



















Preview text:
lO M oARcPSD| 45467232 lO M oARcPSD| 45467232 MỤC LỤC
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó ....................................1
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình .........................................................................................................3
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất .......................................................4
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa vật chất..............................................................................................................6
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với sự hình thành các triết
lý sống của người Việt ....................................................................................................8
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trò của
phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay............................9
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò củaNho
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay ................................. 10
Câu 8: Hãy trình bày dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy
.................................................................................................................................... 14
Câu 9: Hãy trình bày các đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai
trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân ............................................... 16
Câu 10: Hãy trình bày các đặc trưng của văn hóa làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen,
lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những câu
thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt................................................... 19
Câu 11: Hãy phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển đổi cấu trúc văn hóa ViệtNam
từ truyền thống đến hiện đại .......................................................................................... 22 lO M oARcPSD| 45467232 1
Câu 12: Anh/chị hãy phân tích văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và ảnh hưởng
của nó đến ứng xử của giới trẻ hiện nay ......................................................................... 24
ÔN TẬP ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
*Bảng phân biệt sự khách nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc: Tiêu chí
Văn hóa gốc nông nghiệp
Văn hóa gốc chăn nuôi du
trồng trọt (Chủ yếu ở
mục (chủ yếu ở phương phương đông) tây) Đặc trưng gốc Đồng bằng (ẩm, thấp) Đồng cỏ (khô, cao)
(Địa hình, nghề chính, Trồng trọt Chăn nuôi cách sống) Định cư Du cư Ứng xử với môi
Tôn trọng, sống hòa hợp với Coi thường, tham vọng chế trường tự nhiên thiên nhiên ngự thiên nhiên
Lối nhận thức tư duy Thiên về tổng hợp và biện Thiên về phân tích và siêu
chứng (trọng quan hệ); chủ hình (trọng yếu tố); khách
quan, cảm tính và kinh nghiệm quan, lý tính và thực nghiệm
Tổ chức cộng đồng
Trọng tình, trọng đức, trọng Trọng sức mạnh, trọng tài, văn, trọng nữ; trọng võ, trọng nam;
Linh hoạt và dân chủ, trọng Nguyên tắc và quân chủ, cộng đồng trọng cá nhân. lO M oARcPSD| 45467232 2 Ứng xử với môi
Dung hợp trong tiếp nhận; Độc tôn trong tiếp nhận, cứng trường xã hội
mềm dẻo, hiếu hòa trong đối rắn, hiếu thắng trong đối phó phó Tiêu chí
Văn hóa gốc phương Đông Văn hóa gốc phương Tây Cơ sở hình thành
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, Khí hậu lạnh khô, địa hình
sông ngòi chằng chịt, đồng chủ yếu là thảo nguyên thích
bằng phì nhiêu màu mỡ, nông hợp cho chăn nuôi phát triển
nghiệp trồng trọt phát triển. Văn hóa chăn nuôi du Văn hóa nông nghiệp mục. trồng trọt. lO M oARcPSD| 45467232 3 Đặc điểm - Sống định cư, không - Sống du cư, nên có
thíchdi chuyển trọng tĩnh thóiquen thích di chuyển Trọng động. - Tôn thờ sùng bái tự
nhiên,mong muốn hòa hợp với - Tham vọng chinh thiên nhiên.
phục,chế ngự tự nhiên. -
Cuộc sống định cư tạo - Yếu tố cá nhân được nêntính cộng đồng cao. coitrọng.
=> Hình thành lối sống trọng => Hình thành lối sống thích
tình, trọng văn, trọng phụ nữ.
ganh đua, cạnh tranh, ứng xử
độc đoán trong giao tiếp. - Phương thức sản xuất
phụthuộc vào nhiều yếu tố tự - Chăn nuôi du mục
nhiên nên hình thành kiểu tư hìnhthành kiểu tư duy phân
duy tổng hợp biện chứng
tích chú trọng vào từng yếu tố. - Do tư duy tổng hợp
biệnchứng nên hình thành thái - Do tư duy này nên
độ ứng xử linh hoạt, mềm dẻo. hìnhthành lối sống trọng lý,
ứng xử theo nguyên tắc.
=> Thói quen tôn trọng pháp
luật vì vậy mà hình thành rất sớm ở phương tây.
