhất giúp học
sinh chiếm lĩnh hệ thống tri thức về khoa học về tự nhiên, xã hội,… đồng thời rèn
luyện được hệ thống kỹ năng và kỹ xảo. Đây là con đường cơ bản hình thành và phát
triển ở học sinh năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực về tư duy sáng tạo.
Ngoài ra, con đường dạy học còn góp phần giáo dục học sinh thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Con đường thứ hai là giáo dục thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp,
là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hướng tới mục tiêu củng cố khắc
sâu những kiến thức của môn học, mở rộng và nâng cao hiểu biết cho học sinh về
các lĩnh vực đời sống văn hóa. Đồng thời rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản
phù hợp với từng lứa tuổi, củng cố và phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học
tập, lao động và công tác xã hội. Bồi dưỡng cho học sinh thái độ tự giác, tinh thần
tích cực tham gia các hoạt động tập thể và xã hội.
Gồm 4 hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cơ bản: - Hoạt động lao động:
Những hoạt động lao động cơ bản của học sinh như lao động tự phục vụ, lao động
sản xuất, lao động công ích,…Đây là phương tiện để phát triển các mặt như: trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ, thể chất,…Ngoài ra, giúp học sinh biết làm một số công việc lao
động. Chuẩn bị cho học sinh về tâm lý cũng như các phẩm chất và năng lực cần thiết
khác để tham gia lao động trong tương lai. Hoạt động này có một số yêu cầu cơ bản
đó là phải mang ý nghĩ giáo dục. Đồng thời đảm bảo được tính tập thể, tính vừa sức,
tính sáng tạo, tính thường xuyên, liên tục, tang dần tính phức tạp của hoạt động lao
động theo lứa tuổi. Cần tổ chức cho học sinh tính tự giác, tích cực tham gia vào nhiều
hình thức lao động khác nhau, kích thích tính sáng tạo của học sinh trong lao động.
- Hoạt động chính trị - xã hội:
Đây là hình thức hoạt động của cá nhân với các mối quan hệ giao tiếp đa dạng trong
cộng đồng, trong môi trường xã hội nhất định. Là những hoạt động có liên quan đến
những dịp kỉ niệm, ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị, xã hội, các hoạt động tìm hiểu
truyền thống tốt đẹp của nhà trường, địa phương, dân tộc, các hoạt động nhân đạo,
đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ thiện,…Hoạt động này hướng đến nhằm tạo cơ hội
và điều kiện cho người học thâm nhập, gắn bó với cuộc sống, có ý thức mình là một lOMoAR cPSD| 58707906
thành viên của xã hội. Đồng thời, tạo điều kiện và cơ hội cho cá nhân đóng góp vào
sự phát triển xã hội, phát triển tích cực của cá nhân.
- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao:
Hoạt động này bao gồm các hoạt động như: hát, múa, kể chuyện, ngâm thơ, tấu hài,
vẽ, kịch, tạo hình, biểu diễn thời trang,…Hoạt động này được tổ chức nhằm giúp
tinh thần người học sảng khoái, bớt căng thẳng. Giáo dục giúp người học biết cách
cảm thụ nghệ thuật, cảm thụ cái hay, cái đẹp, tạo ra những cảm xúc thẩm mỹ, những
tình cảm đẹp đẽ, phát triển tâm hồn tự nhiên trong sáng. Ngoài ra còn giáo dục cho
người học những phẩm chất đạo đức như tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người.
- Hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch:
Hoạt động này nhằm phát triển phẩm chất đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ, cảm thụ
cái đẹp cho người học. Đồng thời giúp hình thành và phát triển cho người học các
kỹ năng hoạt động như: tổ chức, điều khiển, thích ứng, giao tiếp, hợp tác, kiểm tra,
đánh giá,… bên cạnh đó còn phát triển những phẩm chất vận động, qua các hoạt
động dã ngoại, du lịch. Hoạt động cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản. Hoạt động
vui chơi phải phong phú, đa dạng giúp kích thích sự hứng thú, tính tự giác tham gia
cho học sinh trong hoạt động vui chơi dưới sự quản lý của giáo viên. Tố chức hoạt
động vui chơi phải có kế hoạch, những điều kiện cần thiết. Cần thu hút các lực lượng
xã hội và tận dụng điều kiện có sẵn một cách hợp lí.
Tóm lại, các hoạt động GDNGLL có mối quan hệ biện chứng đan kết, xâm
nhập và hỗ trợ lẫn nhau, cần tổ chức đồng bộ hài hòa các hoạt động giáo dục. Các
hoạt động này cần phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, hứng thú, sở thích
học sinh. Đồng thời đảm bảo phát huy được tính tích cực. độc lập, sáng tạo của người
học. Bên cạnh đó cũng cần đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật
có sự thay đổi liên tục.
• Con đường chủ đạo và ngắn nhất giúp học sinh tránh khỏi những sai lầm,
vấp váp đó chính là con đường dạy học.
Bởi vì thông qua các dạng hoạt động dạy học với các phương pháp phong phú, đa
dạng, chất lượng học tập (đào tạo) ngày càng được nâng cao, học sinh không những
tiếp thu các hệ thống giá trị loài người đã có mà còn “ góp phần sáng tạo ra những
giá trị mới”. Có nghĩa là thông qua con đường dạy học – con đường quan trọng nhất, lOMoAR cPSD| 58707906
học sinh sẽ phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là
năng lực hoạt động sáng tạo, nhân cách được hoàn thiện.
