Phân tích về các thực trạng của ngành dệt may ở Việt Nam | Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác – Lênin Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Dệt may là ngành công nghiệp trọng điểm tại Việt Nam, với 2,6 triệu lao động,ngành đang giải quyết gần 5% tổng số lao động cả nước và đóng góp 12,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam. Là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ bavới giá trị gần gấp đôi giá trị xuất khẩu hàng nông sản, dệt may có đóng góp quantrọng cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

KINH TE CHINH TRI
I. Tính cấp thiết của đề tài
Dệt may là ngành công nghiệp trọng điểm tại Việt Nam, với 2,6 triệu lao
động,ngành đang giải quyết gần 5% tổng số lao động cả nước và đóng góp
12,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam. Là mặt hàng
xuất khẩu chủ lực thứ bavới giá trị gần gấp đôi giá trị xuất khẩu hàng nông sản,
dệt may có đóng góp quantrọng cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Ngành dệt
may không chỉ tạo việc làm chomột số lượng lớn lao động, tăng thu lợi nhuận,
góp phần nâng cao mức sống, tăng giátrị sản xuất mà còn là một trong các mặt
hàng chủ lực của Việt Nam trong xu thế hộinhập ra chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bằng chứng là các hiệp định vừa ký kết với các tổchức khu vực như Hiệp định
EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU)hay CPTPP (Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương)... đã mởra nhiều cơ hội
cho ngành dệt may Việt Nam phát triển.Tuy nhiên, ngành dệt may cũng tồn
đọng nhiều vấn đề cấp thiết cần được giảiquyết như về nguồn cung nguyên
liệu, lao động sản xuất, đầu ra cho sản phẩm hànghóa…không chỉ vậy, đại dịch
COVID-19 xuất hiện đã khiến ngành dệt may gặp rấtnhiều khó khăn. Lần đầu
tiên tất cả các mặt hàng xuất khẩu của ngành dệt may đều bịsuy giảm. Tất cả
tạo nên một thực trạng u ám cho ngành dệt may Việt Nam trong vàinăm gần
đây. Chính vì lẽ đó, nhóm chúng tôi đã quyết định sẽ làm một bài phân tích3
về các thực trạng của ngành dệt may ở Việt Nam từ đó đưa ra các giải pháp cấp
thiếtcho ngành dệt may trong tình hình hiện nay. ( copy ở
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-nghe-thanh-pho-
ho-chi-minh/kinh-te-chinh-tri/l1913-btl-ktct-dhbk/35290669)
Ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong tăng
trưởng của nền kinh tế.Dệt May là ngành có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ
tăng trưởng cao và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, giữ vai
trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 12 - 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2018 đã đạt trên
36 tỷ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây là lần đầu
tiên Việt Nam đứng thứ hai thế giới về quy mô xuất khẩu hàng dệt may. ngành
Dệt May hiện sử dụng khoảng 3 triệu lao động công nghiệp, chiếm tỷ trọng
trên 10% so với lao động công nghiệp cả nước.
Trong những năm gần đây được đánh giá đã những bước
tiến tích cực cả về sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, tốc độ tăng
trưởng trong sản xuất của ngành Dệt May bình quân giai đoạn
2016 - 2020 đạt 7,9%/năm, riêng năm 2018 tăng trên 33%.
Năm 2020, ngành Dệt May một trong những ngành chu
nhiều tác động tiêu cực và kéo dài của đại dch Covid-19.
Do ảnh hưởng từ đại dch Covid-19, nên chỉ số sản xuất công
nghiệp ngành Dệt giảm 0,5%; ngành Sản xuất trang phục giảm
4,9%, làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp th trường
tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may
giảm sút mạnh khi người tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm
đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống dch. Để khắc phục khó
khăn, đắp cho các đơn hàng b đứt gãy trong mua dch
bệnh, ngành Dệt May đã tăng sản xuất các sản phẩm bảo hộ,
sản phẩm y tế, khẩu trang (cả nội đa nước ngoài) do nhu
cầu sử dụng tăng, tuy nhiên Ngành cần phải tìm cách tồn tại,
phát triển phù hợp lâu dài trong bối cảnh mới.