Nguyên nhân có sự khác nhau: Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên. Vì vậy,
nguồn gốc của mọi sự khác biệt sâu xa về văn hóa là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa
lý, khí hậu) và xã hội (lịch sử kinh tế) tạo nên.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí, tự nhiên
thuận lợi nằm ở góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, có nhiều con
sông lớn như sông Hồng, sông Mekong,… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận
lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước nên nền văn hóa VN thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp điển hình.
Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự di chuyển, thay đổi, tình lO M oARcPSD| 45467232 4
cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… nên hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội
Do cư dân VN sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn
mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ “lạy trời, ơn trời…” có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái
tự nhiên. Vì vậy, phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước. Cuộc sống định cư tạo cho
người Việt có tính gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá nhân: “bán anh em xa, mua láng giềng
gần; Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ;…”. Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt
tình cao hơn lí, ứng xử nhiều văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.
Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm lo, thu
vén của người phụ nữ, vai trò của người phụ nữ được tôn trọng và đề cao.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể
hiện rõ trong văn hóa, nhận thức, ứng xử của người Việt. Coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là
cơ sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kết hợp lối sống
trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Như vậy, loại hình văn hóa VN được xem là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng
trọt điển hình, đều được thể hiện rõ trong cách tổ chức đời sống, phương thức tư duy, lối ứng xử
của người Việt và được xem là nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của
người Việt được thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất.
*Lĩnh vực văn hóa vật chất được thể hiện qua 4 nội dung chính sau:
Trong văn hóa sản xuất vật chất: người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi trường
tự nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều,… thuận lợi để phát triển nghề trồng lúa nước
và giữ vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của XH VN truyền thống. Quá trình cải tạo và
chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành những vùng
đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra, với điều kiện tự
nhiên thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho củ, cho quả, lá cây, cho sợi để
làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện tự nhiên để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, các
nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.
Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của người
Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên này được thể hiện trước lO M oARcPSD| 45467232 5
hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống với 3 thành phần chính: cơm – rau – cá.
Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên trong bữa ăn “Người sống vì gạo, các bạo vì nước”, bữa
ăn của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm
mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp dùng
làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt… Thành phần thứ hai trong cơ cấu bữa ăn người Việt là rau quả.
Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu
nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dùng
môi trường tự nhiên của người Việt.
Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn cơm không rau như đánh
nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người giàu chết không kèn trống”. Rau quả đặc
thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống và dưa cà: “Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống,
nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa cà, dưa cải là những món ăn hợp thời tiết, được người Việt ưa thích
và thường được dự trữ để ăn thường xuyên: “có dưa chừa rau”, “có cà thì tha gắp mắm”, “thịt cá là
hoa, tương cà là gia bản”. Bên cạnh các loại rau quả là thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn còn
có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau diếp cá… Gia vị cũng
là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. Thành phần thứ ba trong bữa ăn của
người Việt là cá. Việt Nam có phía Đông giáp với biển Đông lài có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng
chịt nên dùng các trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người
Việt. Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong bảng các loại thức ăn thủy sản (so với
tôm, cua, mực…). Người Việt thường nói: “Cơm với cá như má với con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”,
“con cá đành ngã bát cơm”. Người Việt còn tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ
chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước
mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa
dạng: nấu chin, ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng,
gỏi… Văn hóa ẩm thực của người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Đó là
biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.
Trong văn hóa trang phục: người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các màu
sắc trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen…, có ý thức làm đẹp.
Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự nhiên, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chọn các chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm, sợi bông, sợi
đay… trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra chiếc nón là phần
không thể thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che nắng. Trang phục của nam
giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. lO M oARcPSD| 45467232 6
Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở - Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên
người Việt xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc nhà mang dấn ấn của
vùng sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi để ứng phó với những
tác động xấu của môi trường. Không gian nhà là không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao
hợp với thiên nhiên. Trong quan niện về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng
nhà, chọn đất, tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để
tiện nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà
cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thề đất, thế núi, ngồn nước…
Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc thành quách như thành Thăn Long, thành nhà Hồ, kinh
thành Huế… hay trong thuyết tam tài của người dân: “thiên-địa- nhân”.
Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận dụng sông nước
nên phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng…
Tóm lại, ăn mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng đồng
thời thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể hiện rõ nét dấu ấn loại
hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó
linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 4: Hãy chỉ ra sự ứng xử với môi trường xã hội của người Việt được thể hiện ở lĩnh vực
văn hóa vật chất.
Đó là việc coi trọng nông nghiệp, chính sách khuyến nông tích cực, khuyến khích khai
hoang, mở rộng diện tích canh tác, bảo vệ sức kéo trong văn hóa sản xuất vật chất.
Trong văn hóa ẩm thực thể hiện ở tính cộng đồng và tính mực thước, bữa ăn của người
Việt là ăn chung nên người Việt rất thích trò chuyện nên qua đó cũng thể hiện thái độ ứng xử ý
chừng mực trong ăn uống. Ngoài ra trong văn hóa ẩm thực còn thể hiện tính linh hoạt theo mùa,
theo vùng miền, cách để chế biến và lựa chọn món ăn và trong dụng cụ ăn đó là đôi đũa.
Trong sự ứng xử đối với môi trường xã hội, trang phục của người Việt luôn thể hiện vẻ kín đáo, tế nhị.
Kiến trúc nhà ở mang tính cộng đồng, giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy nên
văn hóa cũng gắn liền với những phương tiện đi lại, coi đó như là nền tảng cho thái độ ứng xử văn
hóa với môi trường xã hội.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha ông ta xây
dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng của nền văn minh nông lO M oARcPSD| 45467232 7
nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội
thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiêu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của hội Việt
Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định hình từ thời Văn Lang
- Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình xây dựng quốc gia tự chủ, các
triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có các chính sách khuyến nông tích cực.
Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ chuối,
sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông, những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất phong
phú, không chỉ đáp ứng được nhu câu may mặc trong nước mà còn bán nước ngoài. Như vậy, từ
thời Hùng Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt, phương thức sản xuất nông
nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề nông là sự
mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các nhu cầu sản xuất và sinh sống hàng
ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp,
các quan hệ giao luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy
mô nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tâm phát triển
thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại.
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn
liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính cộng đồng
nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng cùng với sự chi phối
của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việst rất coi trọng nghi lễ và thái độ
ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền chắc
“ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu, đen, chàm…
phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ, vàng…) chỉ mặc vào
dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân). Trang
phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm, áo tứ thân,quần lĩnh, khăn chít đầu,
thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để
phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc). Trang
phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức
và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ. Trong sự ứng
xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt thể hiện quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị. lO M oARcPSD| 45467232 8
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính cộng đồng.
Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập thì nhà Việt truyền
thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong gia đình, các gian nhà thường
để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn
cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt, ruối, mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa các vùng
và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ yếu là đi bộ, vận
chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông đường thủy vì đường thủy
chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...).
Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư
duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi
đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường xã hội.
Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết âm dương – Ngũ hành với sự hình thành các triết
lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật trong vũ trụ
bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Trang văn hóa bản địa của người Việt
cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối
ngẫu âm/dương, ý niệm về sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ
sở để thuyết âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành
cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau thể
hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân
xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng,
cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các cặp âm dương
thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất, đất/nước…
Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ triết
lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng, hài hòa âm dương
thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống theo triết lí quân bình, duy trì trạng
thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong lO M oARcPSD| 45467232 9
quan hệ với người khác để không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với
những gì mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do nhận
thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn
bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật
chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp
cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự
bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam và vai trò của
phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được người
Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy của văn hóa dân
tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng
sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các hoạt
động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư
đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa trong các
mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến
thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dung hợp
các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín
ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…;
dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như
nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi
miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi
giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và
cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn dân
tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”. Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam,
Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người
đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, lO M oARcPSD| 45467232 10
mồng một, có treo ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo
trong đời sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay (
ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý thức và hành
vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến thiện tử ác" đã giúp hạn
chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần dem Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần
quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như
việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu,
thậm chi cà nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đầu
tranh của con người khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả
báo" của Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ
mình khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin vào sự
trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cung không hình thành thói quen sử dụng
công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 7: Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức , một hệ thống quan niệm tư tưởng – giáo
lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Du nhập vào
VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa
có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời Đại Việt, Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng
dạy trong nhà trường nên càng được phổ biến rộng rãi. Từ đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh
vực chính trị và tư tưởng và văn hóa tinh thần, ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác
những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước. Trước hết
nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều ở cách tổ chức
triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã
được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và
hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh
vực hành chính và giáo dục. Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho
phù hợp với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
Về chữ Trung và Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn
giữa Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên trên hết.
Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần yêu nước và lO M oARcPSD| 45467232 11
tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”. Chữ
Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn: Không phải “Trung với Vua” mà là
“Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ
không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại
bất viễn du” tức là: cha mẹ còn con không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Tức
là: Có ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là tội nặng nhất. Chính vì đặt đất nước lên hết, mà
một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc
vì dân tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường
cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy, chữ hiếu
đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ
Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền
tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ những năm sau
kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đã có một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết
nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí
thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay
sau khi tuyên bố độc lập 4/10/1945. Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống
nạn thất học. Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong những
mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Hiện nay Đảng và nhà
nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng
trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng
người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, mà còn luôn
luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng cả ở
phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một
tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển. Từ khi
có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp
phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính là lòng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành đạt, những gì
mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)… Khi Nho giáo du
nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó trở thành truyền thống tốt lO M oARcPSD| 45467232 12
đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách
hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống
văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá
“Ông bà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội
như “ Lá lành đùm lá rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người
cai trị phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền
với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần
phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách
rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân. Nhờ có
Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo lý,xét đoán được sự vịêc, phân được phải
trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ
Nhân,có trí thôi chưa đủ mà cần phải có Dũng, Dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích
cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý. Người Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể
tỏ rõ ý kiến mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn
lạc,khi người đời gặp phải hoạn nạn…”
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con
người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng
di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm
trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc. Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người
cai trị, người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào tạo.
Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và Chuyên.
Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện ngay từ khi còn
nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học
văn” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ,
người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về
mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người Việt
đối với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt Nam, Trung Quốc,
Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về cơ bản có những điều đặc biệt giống nhau.
Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung về pháp luật nặng về pháp luật và hành chính,
nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho giáo cần có bốn yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa
âm của dân, nhạc để hòa âm của dân, chính trị để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong lO M oARcPSD| 45467232 13
những nền tảng nền tảng của Đạo luật Không là khái niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có
thể nói về phiên bản là một bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường, giữ cho
mình và tuân thủ các quy tắc xử lý theo quan điểm đạo đức trong xã hội. Các quy tắc dựa trên
những tập quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ và thay đổi theo mối quan hệ
giữa các cá thể. Như vậy, hệ tư tưởng của Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ
nghĩa trong quản lý xã hội, đồng thời nhấn mạnh rằng người làm vua muốn cai trị xã hội lâu dài thì
phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc là nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị.
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi làng
xã Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộ máy nhà mước, trong
tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho giáo. Tuy nhiên, trong phạm vi
quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì những giá trị tích cực của Nho giáo sẽ bị mai
một, di sản quý báu đó trong văn hoá dân tộc sẽ không được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng
phủ dày và dần dần sẽ vùi lấp nó. Trách nhiệm của những người nghiên cứu văn hoá nói chung và
văn hoá pháp luật nói riêng là phải bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc. Tinh thần của Nho giáo trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc, hình, chính" trong