Thông qua việc giảng dạy sẽ giúp học sinh hình thành thế giới quan và nhân sinh
quan, đây chính là sản phẩm của nhận thức khoa học và hoạt động xã hội, hiểu được
nguồn cội đất nước và sự phát triển của lịch sử Việt Nam, từ đó tạo nên lòng tự hào
dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, tạo lập thói quen tư duy, hành động theo chân
lý, lẽ phải. Đồng thời, cho học sinh nhận thức được những khái niệm cơ bản về văn
hoá thẩm mỹ, nhận ra giá trị đích thực của nền văn minh nhân loại, giá trị cuộc sống
chân chính. Ngoài ra còn giáo dục học sinh cả về kiến thức, thái độ và kỹ năng lao
động sáng tạo, ý thức vận dụng khoa học vào đời sống.
Như vậy, dạy học là con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất và có hiệu quả, giúp
thế hệ trẻ tránh được những mò mẫm, vấp váp trong cuộc đời. Do đó, dạy học là con
đường quan trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục. • Kết luận sư phạm:
- Muốn cho việc dạy học đạt chất lượng và hiệu quả cao đòi hỏi phải tạo ra
“môi trường kiến thức” thích hợp, trong đó hứng thú, nhu cầu học tập được
khơi dậy, được định hướng đúng đắn đối với học sinh.
- Mọi dạng hoạt động phải có trọng tâm, ưu tiên cho chất lượng.
- Bảo đảm cho việc chuyển từ học đơn thuần tri thức sang mặt phát triển cả về
trí tuệ, thể chất, tình cảm, xã hội và đạo đức đồng thời việc giảng dạy, học tập
không thể tiến hành tách biệt với các hoạt động khác.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách? Phân
tích yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Trả lời: • Khái niệm nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp các thái độ, các thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của
từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do con người tạo ra. Là toàn bộ
những đặc điểm, phẩm chất tân lý quy định giá trị xã hội và hành vi của người đó.
Bao gồm các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người và
nó còn là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực cá nhân bao gồm các phẩm chất
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Và lOMoAR cPSD| 58707906
người có nhân cách phải là người thống nhất được 2 mặt phẩm chất và năng lực, tức
là thống nhất giữa mặt đức và mặt tài.
• Khái niệm sự phát triển nhân cách:
Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách, nhân cách phản ánh bản chất xã hội
của mỗi cá nhân và chỉ được hình thành, phát triển trong hoạt động giao lưu. Chính
trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi, giải trí,…con người đã
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Sự phát triển nhân cách được biểu
hiện qua những dấu hiệu cơ bản: Sự phát triển về thể chất (tăng trưởng về chiều cao,
trọng lượng, sự phát triển cơ bắp và hoàn thiện các giác quan,..); Sự phát triển về
mặt tâm lý (những biến đổi cơ bản trong các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí,
nhu cầu,…đặc biệt là các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách); Sự phát triển về mặt
xã hội ( tính tích cực, năng động, sáng tạo trong quá trình tham gia vào các lĩnh vực
hoạt động, giao tiếp khác nhau ). Như vậy, sự phát triển nhân cách là quá trình tăng
trưởng, tích lũy, hoàn thiện về thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.
• Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng và bị chi
phối bởi các yếu tố: Di truyền, môi trường, giáo dục và yếu tố giao tiếp và
hoạt động của cá nhân.
Yếu tố di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Những tư chất có
sẵn trong cấu tạo của não, trong các cơ quan cảm giác, vận động hay ngôn ngữ,…
chỉ là điều kiện. Một cơ thể lành mạnh sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển nhân
cách. Và những tư chất di truyền chỉ định hướng cho con người vào các lĩnh vực
hoạt động chứ không quy định trước năng lực cụ thể của cá nhân. Các đặc tính có
thể ảnh hưởng đến tốc độ, mức độ và tính chất của việc hình thành các kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực của cá nhân.
Môi trường tự nhiên ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách. Bởi cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ không hình thành và phát
triển nhân cách người. Môi trường xã hội tác động đến sự hình thành và phát triển
nhân cách bao gồm có môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội nhỏ. Môi trường
xã hội lớn không tác động trực tiếp đến cá nhân mà ngược lại môi trường xã hội nhỏ
lại ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường xuyên, mạnh mẽ đến sự hình thành và
phát triển nhân cách. Đối với trẻ em, môi trường xã hội nhỏ có ảnh hưởng quan
trọng, còn đối với người trưởng thành hoạt động nghề nghiệp tác động đến cá nhân lOMoAR cPSD| 58707906
mạnh hơn tác động của môi trường nhỏ. Và tác động của môi trường xã hội không
hoàn toàn trực tiếp chi phối đến cá nhân mà phải thông qua “bộ lọc cá nhân”.
Khác với yếu tố di truyền và yếu tố môi trường, yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo
trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Cách giáo dục của phụ huynh, nhà
trường có ảnh hưởng lớn đến hành vi ứng xử của con trẻ và bạo lực gia đình ảnh
hưởng rất nhiều đến tâm lí và nhận thức của trẻ. Vì thế, giáo dục chính là con đường
ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển bỏ qua những mò mẫm, vấp váp không cần thiết
trong cuộc đời. Giáo dục có nhiều loại tuy nhiên giáo dục nhà trường có vai trò quan
trọng nhất trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục
được thể hiện ở chỗ: giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách mà còn dẫn dắt quá trình đó đi theo chiều hướng, mục đích xác
định; giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh – di
truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được; và giáo dục có tầm quan
trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật vì nó có thể bù đắp, khắc phục những
thiếu hụt của cơ thể, tinh thần hoặc rủi ro, bệnh tật và giúp họ hòa nhập vào cuộc sống.