Trong 9 tháng năm 2021, ngành Dệt May đã nhiều tín hiệu
khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước nhờ chuỗi sản xuất phục
hồi với đơn hàng truyền thống tăng trở lại. Chỉ số sản xuất
ngành Dệt Sản xuất trang phục trong 9 tháng năm 2021
đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong đó, chỉ số sản xuất
ngành Dệt tăng 7,8%; ngành Sản xuất trang phục tăng 4,8%.
Chỉ số sản xuất của một số sản phẩm trong 9 tháng năm 2021
đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, như: vải dệt từ sợi tự nhiên
ước tính đạt 501,5 triệu m2, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm
2020; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp sợi nhân tạo đạt
860,4 triệu m2, tăng 4,9%; quần áo mặc thường đạt 3.411,2
triệu cái, tăng 4,5%.
Đáng chú ý, so với cùng thời điểm trước đại dch (9 tháng đầu
năm 2019), sản xuất vải dệt từ sợi tự nhiên của Việt Nam tăng
5,4%; trái lại, sản xuất vải dệt từ sợi nhân tạo hoặc tổng hợp
và sản xuất trang phục giảm lần lượt là 2,4% và 10%. Cùng với
sản xuất, xuất khẩu toàn ngành Dệt, May mặc của Việt Nam
cũng đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong những năm gần
đây.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, xuất khẩu toàn ngành Dệt May
tăng trưởng bình quân 5,6%/năm. Riêng năm 2020, do ảnh
hưởng của đại dch Covid-19 trên toàn cầu khiến xuất khẩu của
toàn Ngành giảm khoảng 10% so với năm 2019. Những tháng
đầu năm 2021, th trường dệt may toàn cầu xu hướng hồi
phục bởi các gói hỗ trợ về kinh tế và thông tin tích cực về triển
khai vắc xin phòng dch Covid-19; nhu cầu các mặt hàng nói
chung và may mặc nói riêng đã phần nào hồi phục trở lại. Việc
chuyển dch đơn hàng từ c quốc gia cạnh tranh, đặc biệt
từ Myanma giúp cho Việt Nam đón nhận một lượng đơn hàng
đột biến ngay từ quý I/2021. Ngoài ra, trong năm 2021, các
doanh nghiệp dệt may không gặp phải vấn đề nguồn nguyên
liệu b đứt gãy như trong những tháng đầu năm 2020. Đơn
hàng dồi dào, kết hợp với những lợi thế trên th trường xuất
khẩu đã giúp Dệt May Việt Nam dần hồi phục, với kim ngạch
xuất khẩu tăng trưởng theo từng tháng cho đến giữa năm
2021.
Dch Covid-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu
của ngành Dệt May, tuy vậy, đây chỉ sự gián đoạn trong
ngắn hạn, dự báo, xuất khẩu toàn ngành Dệt May sẽ lấy lại đà
tăng trưởng trong năm 2022.
Nhìn tổng thể về tình hình xuất khẩu ngành Dệt May trong
những năm gần đây thấy rằng, tăng trưởng trong xuất khẩu
của Ngành biến động theo xu hướng xuất khẩu chung của cả
nước. Đáng chú ý, trong bối cảnh chu nhiều ảnh hưởng tiêu
cực từ dch bệnh Covid-19, nhưng xuất khẩu toàn ngành Dệt
May vẫn cho thấy sự tăng trưởng nhảy vọt trong 9 tháng năm
2021 (tăng trưởng hình chữ V). được kết quả trên do
ngành Dệt May Việt Nam đã đang nỗ lực không ngừng để
bắt kp với xu hướng thế giới. Trong đó, nổi bật nhất sự chủ
động của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đã chủ động nâng cao
năng lực sản xuất; nâng cao trình độ tay nghề; chuyển hướng
sản xuất từ hình thức chỉ nhận gia công sang hình thức tự chủ
nguồn nguyên liệu, tự thiết kế hoàn thành sản phẩm. Đặc
biệt, việc các doanh nghiệp tiếp tục đầu vào thiết b, công
nghệ tự động hóa cũng một trong những yếu tố góp phần
tạo nền tảng để ngành Dệt May chống chu được những áp lực
của th trường về chất lượng, về điều kiện cần phải giao hàng
nhanh,…
Để đạt được những thành tựu đáng khích lệ như trên, ngành
Dệt May đã tận dụng được lợi thế lao động dồi dào, có kỹ năng
tay nghề, cùng v trí đa thuận lợi để thu hút đầu nước
ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian tới, ngành Dệt May Việt Nam
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó lợi thế về lao
động dồi dào chi phí lao động thấp sẽ giảm dần. Dưới tác
động của cuộc CMCN 4.0, ngành Dệt May Việt Nam cần phải
đổi mới công nghệ, xây dựng chiến lược đào tạo, chuyển đổi
nguồn nhân lực chất lượng cao một cách kp thời.