quản lý và xây dựng xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Nhờ có “lễ" mà con
người Việt Nam thường sống điều độ biết “kính trên, nhường dưới", biết “ăn trông nồi, ngồi trông
hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi, đến nói, cười, nhày,
múa, ca hát người Việt Nam thường chừng mực mà không thái quá. Chính sự chừng mực, điều độ
như uống không quá say, ăn không quá no, nói không quá lời, áo không quá hở, váy không quá
ngắn, tóc không quá dài mà trật tự xã hội được thiết lập. Như vậy, trong xã hội hiện đại ngày nay,
vai trò của pháp luật được để cao, không những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật
dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình... Tuy nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo
đức và các thuần phong, mỹ tục mà người Việt Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống
hiền hòa, nhân hậu, lưrơng thiện của người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản
phẩm văn hóa được hun đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo đóng góp
một phần không nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn giáo, phong tục tập
quán đã tạo nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ cảm nhận được bằng linh cảm
hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật Việt Nam như một tàng băng, phần nổi
chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới tầng sâu, đôi hỏi phải nghiên cứu, khám phá để
có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp đúng đắn nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và
giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là lO M oARcPSD| 45467232 14
nguyên nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều ý thức phản
biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ pháp
luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho giáo khuyên khích
"vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân
không có việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị khiến cho sự phân cách
giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các
bộ luật thời phong kien Việt Nam, "Tam cương", "Ngũ thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là
pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc
lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt Nam
không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống tư tưởng và văn hóa tinh thần
của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận
dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy
giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và chi
phối sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Câu 8: Hãy trình bày dấu ấn của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp ứng
xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp nào cần được giữ gìn và phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ
nét. Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng xử
của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây: -
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người Việt
coitrọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức ứng xử văn
hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng nhau, coi việc thăm
viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan hệ và giàu tính hiểu khách
(khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình). -
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìmhiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân của đôi tượng
giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...). Đặc điểm này cũng có
nguyên nhân từ tính cong đông và lôi sống trọng tinh (quan tâm đến ngưoi khác). Tuy nhiên, việc
này cũng tác động đến cách ứng xử nặng tình cảm hơn lý trí. Trong thực tế người Việt Nam vẫn coi
trọng “cái tình” hơn cả, bất đắc dĩ lắm mới dùng “cái lý” để giải quyết những mâu thuẫn. “Cái tình”
sẽ làm cho người gần người hơn. Xử sự với nhau bằng “cái tình” là rất đẹp, để rồi “một trăm chỗ lO M oARcPSD| 45467232 15
lệch cũng kê cho bằng”, để không phải hối hận về sau. Người ta thường nói “tình làng nghĩa xóm”
lúc “tắt lửa tối đèn” là để nhấn mạnh “cái tình”, chứ ít ai đưa “cái lý” ra làm thước đo con người.
Tuy nhiên, cũng vì trọng tình hơn lý nên trong một số trươờng hợp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
người dân Việt. Vì không giải quyết theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen: Người
càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai
lè lè, không còn cách nào khác, người đứng ra bênh vực bảo: “Anh này cũng đúng, anh kia cũng
chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”.
Tiếp theo, vì trọng tình cảm nên trong giao tiếp, người Việt có cách xưng hô theo quan
hệ thân tộc, coi mọi người trong cộng đông như bà con họ hàng: cô, bác, chú, dì, cháu, con... Ngoài
ra, trong quan hệ ứng xứ, người Việt coi trọng danh dự, danh tiếng hơn là giá trị vật chất
(Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp;
Trâu chết để da, người ta chết để tiếng...). Vì coi trọng danh dự nên nghi thức lời nói trong giao tiếp
cũng thể hiện tính tôn ti, thứ bậc. Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian
nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong
khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp
mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối….
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt thường mắc bệnh sĩ diện “ở đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “đem chuông đi đánh nước người, không kêu
cũng đánh ba hồi lấy danh”; “một quan tiền công không bằng một đồng tiến thưởng”;.. Vì trọng
danh dự và sĩ diện nên người Việt rất sợ dư luận, bởi vậy, dư luận trở thành một thứ vũ khí lợi hại,
một sợi dây vô hình để ràng buộc cá nhân với cộng đồng, nhờ đó mà duy trì sự ổn định của làng xã.