Và yếu tố cuối cùng chính là yếu tố giao tiếp và hoạt động cá nhân. Hoạt động của
cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó chính là nhân tố quyết định đến sự hình
thành và phát triển nhân cách. Nó giúp cá nhân trải nghiệm và thu thập vốn sống để
trưởng thành, phát triển; hoạt động giúp con người thích nghi được với hoàn cảnh
và tự khẳng định nhân cách. Thông qua hoạt động, con người dần dần hoàn chỉnh
bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động xã
hội. Quá trình giao tiếp giúp cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân
cách phát triển. Và nhờ sự giao tiếp này trẻ mới có thể tồn tại và phát triển tâm lý ổn định.
Yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách chính
là yếu tố giao tiếp và hoạt động cá nhân.
Giao tiếp là quá trình truyền đạt thông tin, ý kiến và ý nghĩa giữa các cá nhân, nhóm
hoặc tổ chức khác nhau. Nó là cách chúng ta trao đổi và tương tác với nhau để chia
sẻ thông tin, hiểu và được hiểu, xây dựng mối quan hệ và đạt được mục tiêu chung.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, nhu cầu giao tiếp là
một trong những nhu cầu cơ bản xuất hiện sớm nhất ở con người do đó không thể
thiếu trong sự phát triển nhân cách. Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các quan lOMoAR cPSD| 58707906
hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội chuẩn mực, làm thành bản chất con người.
Đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
nhân loại để từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Và nhất
là đối với trẻ em thì ngoài yếu tố để tồn tại thì nó còn giúp trẻ phát triển tâm lý ổn
định. Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan
hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, với chuẩn mực xã hội, tự
đánh giá bản thân mình như là một nhân cách để hình thành một thái độ cảm xúc
nhất định đối với bản thân, hay nói ý khác đi qua giao tiếp con người hình thành
năng lực ý thức. Ví dụ như cho trẻ tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể
thao, bé khỏe bé ngoan, ... trẻ sẽ ý thức được vai trò của mình, trẻ sẽ năng động hơn,
thích giao lưu, tiếp xúc với mọi người, không sợ khi đứng trước đám đông, hình
thành trong trẻ sự tự tin,... Và ngược lại những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em
không tập giao tiếp làm quen bạn bè và thầy cô nên khi lên lớp 1 sẽ rất rụt rè và nhút nhát.
Còn hoạt động cá nhân là những hành động mà một người thực hiện một cách độc
lập, không liên quan trực tiếp đến các cá nhân khác hay tập thể. Đây là những hoạt
động tự phát, xuất phát từ nhu cầu, sở thích, mục đích riêng của mỗi người. Con
đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không
hiệu quả nếu như bản thân cá nhân không tiếp nhận, không hưởng ứng, không trực
tiếp tham gia vào các hoạt động đó nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách.
Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa mãn nhu cầu tự nhiên hay đời sống xã hội là
những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách. Chẳng hạn như khi chúng
ta dạy cho trẻ viết chữ, nếu trẻ không tự thường xuyên luyện viết thì trẻ sẽ không
biết viết hay nói cách khác thì yếu tố giáo dục trong trường hợp này không phát huy tác dụng.
Thông qua hoạt động con người có thể cải tạo những nét tâm lí và những nét nhân
cách đang bị suy thoái, hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Mỗi
con người là sản phẩm hoạt động của chính mình, đó là con đường để thành đạt, để vươn tới lí tưởng.
Hoạt động và giao tiếp phản ánh hai loại quan hệ của con người với thế giới, hoạt
động được hiểu là quan hệ với đối tượng là vật thể, giao tiếp là quan hệ với con
người. Trong cuộc sống hoạt động và giao tiếp có quan hệ qua lại với nhau. Bằng
hoạt động và giao tiếp mà con người với tư cách là chủ thể tiếp thu các kinh nghiệm
xã hội - lịch sử, biến nó thành tâm lí, nhân cách. lOMoAR cPSD| 58707906
Và muốn phát huy vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách , nhà giáo dục cần: đưa học sinh vào những hoạt động đa dạng, coi hoạt
động là phương tiện giáo dục cơ bản; quá trình giáo dục phải là quá trình tổ chức
hoạt động tích cực sáng tạo của học sinh, cần thay đổi tính chất của hoạt động, làm
phong phú nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động, từ đó lôi cuốn học sinh
vào hoạt động. Có thể lồng ghét một số trò chơi đố vui vào bài giảng để học sinh
không cảm thấy nhàm chán và hứng thú hơn với nội dung hoặc có thể đưa nội dung
bài học vào một số hoạt động vui chơi ngoài giờ lên lớp để các em có thể tích cực
tham gia và phát huy tính sáng tạo của bản thân. Ngoài ra nhà giáo dục cũng cần
nắm được các hoạt động chủ đạo ở từng thời kì nhất định để tổ chức các loại hoạt
động phù hợp với đặc điểm của từng lứa tuổi học sinh. Chẳng hạn như học sinh ở
lứa tuổi mẫu giáo thì hoạt động chủ đạo là vui chơi còn ở học sinh tiểu học thì hoạt
động chủ đạo là hoạt động học tập. Vì vậy, với tư cách là nhà giáo dục cần phải phát
huy vai trò chủ đạo của mình trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục. 4.