Sản xuất dệt may một trong những ngành công nghiệp chu
nhiều thách thức nhất từ cuộc CMCN 4.0 do sử dụng nhiều lao
động. Theo đó, áp dụng CMCN 4.0, tự động hóa sẽ được kết nối
trên nền tảng internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây,
công nghệ sản xuất in 3D, phân tích dữ liệu lớn trí thông
minh nhân tạo sẽ dần dần thay thế người lao động trong các
dây chuyền sản xuất trong nhà máy trong toàn bộ chuỗi
cung ứng sản phẩm dệt may. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội
nhập, xu thế sử dụng sản phẩm xanh, vật liệu nano, vật liệu có
tính năng đặc biệt ngày càng phổ biến trên thế giới. Do đó,
công nghệ sản xuất của ngành Sợi, Dệt, Nhuộm phải đáp ứng
xu thế này thì mới đơn hàng. Ngoài ra, xu thế sử dụng thiết
b dệt may được số hóa, tự động hóa, đặc biệt trong lĩnh vực
sản xuất sợi, dệt, nhuộm và may cơ bản (nhà máy thông minh,
in 3D, dệt 3D),… cũng sẽ phải theo xu thế này để kết nối minh
bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Thống kê cho thấy, trên 70% doanh nghiệp trong ngành Dệt
May Việt Nam quy nhỏ trung bình, nên s rất khó
khăn trong việc đầu tư, ứng dụng công nghệ mới. Chỉ 30%
doanh nghiệp, gồm doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài
doanh nghiệp lớn trong nước đã ứng dụng tự động hóa theo
từng công đoạn sản xuất, trong đó dưới 5% kế hoạch triển
khai công nghệ tự động hóa kết nối. Qua khảo sát thực tế cho
thấy, việc đáp ứng các yêu cầu của CMCN 4.0 đang những
thách thức rất lớn cho doanh nghiệp dệt may trong nước, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ vừa. Bên cạnh đó, trình độ
nhân lực của các doanh nghiệp Dệt May còn thấp (với 84,4%
lao động trình độ phổ thông), trong khi lao độngtrình độ
đại học chỉ chiếm 0,1%,...
Ngoài ra, trước bối cảnh hội nhập diễn biến phức tạp của
tình hình dch bệnh Covid-19, phương thức đặt hàng tự động
trên nền tảng trí tuệ nhân tạo và robot sẽ được ứng dụng rộng
rãi trong khâu kết nối doanh nghiệp với khách hàng. Thương
mại điện tử cũng sẽ kênh bán hàng được phát triển rộng rãi
trong nhiều khâu của chuỗi cung ứng trong ngành Sợi, đặc biệt
khâu bán hàng,… Điều đó càng đòi hỏi các doanh nghiệp
Dệt May cần phải thường xuyên cập nhật tình hình về công
nghệ của thế giới để thể tiếp cận với công nghệ hiện đại
đnh hướng đầu đúng đắn, tránh tình trạng công nghệ
sản xuất của Việt Nam b mất khả năng cạnh tranh do lạc hậu.
Bên cạnh đó, cần sự chuẩn b cả nguồn lực về vốn, th
trường để ứng dụng từng phần CMCN 4.0 trong quá trình đầu
tư, sản xuất mới. Nếu các doanh nghiệp vẫn giữ nguyên
hình hoạt động, chất lượng nhân công công nghệ lạc hậu
như hiện nay, thì trong dài hạn, việc khủng hoảng thừa lao
động sẽ trở thành vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, cần
kế hoạch giải quyết lao động dư thừa, xây dựng chiến lược đào
tạo, chuyển đổi nguồn nhân lực chất lượng cao một cách kp
thời. Điều này không chỉ làm giảm bớt những nguy biến
động lao động, mà còn giúp tăng quy mô ngành Dệt May cả về
năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu.