Khi giao tiếp, người Việt thường có thói quen giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong
giao tiếp, không đi thắng vào vấn đề cần nói, mà thường hay mở đầu “vòng vo tam quốc" để đưa
đẩy, tạo không khí thân mật và thăm dò thái độ của đối tượng giao tiếp. Chính sự đắn đo cân nhắc
này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán,
và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay
cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể
gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Do giữ ý nên trong cách thức giao tiếp,
người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Người Việt thường không biểu lộ trực tiếp
cảm úc của mình với đối tượng giao tiếp mà thông qua các câu ca dao, thành ngữ, thơ ca thường
dùng hinh tượng ẩn dụ, bóng gió “tram dâu đổ một đầu tằm”; “tưởng giếng nước sâu nối sợi gàu
dài, ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây”;... Thái độ giữ ý trong giao tiếp dẫn đến tâm lý nhường nhịn,
cả nể, sợ mất lòng người đối thoại “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lơi mà nói cho vừa long nhau; lO M oARcPSD| 45467232 16
“Một sự nhịn, chin sự lành”;… Và hệ quả của việc giữ ý, cả nề dẫn đến thái độ đắn đo, cân nhắc
thái quá, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp “người khôn ăn nói nửa chừng, để cho ngưrời dại nửa
mừng nửa lo; “uốn lưỡi ba lần trước khi nói...). Chính thói quen ứng xử nặng tinh cảm hơn lý trí và
thái độ giữ ý, cả nể, thiếu tính quyết đoán trong giao tiếp đã khiến cho ngươi Việt không dám thẳng
thắn bày tỏ quan điểm trái chiều, cũng như không dám quyết liệt trong đấu tranh chống lại cái xấu,
cái ác, cái tiêu cực để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến thái
độ ứng xử tiêu cực với pháp luật.
Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người
diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm nên nét đẹp và là
chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Vì vậy, mỗi nét đặc trưng văn hóa ứng xử giao
tiếp Việt Nam đều quan trọng như nhau tạo nên một nền văn hóa ứng xử muôn màu, phong phú
thấm đẫm tình người của người Việt. Nếu xét đến những ảnh hưởng tiêu cực mà các đặc trưng văn
hóa ứng xử giao tiếp đem lại thì vạn vật tất yếu đêu phải có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hai
yếu tố này luôn song hành cùng nhau như ánh sáng và bóng tối, nếu không có ánh sáng thì không
thể nhận diện được bóng tối sẽ như thế nào. Vì lẽ đó nên nhờ những tác động tiêu cực này mà có
thể thông qua đó phát triển hơn, hoàn thiện hơn, tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các đặc trưng
văn hóa ứng xử giao tiếp nói riêng cũng như bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Câu 9: Hãy trình bày các đặc điểm của gia đình Việt Nam truyền thống, qua đó chỉ ra vai
trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cá nhân.
Văn hoá gia đình truyền thống Việt Nam là toàn bộ những giá trị, chuẩn mực truyền
thống của gia đình Việt Nam trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối quan hệ
giữa gia đình với xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn
liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội. Đó là những giá trị được
kết tinh của kiểu gia đình truyền thống Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với nền văn hoá
nông nghiệp lúa nước và cốt lõi quan hệ văn hoá gia đình Nho giáo phương Đông. Do sự chi phối
của phương thức sản xuất nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa gia đình Việt Nam truyền
thống có các đặc điểm sau:
Từ lâu truyền thống Việt Nam đã dành cho gia đình một chỗ đứng quan trọng không chỉ
trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc đào tạo con người nữa. Truyền thống
văn hóa Việt Nam coi gia đình là con đường phải qua nếu các cá nhân muốn thành đạt và được kính
trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu trong quan niệm thăng tiến xã hôi của con người Việt
Nam: muốn ổn định thiên hạ thì phải có khả năng trị quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là
phải tề gia. Phần quan trọng nhất trong văn hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo lO M oARcPSD| 45467232 17
là con đường dẫn từ khởi điểm tới đích điểm. Gia đạo chính là những nguyên tắc cơ bản và ổn định,
những bổn phận phải làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây chính là cái khung
tiêu chuẩn của đạo lý con người. Những điều nầy được chỉ dạy cho mọi thành viên trong gia đình.
Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta gọi là người có gia giáo. Một cách đơn giản,
gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết ở trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làng nước. Thường những lời
chỉ dạy nầy xuất phát từ kinh nghiệm sống của người trước về cách cư xử, phép tắc, thói tục; các
kinh nghiệm này đã được xã hội hóa. Người lớn trong gia đình đóng vai trò làm gương sáng, chỉ
dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có nề nếp, tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.