Các xu thế phát triển giáo dục. Từ đó xác định những định hướng
nghiêncứu và phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Trả lời:
• Các xu thế phát triển giáo dục:
- GDTX là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục
- GD suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một xã hội học tập
- GD phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên sự tiến
bộ văn hóa của bản thân
- GD dạy cho con người khả năng thực hành, thực nghiệm, chú ý giáo dục
hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp.
- GD trẻ em trước tuổi đến trường là một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo dục
- Nhà giáo phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục thực thụ
- Việc giảng dạy phải thích nghi với người học
- Tăng cường giáo dục nhân văn
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
- Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực
- Hiện đại hóa các phương pháp dạy học – giáo dục lOMoAR cPSD| 58707906
• Những định hướng nghiên cứu và phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay
- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục
- Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục, xá định
mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển KT – XH
- Nghiên cứu các vấn đề đối với mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học –
giáo dục đáp ứng sự phát triển thực tiễn
- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ vào quá trình dạy
học – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 5.
Phân tích mục đích giáo dục Việt Nam tổng quát. Từ đó, xác định
phươnghướng phấn đấu của bản thân để thực hiện được các mục đích đó. Trả lời: • Giải thích:
Mục đích của giáo dục là mô hình dự kiến của sản phẩm giáo dục. Là một
thành tố quan trọng định hướng cho quá trình giáo dục, qui định việc lựa chọn nội
dung, chương trình, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục, xác định các
điều kiện để thực hiện quá trình GD
Mục tiêu của giáo dục là những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối
với từng khâu nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục. Mục tiêu của GD nói
về kết quả cần phải đạt được trong thực tế. Dù mục đích hay mục tiêu đều có giá trị
định hướng, là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất lượng giáo dục. Nếu xác định đúng
đắn mục đích, mục tiêu của giáo dục sẽ có tác dụng kích thích tính tích cực, tạo động
lực cho hoạt động giáo dục.
• Phân tích mục đích giáo dục Việt Nam tổng quát:
- Mục đích giáo dục được xét qua hai bình diện: Xét trên bình diện xã hội và xét
trên bình diện nhân cách.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, mục tiêu giáo
dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đó là
các mục tiêu xét trên bình diện xã hội.
Về mục tiêu nâng cao dân trí, dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ
văn hóa của người dân trong từng thời kì lịch sử nhất định. Theo số liệu của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 3,6% học sinh trong độ tuổi không lOMoAR cPSD| 58707906
được đến trường. Tỷ lệ học sinh ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, nạn bỏ học cao hơn so với các vùng kinh tế trọng điểm và các khu đô thị. Ở
các vùng núi cao, số trẻ em gái không biết chữ ở nhóm 10 tuổi là 13,69%; nhóm 11
– 14 tuổi là 7,98%; nhóm 15 – 17 tuổi là 9,08%. Qua số liệu có thể thấy đây là một
vấn đề cấp thiết và mục đích của giáo dục và đào tạo là khắc phục điều đó. Cần xây
dựng hoàn chỉnh và phát triển các bậc học mầm non cho hầu hết các em trong độ
tuổi này, củng cố kết quả phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, từng bước thực hiện phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi. Chú trọng phát triển mạng lưới trường
lớp, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu đông dân cư, phấn đấu giảm thiểu chênh lệc về phát triển GD giữa
các vùng lãnh thổ. Đồng thời củng cố và nâng cao thành quả phổ cập GDTH, phổ
cập THCS và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phổ cập GD THPT.
Về mục tiêu đào tạo nhân lực, nhân lực ở đây đó là lực lượng lao động. Một
đất nước muốn phát triển phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có trình độ kỹ thuật
cao. Trong xã hội hiện đại, khi nền khoa học và công nghệ đạt tới trình độ cao, nhu
cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là những người có trình độ học vấn cao,
kiến thức rộng, tay nghề vững, năng động sáng tạo, linh hoạt trong việc giải quyết
các tình huống của thực tiễn. Vì thế mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực nhằm đào tạo
nhân lực khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lí giỏi và công nhân kĩ
thuật lành nghề. Đồng thời đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, đào
tạo nhân lưc cho nông thôn để thực hiện việc chuyển giao cơ cấu lao động. Ngoài
ra, cần phát triển đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
Thay đổi cơ cấu lao động để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên
cạnh đó cũng cần nâng cao chất lượng và đảm bảo đủ số lượng giáo viên cho toàn
hệ thống giáo dục; tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa các điều kiện dạy học, tiếp tục phấn
đấu sớm có một số cơ sở ĐH, TCCN, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nền giáo dục của bất cứ quốc gia nào, thời đại nào không những hướng vào
việc nâng cao dân trí, mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Chủ tịch HCM đã coi việc nâng trọng bồi dưỡng nhân tài là một chiến lược, là tài
sản quý báu của dân tộc. Theo Người: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết phải
có nhân tài”, phải có nhân tài trong các lĩnh vực khác nhau thì công việc kiến thiết
đất nước mới có kết quả. Vì thế bồi dưỡng nhân tài cũng là một trong những mục
tiêu của giáo dục và đào tạo. Cần hình thành từng bước những trung tâm chất lượng lOMoAR cPSD| 58707906
cao ở các cấp học, bậc học, các trường lớp trọng điểm có chất lượng cao. Mở rộng
hệ thống trường lớp năng khiếu, trường chuyên, lớp chọn ở phổ thông. Đồng thời,
đào tạo lực lượng công nhân lành nghề bậc cao, phát triển hệ đào tạo bồi dưỡng sau
bậc đại học. Bên cạnh đó cũng cần tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài
chính, để hiện thực hóa các chủ trương, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng nhân tài.
