



Preview text:
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam   
người Ấn Độ, nhưng về sau lại thấy xuất hiện tên hiệu vị sư Trung Á và 
Trung Hoa. Có thể nói rằng, ngay từ thời rất xưa Việt nam đã đựơc cao tăng 
Ấn Độ đến để truyền Giáo trực tiếp. Trải qua các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, 
Trần… Đặc biệt là dưới 2 triều đại Lý và Trần, Phật Giáo đã để lại dấu ấn một 
thời vàng son. Từ thế kỉ thứ XIII tuy Phật Giáo không còn là quốc Giáo 
nhưng có sự kết hợp hài hòa với tinh thần “Tam Đạo Đồng Đường” đã tạo 
cho Phật Giáo một nét mới, vẫn để lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn, tình cảm, 
phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam. 
2.2 Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật Giáo 
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được 
viết thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “ Tam Tạng”, Gồm 
3 Tạng kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện 
các quan điểm về thế giới và con người. 
2.2.1 Quan Điểm của Phật Giáo về thế giới Quan 
Quan điểm về thế giới quan của Phật Giáo Được thể hiện tập trung ở 
nội dung của 3 cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên.  2.2.1.1 Vô ngã 
Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị 
thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa 2 yếu tố: “Sắc”  và “Danh”. 
Sắc: Là yếu tố vật chất, là cái thể cảm giác được. Còn “Danh”. Là yếu 
tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có có tên gọi. Chính cái “Danh” và 
“Sắc” đó hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn”: Sắc (vật chất), thụ (cảm 
giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy lý) và thức (ý thức). “Danh” và “Sắc” tác 
dộng qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ 
là tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó cũng không 
có cái gọi là “Tôi”.    Page 4   
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam    2.2.1.2 Vô thường 
Nghĩa là vạn vật biến đổi cùng theo chu trình bất tận: Sinh-Trụ-Dị-
Diệt. Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận, “thoáng có” - “thoáng 
không”, cái còn mà chẳng còn cái mất mà chẳng mất .
Đức Phật dạy, “tất cả những gì trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, 
đều là vô thường”. Vì vậy vô thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên 
trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái 
hình thành đến biến dị rồi tan rã. 
Vô thường của Đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, 
để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải 
là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân 
tâm cho đến hoàn cảnh. Hiệu lý vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, 
thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ.  2.2.1.3 Duyên 
Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. 
Phật Giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ 
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó 
duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ 
có duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành 
kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, 
tuân theo quy luật Nhân-Quả: nhân là cái mầm, Qủa là cái hạt, cái trái do 
mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào 
nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu hkông có quả thì 
không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Nói cách khác nhân với quả 
bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hể nhân đổi thì quả đổi. 
Một nhân không sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp 
của nhiều nhân duyên. Cho nên không có nhân nào tự tạo thành quả được nếu    Page 5   
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam   
không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác, trong nhân có quả, trong quả có 
nhân. Một sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng 
thái mà ta mong đợi, ước muốn. Mỗi vật vì thế điều có thể gọi là nhân hay là 
quả đều được cả. Đối với quá khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là  nhân. 
Sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ không 
phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất .
Tóm lại: Triết học Phật Giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần 
thánh sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật Giáo thừa nhận con người và sự 
vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới 
trong sự biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế 
giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng. 
2.2.2 Tư tưởng Phật Giáo về nhân sinh quan 
Quan điểm về nhân sinh quan của Phật Giáo bao gồm “Nghiệp”, 
thuyết “Tứ Diệu Đế” và “Ngũ giới”.  2.2.2.1 Nghiệp báo 
Là một định luật nhân quả trong vấn đề luân lý, hay như người 
phương tây thường nói là “ảnh hưởng của hành động”. Phật Giáo không nhìn 
nhận có một linh hồn trường cữu được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc 
đoán. Phật Giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên, không phải do một 
đấng thượng đế toàn năng hay một Đức Phật đại từ đại bi tạo nên. 
Theo lý nghiệp báo, chúng ta không nhất định trói buộc trong một 
hoàn cảnh nào, vì nghiệp báo không phải là số mạng cũng không phải là tiền 
định do một oai lực huyền bí nào đó định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. 
Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn. 
Nghiệp không nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà thôi. 
Nghiệp bao chùm qúa khứ và hiện tại là nơi trong quá khứ chúng ta hành    Page 6   
Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam   
động như thế nào và trong tương lai chúng ta sẽ là như thế nào cũng tùy nơi 
hành động chúng ta trong hiện tại. 
Tóm lại :tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi biến đổi của tâm lực và 
luôn luôn sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng mỗi khi có cơ hội. 
Nghiệp là năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Nghiệp 
thủ một vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính con người, nghiệp giải 
thích những hiện tượng mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng. 
2.2.2.2 Thuyết tứ Diệu đế 
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật Giáo thể hiện trong “Tứ Diệu Đế” 
được Phật Giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thông điệp tứ diệu đế được xem là 
một giải trình mà ở đó bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động, do đó con 
đường tu tập tứ đế không thể xét qua góc độ nhận thức mà vấn đề là mô thức  biện chứng của nó. 
Đức Phật trong quá trình đi tìm con đương giải thóat, những kinh 
nghiệm khổ đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm sâu sắc. Do đó 
thuyết tứ diệu đế được xem như một quá trình biện chứng thực tại ngay đời 
sống của người và cái đỉnh cao tận cùng ấy được Đức Phật giảng giải qua 
dạng của tứ đế trên cơ sở tương quan nhân quả, đây chính là bằng chứng thực 
tại mà Đức Phật đã đi qua. Vì thế nó không phải là mẫu thức lý tưởng, cũng 
không phải là bản sao chép từ những ý nịêm. 
Tứ Diệu Đế được Đức Phật giải minh thông qua bốn tiền đề triết học 
cơ bản: Tri ân thực tại, sự chuyển hướng tư duy, sự chuyển hướng 2 chiều,  giải trình tư duy.  2.2.2.2.1  Khổ đế 
Là thực trạng đau khổ của con người, triết lý về cuộc đời mỗi người là 
một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy, không tự do. Có tám cái khổ: Sinh, lão, bệnh ,    Page 7    