Chính phủ đã giao cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam tiến hành
nghiên cứu chuyên sâu về tác động của cuộc CMCN 4.0 đối với
sự phát triển của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam. Để
dữ liệu nghiên cứu, phân tích, nhóm khảo sát đã tổ chức cuộc
khảo sát thử nghiệm đối với khoảng 300 doanh nghiệp Dệt May
trên khắp cả nước, trong đó khảo sát trực tiếp tại hơn 100
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khảo sát được chia thành 4
nhóm ngành, trong đó doanh nghiệp Sợi chiếm 29%, doanh
nghiệp Dệt chiếm 16%, doanh nghiệp Nhuộm chiếm 18%
doanh nghiệp May chiếm 37%. Về cơ cấu theo loại hình sở hữu,
có 58% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước, 18% số
doanh nghiệp có vốn nhà nước và 24% số doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Nhóm khảo sát đã tham khảo phương pháp VDMA (Verband
Deutscher Maschinen - und Anlagenbau) của Hiệp hội Kỹ thuật
khí Đức, để sự điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình
thực tế tại Việt Nam, tập trung phân tích dựa trên các yếu tố:
1) Hệ thống quản tr thông minh; 2) Máy móc thiết b thông
minh; 3) Quản chuỗi cung ứng dựa trên nền tảng dữ liệu; 4)
Người lao động; 5) Hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D).
Bên cạnh đó, nhóm khảo sát cũng đưa ra các câu hỏi để đánh
giá về nhận thức mức độ chuẩn b cho CMCN 4.0 của các
doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, về
độ sẵn sàng và mức độ công nghệ phù hợp nhất với CMCN 4.0,
các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam được khảo sát hiện chỉ
mức điểm trung bình 2,59 trên thang điểm 5 của khảo sát.
Trong đó:
- Về mức độ tự động hóa, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam
hiện mới dừng trình độ tự động hóa thiết b mức thấp. Cụ
thể, ngành Sợi đang mức cao nhất đạt 3,3 điểm, tiếp đến
ngành Nhuộm với 2,9 điểm, ngành May đạt 2,7 điểm thấp
nhất là ngành Dệt đạt 2,2 điểm.
- Về mức độ sẵn sàng, ngành Sợi đang mức cao nhất 3,02
điểm, tiếp đến ngành May 2,85 điểm, ngành Nhuộm 2,3
điểm và thấp nhất là ngành Dệt 2,2 điểm.
- Về hệ thống quản tr, ngành May mức điểm cao nhất với
3,11 điểm, tiếp đó ngành Nhuộm 2,83 điểm, ngành Sợi 2,61
điểm và ngành Dệt đứng cuối nhóm với 2,46 điểm.
Điểm “nghẽn khó nhất của các doanh nghiệp Dệt May Việt
Nam đó là chi phí cho R&D thấp, gần như không có, do tỷ suất
lợi nhuận thấp, tích lũy quy còn nhỏ. Theo kết quả khảo
sát, các doanh nghiệp May Việt Nam dành ngân sách hằng
năm cho hoạt động R&D, nhưng tỷ lệ chưa cao.
Như vậy, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chưa hoàn
toàn sẵn sàng cho việc đầu bài bản theo xu hướng CMCN
4.0. Khó khăn nhất chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quy mô
vừa nhỏ, tiềm lực kinh tế thấp (bài toán về vốn). Trong khi
đó, để phát triển theo kp xu hướng CMCN 4.0, đòi hỏi vốn lớn,
lãi phải trả cho chi phí đầu cao, khấu hao thiết b cũng cao.
Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư vào máy
móc, thiết b tự động hóa các giải pháp tăng năng suất cục
bộ, chủ yếu để đắp thiếu hụt về lao động. Trong dài hạn,
các doanh nghiệp lớn, đặc biệt doanh nghiệp vốn đầu
nước ngoài, sẽ đầu quản tr theo hướng số hóa thiết b để
tiết giảm lao động, đối phó với nguồn cung lao động ngày càng
giảm.
| 1/6

Preview text:

KINH TE CHINH TRI
I. Tính cấp thiết của đề tài
Dệt may là ngành công nghiệp trọng điểm tại Việt Nam, với 2,6 triệu lao
động,ngành đang giải quyết gần 5% tổng số lao động cả nước và đóng góp
12,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam. Là mặt hàng
xuất khẩu chủ lực thứ bavới giá trị gần gấp đôi giá trị xuất khẩu hàng nông sản,
dệt may có đóng góp quantrọng cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Ngành dệt
may không chỉ tạo việc làm chomột số lượng lớn lao động, tăng thu lợi nhuận,
góp phần nâng cao mức sống, tăng giátrị sản xuất mà còn là một trong các mặt
hàng chủ lực của Việt Nam trong xu thế hộinhập ra chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bằng chứng là các hiệp định vừa ký kết với các tổchức khu vực như Hiệp định
EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU)hay CPTPP (Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương)... đã mởra nhiều cơ hội
cho ngành dệt may Việt Nam phát triển.Tuy nhiên, ngành dệt may cũng tồn
đọng nhiều vấn đề cấp thiết cần được giảiquyết như về nguồn cung nguyên
liệu, lao động sản xuất, đầu ra cho sản phẩm hànghóa…không chỉ vậy, đại dịch
COVID-19 xuất hiện đã khiến ngành dệt may gặp rấtnhiều khó khăn. Lần đầu
tiên tất cả các mặt hàng xuất khẩu của ngành dệt may đều bịsuy giảm. Tất cả
tạo nên một thực trạng u ám cho ngành dệt may Việt Nam trong vàinăm gần
đây. Chính vì lẽ đó, nhóm chúng tôi đã quyết định sẽ làm một bài phân tích3
về các thực trạng của ngành dệt may ở Việt Nam từ đó đưa ra các giải pháp cấp
thiếtcho ngành dệt may trong tình hình hiện nay. ( copy ở
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-nghe-thanh-pho-
ho-chi-minh/kinh-te-chinh-tri/l1913-btl-ktct-dhbk/35290669)
Ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong tăng
trưởng của nền kinh tế.Dệt May là ngành có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ
tăng trưởng cao và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, giữ vai
trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 12 - 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2018 đã đạt trên
36 tỷ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây là lần đầu
tiên Việt Nam đứng thứ hai thế giới về quy mô xuất khẩu hàng dệt may. ngành
Dệt May hiện sử dụng khoảng 3 triệu lao động công nghiệp, chiếm tỷ trọng
trên 10% so với lao động công nghiệp cả nước.
Trong những năm gần đây được đánh giá đã có những bước
tiến tích cực cả về sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, tốc độ tăng
trưởng trong sản xuất của ngành Dệt May bình quân giai đoạn
2016 - 2020 đạt 7,9%/năm, riêng năm 2018 tăng trên 33%.
Năm 2020, ngành Dệt May là một trong những ngành ch椃⌀u
nhiều tác động tiêu cực và kéo dài của đại d椃⌀ch Covid-19.
Do ảnh hưởng từ đại d椃⌀ch Covid-19, nên chỉ số sản xuất công
nghiệp ngành Dệt giảm 0,5%; ngành Sản xuất trang phục giảm
4,9%, làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp th椃⌀ trường
tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may
giảm sút mạnh khi người tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm
đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống d椃⌀ch. Để khắc phục khó
khăn, bù đắp cho các đơn hàng b椃⌀ đứt gãy trong mua d椃⌀ch
bệnh, ngành Dệt May đã tăng sản xuất các sản phẩm bảo hộ,
sản phẩm y tế, khẩu trang (cả nội đ椃⌀a và nước ngoài) do nhu
cầu sử dụng tăng, tuy nhiên Ngành cần phải tìm cách tồn tại,
phát triển phù hợp lâu dài trong bối cảnh mới.
Trong 9 tháng năm 2021, ngành Dệt May đã có nhiều tín hiệu
khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước nhờ chuỗi sản xuất phục
hồi với đơn hàng truyền thống tăng trở lại. Chỉ số sản xuất
ngành Dệt và Sản xuất trang phục trong 9 tháng năm 2021
đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong đó, chỉ số sản xuất
ngành Dệt tăng 7,8%; ngành Sản xuất trang phục tăng 4,8%.