Bồi dưỡng nhân tài phải đi đôi với thu hút và sử dụng nhân tài hợp lí, tạo điều kiện
cho đội ngũ tri thức, các nhà khoa học có điều kiện tiếp cận và phát huy tiềm năng của họ.
Ngoài ra giáo dục còn xét trên bình diện nhân cách cụ thể là hướng đến 3 mục
tiêu về tri thức, kỹ năng và thái độ.
Về tri thức, giáo dục hướng con người làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại. Áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn nhằm tạo ra các giá trị mới cho xã
hội và phát triển tư duy sáng tạo ở chủ thể hoạt động. Ví dụ như trong lao động sản
xuất, trước đây người dân phải dùng sức người lao động rất vất vả, đem lại ít năng
suất nhờ áp dụng tri thức khoa học vào thực thực tiễn từ đó đã tạo ra những máy móc
công nghệ tiên tiến phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp phát triển.
Không chỉ về tri thức mà giáo dục còn giúp con người hoàn thiện về kĩ năng.
Rèn luyện khả năng vận dụng đúng, thành thạo, sáng tạo những tri thức khoa học
công nghệ đã lĩnh hội vào thực tiễn nghề nghiệp nhằm tạp ra các sản phẩm có chất
lượng, có sức cạnh tranh trên thị trường. Ví dụ như các kỹ sư phần mềm được đào
tạo về lập trình và phát triển phần mềm không chỉ học lý thuyết mà còn thực hành
qua các dự án thực tế. Họ áp dụng các kiến thức về lập trình, thiết kế hệ thống, và
bảo mật để tạo ra các ứng dụng di động, trang web, và phần mềm doanh nghiệp. Sản
phẩm của họ không chỉ hoạt động tốt mà còn phải có tính cạnh tranh trên thị trường,
ví dụ như các ứng dụng nổi tiếng như Facebook, Google Maps, và các phần mềm kế
toán của các công ty lớn.
Ngoài ra, mục tiêu của giáo dục còn hướng tới mục tiêu hoàn thiện về thái độ.
Thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên cường xây dựng, giữ
gìn và kế thừa phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp. Đồng thời, rèn luyện bản thân
những phẩm chất tốt đẹp, giữ gìn đạo đức trong sáng, phát huy sự tích cực, có sức
khỏe. Ví dụ như ở các trường học, chương trình đào tạo luôn rèn luyện cho học sinh
đầy đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết: bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, đạo đức
trong sáng thông qua môn học đạo đức, giáo dục công dân,…Tổ chức các hoạt động lOMoAR cPSD| 58707906
xã hội có ý nghĩa, rèn luyện thể chất, tăng cường sức khỏe cho học sinh qua môn học
thể dục, giáo dục thể chất.
Xác định phương hướng phấn đấu của bản thân để thực hiện được các mục đích đó:
- Để thực hiện được những mục tiêu trên trước hết phải hoàn thiện được bant
thân mình. Trước hết, cần cố gắng, nổ lực học tập, trau dồi tri thức, trang bị
cho bản thân đầy đủ hành trang để bước vào nghề.
- Bên cạnh trau dồi tri thức, hoàn thiện cho bản thân các kỹ năng cơ bản cần
thiết, tích cực tham gia nhiều hoạt động xã hội có ý nghĩa; tạo dựng các mối
quan hệ tốt đẹp. Ngoài ra cũng cần tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao, nâng cao sức khỏe.
- Phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công dân trong việc thực hiện mục
tiêu đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Rèn luyện những kỹ năng kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực và phẩm chất
trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo
- Giữ gìn, chăm sóc bảo vệ và phát triển sức khỏe, rèn luyện kỹ năng cơ bản,
hình thành thói quen chăm sóc sức khỏe, luyện tập thể dục thể thao một cách thường xuyên
- Hình thành và phát triển năng lực nhận thức cảm thụ cái đẹp, năng lực nhận
xét cái đẹp. Có thái độ trân trọng gìn giữ cái đẹp, sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống.