Văn hóa gia đình Việt Nam do sự chi phối khi trải qua hàng ngàn năm lịch sử gắn với
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước nên mang tính cộng đồng và lối sống trọng tình. Mỗi gia đình
thường có ba, bốn thế hệ cùng chung sống trong một nhà (tam đại, tứ đại đồng đường), vì vậy các
thành viên trong gia đình rất gắn bó, yêu thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau (Trẻ cậy cha, già
cậy con; Con dại cái mang; Tay đứt ruột xót; Chị ngã em nâng; Anh em như thể tay chân...). Vừa
đề cao tính cộng đồng (tức địa vị chi phối tuyệt đối của tập thể gia đình đối với mỗi thành viên),
tinh thần vì lợi ích chung, vừa coi trọng đúng mức vai trò cá nhân; vừa coi trọng tập thể gia đình;
vừa tôn trọng giới hạn tự do cá nhân. Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy tính cộng đồng, tính tập thể thường
lấn át, tới mức, người phương Tây cho rằng ở gia đình Việt có một "chủ nghĩa cộng đồng".
Người Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên và vạn
vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc đa, tàn lá, được
bảo bọc che chở bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm sự nương tựa vào thiên nhiên, đất
trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình, trong nhà ngoài ngõ, nơi sông núi và ngoài đại dương
luôn có những lực lượng thần thiêng chi phối cuộc sống và an sinh của mình. Tình cảm tín ngưỡng
nầy đã ăn sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các lễ nghi cúng vái thờ thần luôn được thể hiện
trong cuộc sống gia đình và làng nước. Tin vào lẽ phải thiêng liêng và đó là lẽ trời luôn thúc giục
người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều thiện được phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo trừng phạt
“Ai ơi, chớ ở đầy vơi. Trời cao không phụ lòng người hiếu trung.” Người thành công trong công ăn
việc làm, cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc trời, ân đất. Quan điểm về
phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam: “trời cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ông bà cha mẹ nữa, “Cây xanh thì lá cũng xanh.
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.”
Tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền do sự ảnh hưởng cốt lõi quan hệ văn hoá gia đình
Nho giáo phương Đông nên con cái mang họ bố; người bổ có quyền uy tuyệt đổi và chịu trách
nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt (Phu xướng phụ tùy; Cha mẹ đặt đầu con ngồi đấy); con trai
đưoc thừa kể tài sản và có nhiệm vụ thở cúng tổ tiên. lO M oARcPSD| 45467232 18
Xã hội Việt Nam thời phong kiến, hiển nhiên chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng phong
kiến, phụ hệ của đạo Nho yêu cầu phụ nữ phải tam tòng tư đức, chấp nhận gia đình đa thê, "trai
chính chuyên 5 thê 7 thiếp gái chính chuyên chỉ biết 1 chồng"...,Quan niệm gia đình đông con là
phúc đức của ông bà, cũng đã xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con là để có
người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
Tư tưởng Nho giáo và chế độ gia đình phụ quyền là nguyên nhân của quan niệm trọng
nam khinh nữ (nam tôn nữ ti, Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Đây là nguyên nhân gây ra nhiều
thiệt thòi và bi kịch cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong thời kỳ phong kiến, lúc
bấy giờ quyền của người đàn ông là vô hạn. Từ quyền phân công lao động, cho đến quyền quyết
định mọi vấn đề, biến những thành viên khác trong gia đình thành kẻ phụ thuộc, thậm chí thành nô
lệ. Người đàn ông có quyền đánh đập. “bán vợ, đợ con”, xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng. Người
đàn ông nắm quyền lực chính trong gia đình. Vị thế người phụ nữ dần bị xem nhẹ, dù cho vai trò
của họ vẫn là không thể phủ nhận đối với gia đình và xã hội. Vai trò:
Cho đến nay, vai trò của gia đình vẫn là một thiết chế xã hội tồn tại mang tính bền vững,
gia đình luôn là tổ ấm, mái ấm tình thương cho mỗi con người người từ khi cất tiếc khóc chào đời
đến khi mất đi. Ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì gia đình vẫn luôn là nhân tố tích cực thúc đẩy
sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình đó là: Tái
tạo sản xuất ra con người; tái tạo sức lao động, sản xuất ra của cải vật chất và cũng là nơi gìn giữ
và phát huy giá trị tinh thần cao qúy của dân tộc; là tổ ấm đem lại hạnh phúc, yêu thương, chia sẻ
vui buồn, luôn đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho mỗi con người. Bên cạnh vai trò
đó, gia đình còn là môi trường sống, môi trường giáo dục đầu tiên để mỗi cá nhân hình thành, hoàn thiện nhân cách.