Chỉ số sản xuất của một số sản phẩm trong 9 tháng năm 2021
đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, như: vải dệt từ sợi tự nhiên
ước tính đạt 501,5 triệu m2, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm
2020; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo đạt
860,4 triệu m2, tăng 4,9%; quần áo mặc thường đạt 3.411,2 triệu cái, tăng 4,5%.
Đáng chú ý, so với cùng thời điểm trước đại d椃⌀ch (9 tháng đầu
năm 2019), sản xuất vải dệt từ sợi tự nhiên của Việt Nam tăng
5,4%; trái lại, sản xuất vải dệt từ sợi nhân tạo hoặc tổng hợp
và sản xuất trang phục giảm lần lượt là 2,4% và 10%. Cùng với
sản xuất, xuất khẩu toàn ngành Dệt, May mặc của Việt Nam
cũng đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, xuất khẩu toàn ngành Dệt May
tăng trưởng bình quân 5,6%/năm. Riêng năm 2020, do ảnh
hưởng của đại d椃⌀ch Covid-19 trên toàn cầu khiến xuất khẩu của
toàn Ngành giảm khoảng 10% so với năm 2019. Những tháng
đầu năm 2021, th椃⌀ trường dệt may toàn cầu có xu hướng hồi
phục bởi các gói hỗ trợ về kinh tế và thông tin tích cực về triển
khai vắc xin phòng d椃⌀ch Covid-19; nhu cầu các mặt hàng nói
chung và may mặc nói riêng đã phần nào hồi phục trở lại. Việc
chuyển d椃⌀ch đơn hàng từ các quốc gia cạnh tranh, đặc biệt là
từ Myanma giúp cho Việt Nam đón nhận một lượng đơn hàng
đột biến ngay từ quý I/2021. Ngoài ra, trong năm 2021, các
doanh nghiệp dệt may không gặp phải vấn đề nguồn nguyên
liệu b椃⌀ đứt gãy như trong những tháng đầu năm 2020. Đơn
hàng dồi dào, kết hợp với những lợi thế trên th椃⌀ trường xuất
khẩu đã giúp Dệt May Việt Nam dần hồi phục, với kim ngạch
xuất khẩu tăng trưởng theo từng tháng cho đến giữa năm 2021.
D椃⌀ch Covid-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu
của ngành Dệt May, tuy vậy, đây là chỉ là sự gián đoạn trong
ngắn hạn, dự báo, xuất khẩu toàn ngành Dệt May sẽ lấy lại đà
tăng trưởng trong năm 2022.
Nhìn tổng thể về tình hình xuất khẩu ngành Dệt May trong
những năm gần đây thấy rằng, tăng trưởng trong xuất khẩu
của Ngành biến động theo xu hướng xuất khẩu chung của cả
nước. Đáng chú ý, trong bối cảnh ch椃⌀u nhiều ảnh hưởng tiêu
cực từ d椃⌀ch bệnh Covid-19, nhưng xuất khẩu toàn ngành Dệt
May vẫn cho thấy sự tăng trưởng nhảy vọt trong 9 tháng năm
2021 (tăng trưởng hình chữ V). Có được kết quả trên là do
ngành Dệt May Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để
bắt k椃⌀p với xu hướng thế giới. Trong đó, nổi bật nhất là sự chủ
động của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đã chủ động nâng cao
năng lực sản xuất; nâng cao trình độ tay nghề; chuyển hướng
sản xuất từ hình thức chỉ nhận gia công sang hình thức tự chủ
nguồn nguyên liệu, tự thiết kế và hoàn thành sản phẩm. Đặc
biệt, việc các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào thiết b椃⌀, công
nghệ tự động hóa cũng là một trong những yếu tố góp phần
tạo nền tảng để ngành Dệt May chống ch椃⌀u được những áp lực
của th椃⌀ trường về chất lượng, về điều kiện cần phải giao hàng nhanh,…
Để đạt được những thành tựu đáng khích lệ như trên, ngành
Dệt May đã tận dụng được lợi thế lao động dồi dào, có kỹ năng
và tay nghề, cùng v椃⌀ trí đ椃⌀a lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian tới, ngành Dệt May Việt Nam
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó lợi thế về lao
động dồi dào và chi phí lao động thấp sẽ giảm dần. Dưới tác
động của cuộc CMCN 4.0, ngành Dệt May Việt Nam cần phải
đổi mới công nghệ, xây dựng chiến lược đào tạo, chuyển đổi
nguồn nhân lực chất lượng cao một cách k椃⌀p thời.