6. Phân tích các nhiệm vụ giáo dục. Trả lời:
• Giáo dục đạo đức:
Làm cho học sinh có được thế giới quan khoa học, hiểu được tính quy luật cơ bản
của sự phát triển xã hội, có ý thức phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công
dân trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; Làm cho học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được những cơ sở pháp luật của
Hiến pháp, các luật pháp hiện hành ( luật lao động, luật công dân, luật kinh tế, luật
giáo dục,..), có ý thức, hành động và lối sống theo pháp luật; Làm cho học sinh thấm
nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định về lối sống, phong lOMoAR cPSD| 58707906
cách, thái độ ứng xử trong cộng đồng, giáo dục cho học sinh biết tạo ra giá trị của
chính mình, đồng thời phải tạo ra giá trị cho xã hội; Giáo dục cho học sinh tích cực
tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, luôn có ý thức kiên quyết đáu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực, những lối sống lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp. Như vậy,
nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh là quan trọng và cần thiết. Nhiệm vụ này
cần được tiến hành một cách thường xuyên. Có như vậy mỗi học sinh lại có thể ý
thức đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của người công dân, sống và làm việc theo đúng
hiến pháp của pháp luật. • Giáo dục trí tuệ:
Là nhiệm vụ quan trọng nhằm phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là
năng lực tư duy độc lập sáng tạo. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học,
góp phần phát triển nhân cách cho học sinh. Giáo dục trí tuệ giúp tổ chức, điều khiển
người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học, phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù
hợp với những yêu cầu của thực tiễn về tự nhiên, xã hội, con người. Rèn luyện cho
người học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực và phẩm chất trí
tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo. Thêm vào đó còn bồi dưỡng cho người học
thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người công dân. Nhờ
có sự phát triển trí tuệ, con người ngày càng phát triển nhu cầu nâng cao trình độ
học vấn, nhu cầu thường xuyên bổ sung, mở rộng hiểu biết, tự nghiên cứu để không
ngừng tiếp thu và sáng tạo các giá trị văn hóa xã hội, trên cơ sở đó không ngừng
hoàn thiện nhân cách của bản thân. • Giáo dục thể chất:
Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về thể dục, thể
thao, giữ gìn, chăm sóc, bảo vệ và phát triển sức khỏe rèn luyện kỹ năng cơ bản.
Giúp hình thành những thói quen và hứng thú luyện tập một cách thường xuyên, có
hệ thống, rèn luyện cho các em thói quen và những hiểu biết cần thiết về vệ sinh cá
nhân và xã hội, vệ sinh trong học tập lao động. Và cần phát hiện và bồi dưỡng nhân
tài thể dục thể thao. Giáo dục thể chất nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết
về giáo dục quốc phòng: lòng trung thành với tổ quốc, niềm tin và tự hào dân tộc, ý
thức cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc, giáo dục tính tổ chức, tính kỷ luật,.. • Giáo dục thẩm mỹ:
Cần hình thành và phát triển ở học sinh năng lực nhận thức, cảm thụ cái đẹp trong
tự nhiên, trong nghệ thuật,…Giáo dục cho học sinh thị hiếu thẩm mỹ, năng lực nhận lOMoAR cPSD| 58707906
xét, đánh giá cái đẹp, phải biết phân biệt cái đẹp chân chính và những gì phi thẩm
mỹ, vô văn hóa. Giáo dục các em có thái độ trâm trọng, bảo vệ, giữ gìn cái đẹp, phê
phán đúng mức những cái phi thẩm mỹ. Từ đó động viên, khuyến khích các em có
mong muốn sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống. Vì vậy việc phát hiện nhân tài, bồi
dưỡng năng khiếu thẩm mỹ kịp thời, tạo điều kiện để phát triển sớm tài năng cho các
em là việc làm cần thiết nhất. • Giáo dục lao động:
Cần truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức cơ bản về các loại hình lao động phổ
biến. Hình thành những cơ sở ban đầu của phẩm chất người lao động trong thời đại
mới, những thói quen và kỹ năng lao động tập thể. Ngoài ra cần tạo mọi điều kiện
hợp lý để học sinh vận dụng tri thức, kỹ năng vào cuộc sống, tổ chức cho học sinh
trực tiếp tham gia lao động sản xuất góp phần làm ra của cải vật chất cho xã hội. Có
như vậy, mỗi học sinh mới nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục lao
động, có kỹ năng lao động trong một lĩnh vực hoặc một ngành nghề nhất định nào đó.
7. Phân tích nguyên lí của giáo dục Việt Nam. Nguyên lý giáo dục Việt Nam
có những đặc điểm nào? Làm rõ. Trả lời:
Nguyên lí giáo dục Việt Nam là những luận điểm chung nhất của lý thuyết giáo dục,
có tính quy luật, được khái quát trên các căn cứ khoa học và thực tiễn giáo dục. Là
những luận điểm khái quát mang tầm tư tưởng và có tính quy luật của quá trình giáo
dục, định hướng, chỉ dẫn toàn bộ hệ thống giáo dục và quá trình sư phạm tổng thể.
Hoạt động giáo dục được thực hiện theo 4 nguyên lý: Học đi đôi với hành; Lí luận
gắn liền với thực tiễn; Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất; Giáo dục nhà trường
kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Học đi đôi với hành là một tư tưởng giáo dục vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa có
tính khoa học vừa có tính giá trị thực tiễn. Hoạt động chính yếu của học sinh trong
nhà trường là học tập. Đây là một hoạt động thuộc dạng lao động trí tuệ, đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách. Học không chỉ là việc tiếp thu kiến
thức trong sách vở, nó còn là quá trình nhận thức, chiếm lĩnh tinh hoa của loài người
để trở thành tài sản riêng. Vì thế học còn là quá trình tiếp thu và rèn luyện: “học” và
“tập”. Hành là quá trình vận dụng kiến thức đã được “cá nhân hóa” để giải quyết
thực tiễn. Hành là mục đích, là động lực và là kết quả của sự học. Học và hành là hai
mặt hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau, không chỉ đóng khung trong trường, lớp mà còn lOMoAR cPSD| 58707906
được tiếp tục trong thực tiễn tại các cơ sở ngoài xã hội, gia đình. Ví dụ như trong
môn Kỹ thuật, học sinh không chỉ học về lý thuyết của phép đo và tính toán mà còn
được tham gia vào các hoạt động thực tế như làm các mô hình, sửa chữa thiết bị,..