Vai trò giáo dục trong gia đình giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân
cách con người, kết hợp giáo dục từ nhà trường và xã hội. Mỗi cá nhân, từ khi lọt lòng mẹ đến khi
trưởng thành, chúng ta được dạy từ lời ăn, tiếng nói, từ cách ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị
em, với cộng đồng thế nào cho đúng, cho lễ phép. Khi bước chân vào cánh cửa nhà trường, môi
trường giáo dục nhà trường, bên cạnh việc dạy chúng ta kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật thì
giáo dục đạo đức, lối sống vẫn là nội dung quan trọng để mỗi cá nhân hình thành nhân cách. Trong
môi trường giáo dục, khẩu hiệu mà chúng ta thường gặp đó là: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Một cá
nhân trước tiên phải có nhân cách tốt, có đạo đức, làm điều thiện, biết chăm lo cho bản thân, gia
đình và rộng hơn phải biết thương yêu đồng loại; biết ứng xử làm sao cho văn hóa, văn minh nơi
công cộng. Nói về đức và tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, bởi vậy, đạo đức mỗi con người luôn được
đề cao, là cái trước tiên, là thước đi, là tiêu chí quan trọng để đánh giá một con người. lO M oARcPSD| 45467232 19
Trong gia đình Việt Nam thường tồn tại nhiều thế hệ, có mối liên hệ mật thiết với nhau, ở
đó các cá nhân không ngừng học tập, hoàn thiện chính mình. Nhiều cá nhân tốt sẽ thành gia đình
tốt. Với ý nghĩa là môi trường văn hóa đầu tiên, gia đình hay văn hóa gia đình là giá trị cốt lõi của
văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù gắn liền với những
điều kiện cụ thể của tự nhiên, xã hội. Văn hóa gia đình được hình thành từ việc tổ chức cuộc sống
có nền nếp, trật tự, gia phong, mà ở đó là môi trường đầu tiên cho việc dạy điều hay, lẽ phải, ứng
xử văn hóa, giao tiếp lịch sự của mỗi cá nhân… Ở gia đình, mỗi thành viên vừa là người thầy, vừa
là trò. Thông qua giáo dục gia đình, các thế hệ đi trước truyền thụ cho thế hệ trẻ những giá trị văn
hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên giá trị xã hội và nhân cách văn hóa của mỗi con người. Ở xã
hội đương đại, bình đẳng xã hội được đề cao, việc áp đặt của người lớn với trẻ nhỏ, hay người có
vai vế thấp trong gia đình không còn như trước, bởi vậy mối quan hệ tương tác qua lại trong giáo
dục gia đình ngày càng một hoàn thiện. Bên cạnh việc giáo dục thế hệ trẻ, người lớn biết lắng nghe,
học tập và hoàn thiện chính mình. Trong chủ trương xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, tiêu chí
một gia đình văn hóa phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản, đó là: Gương mẫu chấp hành chủ trương,
chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa
phương nơi cư trú; Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; Tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng
đồng; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu
quả. Gia đình văn hóa biểu hiện ở mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm quan
tâm, chắm sóc giữa các thành viên. Từ các tiêu chí đó, văn hoá gia đình chính là mấu chốt để hình
thành, gìn giữ và phát triển, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Câu 10: Hãy trình bày các đặc trưng của văn hóa làng và ảnh hưởng của nó đến thói quen,
lối sống, cách tư duy, ứng xử của người Việt (ảnh hưởng đến pháp luật). Sưu tầm những câu
thành ngữ, tục ngữ nói về văn hóa làng của người Việt.
Nghiên cứu về văn hóa làng Việt truyền thống - một trong những đặc trưng độc đáo làm
nên bản sắc của văn hóa truyển thống Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã cùng gặp nhau khi khái
quát hai đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng, đó là tính cộng đồng và tính tự trị.
Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng đồng
như là một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên kết, gắn bó chặt chẽ giữa
các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với nhau. Về cơ sở hình thành của tính cộng
đồng, tính cộng đồng được hình thành trên nền tảng của hai mối quan hệ: láng giềng và huyết thống.
Quan hệ láng giềng do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi phải định cư, người Việt
đã sống quần tụ thành cộng đồng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng gắn bó như việc Việt
Nam thúc đẩy hợp tác giữa các nước làng giềng mê công; “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.