Sản xuất dệt may là một trong những ngành công nghiệp ch椃⌀u
nhiều thách thức nhất từ cuộc CMCN 4.0 do sử dụng nhiều lao
động. Theo đó, áp dụng CMCN 4.0, tự động hóa sẽ được kết nối
trên nền tảng internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây,
công nghệ sản xuất in 3D, phân tích dữ liệu lớn và trí thông
minh nhân tạo sẽ dần dần thay thế người lao động trong các
dây chuyền sản xuất trong nhà máy và trong toàn bộ chuỗi
cung ứng sản phẩm dệt may. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội
nhập, xu thế sử dụng sản phẩm xanh, vật liệu nano, vật liệu có
tính năng đặc biệt ngày càng phổ biến trên thế giới. Do đó,
công nghệ sản xuất của ngành Sợi, Dệt, Nhuộm phải đáp ứng
xu thế này thì mới có đơn hàng. Ngoài ra, xu thế sử dụng thiết
b椃⌀ dệt may được số hóa, tự động hóa, đặc biệt trong lĩnh vực
sản xuất sợi, dệt, nhuộm và may cơ bản (nhà máy thông minh,
in 3D, dệt 3D),… cũng sẽ phải theo xu thế này để kết nối minh
bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Thống kê cho thấy, trên 70% doanh nghiệp trong ngành Dệt
May Việt Nam có quy mô nhỏ và trung bình, nên sẽ rất khó
khăn trong việc đầu tư, ứng dụng công nghệ mới. Chỉ có 30%
doanh nghiệp, gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp lớn trong nước đã ứng dụng tự động hóa theo
từng công đoạn sản xuất, trong đó dưới 5% có kế hoạch triển
khai công nghệ tự động hóa kết nối. Qua khảo sát thực tế cho
thấy, việc đáp ứng các yêu cầu của CMCN 4.0 đang là những
thách thức rất lớn cho doanh nghiệp dệt may trong nước, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, trình độ
nhân lực của các doanh nghiệp Dệt May còn thấp (với 84,4%
lao động có trình độ phổ thông), trong khi lao động có trình độ
đại học chỉ chiếm 0,1%,...
Ngoài ra, trước bối cảnh hội nhập và diễn biến phức tạp của
tình hình d椃⌀ch bệnh Covid-19, phương thức đặt hàng tự động
trên nền tảng trí tuệ nhân tạo và robot sẽ được ứng dụng rộng
rãi trong khâu kết nối doanh nghiệp với khách hàng. Thương
mại điện tử cũng sẽ là kênh bán hàng được phát triển rộng rãi
trong nhiều khâu của chuỗi cung ứng trong ngành Sợi, đặc biệt
là khâu bán hàng,… Điều đó càng đòi hỏi các doanh nghiệp
Dệt May cần phải thường xuyên cập nhật tình hình về công
nghệ của thế giới để có thể tiếp cận với công nghệ hiện đại và
có đ椃⌀nh hướng đầu tư đúng đắn, tránh tình trạng công nghệ
sản xuất của Việt Nam b椃⌀ mất khả năng cạnh tranh do lạc hậu.
Bên cạnh đó, cần có sự chuẩn b椃⌀ cả nguồn lực về vốn, th椃⌀
trường để ứng dụng từng phần CMCN 4.0 trong quá trình đầu
tư, sản xuất mới. Nếu các doanh nghiệp vẫn giữ nguyên mô
hình hoạt động, chất lượng nhân công và công nghệ lạc hậu
như hiện nay, thì trong dài hạn, việc khủng hoảng thừa lao
động sẽ trở thành vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, cần có
kế hoạch giải quyết lao động dư thừa, xây dựng chiến lược đào
tạo, chuyển đổi nguồn nhân lực chất lượng cao một cách k椃⌀p
thời. Điều này không chỉ làm giảm bớt những nguy cơ biến
động lao động, mà còn giúp tăng quy mô ngành Dệt May cả về
năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu.