Lí luận gắn liền với thực tiễn đó là một yêu cầu quan trọng đối với quá trình giáo
dục và đào tạo trong nhà trường Việt Nam. Chúng ta đều biết, nhà trường là một bộ
phận của xã hội. Nội dung giáo dục nhà trường phải phản ánh những gì đang diễn
biến trong thực tiễn xã hội. Học tập có liên hệ với thực tiễn làm cho lí luận không
còn khô khan, khó tiếp thu mà trở nên sinh động và ngược lại, các sự kiện, hiện
tượng thực tiễn được phân tích, được soi sáng bằng những lí luận khoa học vững
chắc. Ví dụ như khi chúng ta học môn Vật lý, thay vì giảng giải về nguyên lý áp suất
khó hiểu giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu về ứng dụng của áp suất trong cuộc
sống hàng ngày, chẳng hạn như hoạt động bơm của xe đạp.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là tư tưởng giáo dục hiện đại của nhà trường
Việt Nam. Giáo dục lao động là một nội dung của giáo dục toàn diện, học sinh chính
là những lao động của tương lai, vì vậy nhà trường phải chuẩn bị cả về tâm lý, kiến
thức và kĩ năng cho học sinh sẵn sàng vững bước. Các môn hoc như thủ công, giáo
dục hướng nghiệp,..được đưa vào dạy học. Và một nguyên tắc cần chú ý chính là
giáo dục trong lao động và bằng lao động. Lao động sản xuất vừa là môi trường và
là phương tiện giáo dục con người. Mọi phẩm chất nhân cách được hình thành trong
lao động và hoạt động xã hội. Gia đình và nhà trường cần tổ chức cho học sinh lao
động tự phục vụ và tham gia lao động công ích xã hội để giáo dục ý thức và kỹ năng
lao động cho học sinh. Ví dụ như trong các trường học nghề, học sinh được giao
nhiệm vụ thực hành tại các doanh nghiệp địa phương hoặc xưởng sản xuất. Việc này
giúp học rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp thực tế và hiểu rõ hơn về môi trường làm việc.
Cuối cùng là giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Giáo dục là quá trình có
nhiều lực lượng tham gia, trong đó có ba lực lượng quan trọng nhất: gia đình, nhà
trường và các đoàn thể xã hội. Ba lực lượng này đều có chung mục đích là hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ. Gia đình là nơi sinh ra, nơi nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em.
Giáo dục gia đình dựa trên tình cảm huyết thống, gắn bó với nhau và như vậy giáo
dục gia đình trở nên bền vững nhất. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định giáo
dục gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ trẻ. Giáo dục xã hội là giáo dục trong
môi trường nơi trẻ em sống. Giáo dục xã hội bao hàm cả giáo dục của các đoàn thể. lOMoAR cPSD| 58707906
Tuy nhiên quá trình giáo dục phải lấy nhà trường làm trung tâm. Giáo dục nhà trường
có mục đích, nội dung và nội dung giáo dục toàn diện, dựa trên cơ sở khoa học và
thực tiễn. Mối liên hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội đem lại những thành công
cho giáo dục. Trong đó nhà trường chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp với
tất cả các lực lượng giáo dục. Chẳng hạn như, trường tổ chức các buổi gặp gỡ giữa
giáo viên và phụ huynh để trao đổi về tiến trình học tập của học sinh, cũng như tổ
chức các hoạt động ngoại khóa kết hợp với cộng đồng địa phương để học sinh có cơ
hội tham gia vào các hoạt động xã hội và phát triển kỹ năng xã hội.
Nguyên lý giáo dục Việt Nam có đặc điểm :
Là 1 tư tưởng giáo dục được khái quát từ bản chất của giáo dục. Bản chất của hiện
tượng giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử- xã hội của các thế
hệ loài người. Nó còn là quá trình tổ chức hoạt động giao lưu của nhà giáo dục cho
người được giáo dục để người đó có năng lực biến các hành vi cá nhân thành các
chuẩn mực xã hội, ngược lại, biến các chuẩn mực xã hội thành các tiêu chuẩn để
đánh giá cá nhân để từ đó cá nhân hoạt động tích cực, nổ lực hơn.
Nó được rút ra từ mục đích giáo dục và trở thành phương thức để thực thi mục đích
giáo dục. Mục đích giáo dục là mô hình dự kiến của sản phẩm giáo dục, là thành tố
quan trọng định hướng quá trình giáo dục, quy định việc lựa chọn nội dung, chương
trình, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục, xác định các điều kiện để thực
hiện quá trình giáo dục.
Được rút ra từ những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến. Bởi nguồn gốc của giáo dục
chính là xuất phát từ lao động sản xuất, mà những hoạt động đó đều nhằm truyền đạt
những kinh nghiệm lịch sử- xã hội cho nhau. Con người truyền lại cho nhau những
kỹ năng, kỹ xảo cũng những giá trị văn hóa xã hội và thay đổi chúng cho phù hợp với thời đại.
8. Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo. Trình bày các biện pháp rèn
luyện phẩm chất của người giáo viên? Trả lời:
Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo:
Đặc điểm lao động sư phạm nhà giáo bao gồm: Mục đích, đối tượng, công cụ lao
động, sản phẩm, thời gian và không gian và hệ thống những kỹ năng đảm bảo cho
hoạt động giáo dục của người giáo viên đạt hiệu quả. lOMoAR cPSD| 58707906
Đầu tiên đó là mục đích của lao động sư phạm. Mục đích của nghề dạy học là hình
thành cho thế hệ trẻ những phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng cho nhu cầu xã
hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Giúp người học tiếp thu và chuyển hóa nền
văn hóa nhân loại thành phẩm chất và năng lực của bản thân.
Về đối tượng của lao động sư phạm, nghề dạy học có đối tượng tác động là con
người (chủ yếu là thế hệ trẻ) mang trong mình những nhân cách xác định tồn tại và
phát triển như một thực thể xã hội, có ý thức chủ động tiếp thu sự giáo dục. Việc
hiểu biết đối tượng giáo dục của mình cụ thể, toàn diện bao nhiêu thì hiệu quả lao
động sư phạm càng có cơ sở vững chắc bấy nhiêu.
Tiếp đến là công cụ, phương tiện lao động của lao động sư phạm. Với đối tượng lao
động đặc biệt là con người, ta cần chuẩn bị những công cụ đặc biệt để việc lao động
sư phạm đạt hiệu quả. Cần trang bị hệ thống tri thức đầy đủ để truyền đạt cho học
sinh. Ngoài ra cũng cần hoàn thiện nhân cách cho người giáo viên, nắm được hệ
thống các dạng hoạt động được tổ chức theo những mục đích sư phạm và không thể
thiếu tập thể học sinh và tổ chức xã hội. Để việc lao động sư phạm có hiệu quả cao
hơn cần có những phương tiện, thiết bị vật chất và kĩ thuật phục vụ cho dạy học và giáo dục.
Về sản phẩm của lao động sư phạm đó chính là nhân cách trong những con người
chuẩn bị dì vào cuộc sống theo những chuẩn mực đã định ( mục đích giáo dục ). Đó
chính là những con người có sự biến đổi về chất so với thời điểm xuất xứ của họ xét về mặt nhân cách.
Tiếp theo là thời gian và không gian của lao động sư phạm. Về thời gian lao động sư
phạm được chia làm hai bộ phận: bộ phận theo quy chế của nhà nước ( số giờ lên
lớp, số giờ làm công tác chủ nhiệm,.v.v..) và bộ phận thời gian ngoài giờ hành chính
( thăm hỏi gia đình học sinh, liên hệ với các tổ chức xã hội, tổ chức tiến hành hoạt
động ngoại khóa cho học sinh,v.v…). Về không gian, lao động sư phạm chủ yếu
thực hiện trong phạm vi khuôn viên trường học ( lớp học, sân trường thư viện v.v…)
và có sự xen kẽ việc triển khai các công việc trong môi trường XH (làm việc với các tổ chức).
Cuối cùng là hệ thống các kỹ năng đảm bảo cho hoạt động GD của người GV đạt
hiệu quả. Rèn luyện nhóm kỹ năng thiết kế giúp người giáo viên nhìn thấy trước
công việc mà mình sẽ đạt tới về nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành,…
Người giáo viên dễ dàng điều phối lực lượng giáo dục nhằm thực hiện nội dung đã lOMoAR cPSD| 58707906
“thiết kế” nhờ nhóm kỹ năng tổ chức. Để hòa nhập vào đối tượng giáo dục nhanh
chóng cần phái có nhóm kỹ năng giao tiếp thành thạo. Ngoài ra, cần trang bị nhóm
kỹ năng nhận thức để người GV có thể tự đánh giá được tiến trình và kết quả hoạt
dồng giáo dục của bản thân và đồng nghiệp. Bên cạnh đó còn có hệ thộng những kỹ
năng chuyên biệt như kỹ năng giảng dạy, kỹ năng giáo dục, kỹ năng hoạt động xã
hội và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Các biện pháp rèn luyện phẩm chất của người giáo viên:
- Nổ lực học tập tập trung học hành, đọc sách nhiều hơn, nâng cao vốn hiểu
biết, trang bị hệ thống tri thức toàn diện để truyền đạt cho học sinh.
- Ngoài trang bị tri thức cần rèn luyện kỹ năng giảng dạy, đứng lớp một cách tự
tin, áp dụng các công cụ tiên tiến hiện đại để việc giảng dạy hiệu quả hơn.
- Nắm được hệ thống các kỹ năng cần thiết như kỹ năng nhận thức, giao tiếp,
tuyền tải thông tin, tổ chức, kiểm tra,…
- Giữ vững đạo đức nghề nghiệp, tôn trọng nghề nghiệp, luôn giữ vững sự tâm
huyết, đam mê với sự nghiệp giáo dục, luôn công bằng, minh bạch và có trách nhiệm với công việc.
- Nghiên cứu, am hiểu và nắm được các đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng dạy
học, khả năng nhạy cảm trước các hình vi của học sinh.
- Tăng cường sức khỏe và tâm lí, tập thể dục và ăn uống lành mạnh, luôn duy
trì tâm lí lạc quan vui vẻ.