Chính phủ đã giao cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam tiến hành
nghiên cứu chuyên sâu về tác động của cuộc CMCN 4.0 đối với
sự phát triển của ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam. Để có
dữ liệu nghiên cứu, phân tích, nhóm khảo sát đã tổ chức cuộc
khảo sát thử nghiệm đối với khoảng 300 doanh nghiệp Dệt May
trên khắp cả nước, trong đó khảo sát trực tiếp tại hơn 100
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khảo sát được chia thành 4
nhóm ngành, trong đó doanh nghiệp Sợi chiếm 29%, doanh
nghiệp Dệt chiếm 16%, doanh nghiệp Nhuộm chiếm 18% và
doanh nghiệp May chiếm 37%. Về cơ cấu theo loại hình sở hữu,
có 58% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước, 18% số
doanh nghiệp có vốn nhà nước và 24% số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhóm khảo sát đã tham khảo phương pháp VDMA (Verband
Deutscher Maschinen - und Anlagenbau) của Hiệp hội Kỹ thuật
cơ khí Đức, để có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình
thực tế tại Việt Nam, tập trung phân tích dựa trên các yếu tố:
1) Hệ thống quản tr椃⌀ thông minh; 2) Máy móc thiết b椃⌀ thông
minh; 3) Quản lý chuỗi cung ứng dựa trên nền tảng dữ liệu; 4)
Người lao động; 5) Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
Bên cạnh đó, nhóm khảo sát cũng đưa ra các câu hỏi để đánh
giá về nhận thức và mức độ chuẩn b椃⌀ cho CMCN 4.0 của các
doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, về
độ sẵn sàng và mức độ công nghệ phù hợp nhất với CMCN 4.0,
các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam được khảo sát hiện chỉ ở
mức điểm trung bình 2,59 trên thang điểm 5 của khảo sát. Trong đó:
- Về mức độ tự động hóa, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam
hiện mới dừng ở trình độ tự động hóa thiết b椃⌀ ở mức thấp. Cụ
thể, ngành Sợi đang ở mức cao nhất đạt 3,3 điểm, tiếp đến là
ngành Nhuộm với 2,9 điểm, ngành May đạt 2,7 điểm và thấp
nhất là ngành Dệt đạt 2,2 điểm.
- Về mức độ sẵn sàng, ngành Sợi đang ở mức cao nhất là 3,02
điểm, tiếp đến là ngành May 2,85 điểm, ngành Nhuộm 2,3
điểm và thấp nhất là ngành Dệt 2,2 điểm.
- Về hệ thống quản tr椃⌀, ngành May có mức điểm cao nhất với
3,11 điểm, tiếp đó là ngành Nhuộm 2,83 điểm, ngành Sợi 2,61
điểm và ngành Dệt đứng cuối nhóm với 2,46 điểm.
Điểm “nghẽn” khó nhất của các doanh nghiệp Dệt May Việt
Nam đó là chi phí cho R&D thấp, gần như không có, do tỷ suất
lợi nhuận thấp, tích lũy quy mô còn nhỏ. Theo kết quả khảo
sát, các doanh nghiệp May Việt Nam có dành ngân sách hằng
năm cho hoạt động R&D, nhưng tỷ lệ chưa cao.
Như vậy, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chưa hoàn
toàn sẵn sàng cho việc đầu tư bài bản theo xu hướng CMCN
4.0. Khó khăn nhất chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có quy mô
vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế thấp (bài toán về vốn). Trong khi
đó, để phát triển theo k椃⌀p xu hướng CMCN 4.0, đòi hỏi vốn lớn,
lãi phải trả cho chi phí đầu tư cao, khấu hao thiết b椃⌀ cũng cao.
Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư vào máy
móc, thiết b椃⌀ tự động hóa và các giải pháp tăng năng suất cục
bộ, chủ yếu để bù đắp thiếu hụt về lao động. Trong dài hạn,
các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, sẽ đầu tư quản tr椃⌀ theo hướng số hóa thiết b椃⌀ để
tiết giảm lao động, đối phó với nguồn cung lao động ngày càng giảm.