lOMoARcPSD| 45474828
Tóm tắt: Trải qua gần 50 năm thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra cơ đồ và
vị thế mới trên trường quốc tế. Những thành tựu ấy gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng,
trong đó những phát triển sáng tạo về lý luận xây dựng và phát triển đất nước, nhất là
thời kỳ đổi mới, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đồng thời gắn liền với đấu tranh phản
bác các luận điệu xuyên tạc các vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
I. Khái quát nhận thức lý luận giai đoạn trước đổi mới (những năm 1976-1986)
1. Nhận thức về mục tiêu, đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh về mục tiêu của đất nước trong giai đoạn mới
là: xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa. Những nhiệm vụ trước mắt là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã
hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế,
văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở
vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Như vật, mục tiêu cách mạng Việt Nam là
xuyên suốt, tuy mỗi giai đoạn có điểm nhấn riêng.
Đường lối chung để đạt được mục tiêu đặt ra được Đại hội IV xác định là nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa), trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là
then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu…; xây
dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cơ bản theo
những định hướng phổ quát được xác định năm 1960 tại Đại hội các Đảng cộng sản và
công nhân ở Mát-xcơ-va, có những sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và
lOMoARcPSD| 45474828
môi trường phát triển chung của khu vực và thế giới. Mặc dù mô hình phát triển trong
giai đoạn 10 năm trước đổi mới vẫn trong khuôn khổ chế độ bao cấp, song những bước
chuyển nhận thức trên rất quan trọng, đặt nền tảng để có bước đổi mới quyết định tại
Đại hội VI của Đảng.
2. Nhận thức về các quy luật, các mối quan hệ
Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng xác định: “Đảng lãnh đạo Nhà nước
nhưng không làm thay Nhà nước. Phải thông qua hoạt động của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò chủ động và trí sáng tạo của nhân dân”.
Đến Đại hội V (năm 1981), cùng với việc khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược,
Đảng ta đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, Văn kiện Đại hội V của Đảng đã chỉ rõ: “… xét cho cùng là do chưa thực sự
nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
được phản ánh trong đường lối của Đảng”.
II. Giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến năm 2016
1. Nhận thức về thời kỳ quá độ, đặc trưng, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã
hội và các mối quan hệ lớn
Trước hết là, nhận thức về thời kỳ quá độ ngày càng rõ, hoàn thiện hơn. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)c định:
“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới
trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục khẳng định tinh thần Cương lĩnh năm 1991 và xác định, làm sáng tỏ hơn
về những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền ăn hóa, xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến độ, công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
lOMoARcPSD| 45474828
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, nhận thức ngày càng rõ hơn về đặc trưng và phương hướng cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội
VII thông qua đã xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các
Đại hội tiếp theo đều khẳng định và làm rõ, bổ sung thêm nội hàm của 6 đặc trưng.
Đặc biệt, đến Đại hội X và XI đã có những điều chỉnh, bổ sung, phát triển nhận thức lý
luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011 nêu rõ 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
xây dựng.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đã xác định rõ hơn các phương hướng cơ bản,
thể hiện trên các nội dung: 1-Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2-Phát
triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3-Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; 4-Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5-Thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp
mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng; 7-Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đặc biệt, đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng
ta đã nêu 8 phương hướng cơ bản, qua đó bổ sung sáng tỏ so với Cương lĩnh năm 1991
lOMoARcPSD| 45474828
về mô hình, mục tiêu; đồng thời, trong nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội nêu rõ và
cụ thể hơn, trong nội dung phương hướng thể hiện rõ 3 trụ cột: Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất
nước; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công cụ, phương tiện giải
phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu bảo đảm
quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Đây
là sự bổ sung sáng tạo mới của Đảng.
Thứ ba, về nhận thức các mối quan hệ lớn. Tại Đại hội VII, Đảng nêu những
kinh nghiệm bước đầu trong đổi mới, đề cập đến mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, mối
quan hệ giữa phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước… Có thể nói, đây là những bước phát triển nhận thức rất quan
trọng về các mối quan hệ, để tiến tới có sự khái quát rõ và ngày càng hệ thống, đầy đủ.
Tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011), nhận thức về các mối quan hệ có bước
phát triển mang tính hệ thống, khi lần đầu tiên 8 mối quan hệ lớn đã được đưa vào Văn
kiện và Nghị quyết của Đại hội, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.
2. Sự phát triển nhận thức lý luận trong các lĩnh vực chủ yếu
Thứ nhất, sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là đột phá lớn về lý luận. Khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng
và đã hoàn thiện hơn tại Đại hội XII của Đảng với việc khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng b
lOMoARcPSD| 45474828
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Đây
là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - -nin về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt những chỉ dẫn của V.I. Lê-nin trong Chính
sách kinh tế mới; đồng thời, xuất phát từ tổng kết thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của
Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới”
của Đảng.
Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những điều chỉnh cơ
bản. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), với đường lối đổi mới, Đảng ta xác định cần tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo và cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa với việc
thực hiện 3 chương trình: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đến năm 2020 là: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta xác định rõ đường lối công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo phương thức rút ngắn, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy
vọt. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là nhằm bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Quá trình này phải đi đôi với chủ động hội nhập quốc tế, kết
hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
lOMoARcPSD| 45474828
Tại Đại hội X (năm 2006), trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và trước bối
cảnh mới, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta xác định:
“… thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành
công nghiệp có lợi thế”.
Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có phát triển mới khi khẳng
định nền văn hóa Việt Nam hướng đến là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
(Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998). Đến Đại hội IX của Đảng
(tháng 4-2001), Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5 khóa VIII và xem: “Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội X của Đảng nêu quan
điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và yêu cầu “tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đã có bước phát triển, thể
hiện ở sự khẳng định bản chất của Đảng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - -nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối ngoại có nhiều đổi mới. Đảng
xác định việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Đây là quan điểm xuyên suốt,
nhất quán của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Cương lĩnh
lOMoARcPSD| 45474828
năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định cụ thể: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”
(16)
.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm: “Tăng cường quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là lực lượng nòng cốt”.
III. Bước phát triển mới về nhận thức từ năm 2016 tới nay
1. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Thứ nhất, có bước phát triển trong nhận thức về xác định mục tiêu phát triển đất
nước. Các đại hội Ðảng thời kỳ đổi mới đã xác định mục tiêu phát triển đất nước theo
cách tiếp cận về trình độ phát triển công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đại
hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm
2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến
năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Ðây là bước phát triển nhận thức rất
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội XIII của
Đảng đã có nhận thức rõ hơn về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
phấn đấu xây dựng trên một số khía cạnh như: 1- Đạt được một xã hội thịnh vượng, có
thu nhập thuộc nhóm trên của các nước thu nhập trung bình cao của thế giới. Nền kinh
tế thị trường có năng lực cạnh tranh cao, phát triển năng động, nhanh, bền vững, làm
chủ công nghệ và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nền kinh tế dựa trên cơ sở khoa
học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. 2- Một nhà nước pháp quyền, có cơ chế quản trị hiện
đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và bảo đảm trách nhiệm giải trình; tập
trung nhiều hơn quản trị phát triển và quản lý xã hội. 3- Một xã hội văn minh, hiện đại,
trong đó người dân được phát huy sức sáng tạo, khơi dậy được ý chí, khát vọng phát
triển, sức mạnh toàn dân tộc, có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương,
an toàn, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 4- Một môi
trường bền vững sẽ bảo vệ chất lượng không khí, đất và nguồn nước, tạo khả năng thích
lOMoARcPSD| 45474828
ứng và chống chịu nhằm giảm thiểu những rủi ro nghiêm trọng do biến đổi khí hậu;
hướng tới phát triển chủ yếu nguồn năng lượng đa dạng, sạch và an toàn.
2. Sự phát triển nhận thức mới trong các lĩnh vực chủ yếu
Thứ nhất, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
rõ và cụ thể hơn. Điểm mới ở đây là làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ hơn
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đề ra nhiều nhiệm vụ mới, nội dung mới để tiếp
tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong những năm tới. Một trong
những điểm mới trong quan điểm của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn này là: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai
trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế
thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng”.
Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng gắn với xu thế
phát triển chung. Nhận thức về công nghiệp hóa của Đảng luôn có sự điều chỉnh phù
hợp, sáng tạo trước biến động của các nguồn lực và bối cảnh tăng trưởng. Công nghiệp
hóa Việt Nam không chỉ là chuyển lao động chân tay sang lao động dựa trên máy móc
như quan niệm cổ điển, mà công nghiệp hóa đi liền hiện đại hóa và gắn với kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trên
cơ sở gắn với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế; bảo đảm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự kết hợp giữa nguồn lực bên
trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững; khoa học và công nghệ được xem là nền tảng và
động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được đẩy mạnh đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư
nhân đóng vai trò quan trọng; tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được triển khai
theo phương thức rút ngắn.
lOMoARcPSD| 45474828
Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có bổ sung mới, tạo môi trường
và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy tài năng, trí
tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam cho phát triển đất nước.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng có bước phát triển
nhận thức mới. Đó là bổ sung nhiệm vụ “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn cả
chỉnh đốn Đảng. Các nội dung xây dựng Đảng được phát triển cụ thể hơn phù hợp với
tình hình mới. Sau thời gian đất nước thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế, đã tác động đến đội ngũ đảng viên
công tác tổ chức xây dựng Đảng, tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức đã xuất hiện
trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặt ra yêu cầu mới. Do vậy, Đại hội XII
của Đảng chủ trương đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung,
nhiệm vụ. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Tiếp đó, tại Đại hội
XIII, Đảng đã nhấn mạnh hơn đến công tác tổ chức cán bộ và tách thành 2 nhiệm vụ:
xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong
những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đi liền với bước phát triển
nhận thức khi tách thành 5 nội dung trong tổng thể công tác xây dựng Đảng, Đảng ta
cũng đã chỉ rõ hơn trong nội dung từng nhiệm vụ. Đây là bước phát triển sáng tạo trong
nhận thức lý luận về nội dung công tác xây dựng Đảng, góp phần rất quan trọng cho
hoạt động xây dựng Đảng ngày càng có hiệu quả.
Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại cũng có những bổ sung
mới. Đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tại Đại hội XII, Đảng ta phát triển thêm,
bổ sung nội dung: ổn định chính trị, coi là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Đại hội
XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là nòng cốt”. Đây là căn cứ để xác định vị trí mối quan hệ và mức độ ưu tiên giải
quyết đối với từng lĩnh vực cụ thể.
lOMoARcPSD| 45474828
IV. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua, cuộc đấu tranh tư
tưởng, lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta diễn
ra trong bối cảnh và yêu cầu mới, mang tính phức tạp và quyết liệt hơn. Sự tan rã của
Liên Xô và sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu là cái cớ để các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị tung ra các quan điểm sai
trái, thù địch, phủ nhận sự đúng đắn, khách quan của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới
với tư cách là một học thuyết, một chế độ xã hội, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình” chống phá chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trên con đường dân tộc, nhân dân ta đi tới là đề tài để các thế lực thù địch
bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận bằng đủ các luận điệu sai trái, thù địch khác nhau. Hiện
nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của
truyền thông xã hội, internet toàn cầu, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những vấn đề nóng bỏng trước những tác động của an ninh truyền thống, an
ninh phi truyền thống, tác động tiêu cực của tình hình thế giới đến đời sống xã hội như:
Xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, tự do mới, dịch bệnh…,
các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động tăng cường hoạt động với những chiêu
thức, thủ đoạn mới chống phá chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch chống phá này, thể hiện ở số
vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xuyên tạc giá trị, tính khoa học, cách mạng của học thuyết Mác -
Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng về chủ nghĩa xã hội. Những chiêu bài mà chúng
đang sử dụng không mới, nhưng hết sức tinh vi và thâm độc, tập trung vào việc đưa ra
những lập luận, tuyên truyền, cổ vũ từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, làm lung lay, phủ
nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Để phủ định học thuyết Mác - Lênin, các thế
lực thù địch cho rằng, học thuyết Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX và phù hợp
trong một chừng mc nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phương Tây
thời đó. Lý luận này không còn phù hợp với thế kỷ XX và đặc biệt trong điều kiện ngày
lOMoARcPSD| 45474828
nay càng không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Từ đó, họ tuyên truyền xuyên tạc,
rêu rao: chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không phù hợp ở Việt Nam và cần loại bỏ.
Gần đây, trước những khó khăn về kinh tế, xã hội của đất nước, họ tuyên truyền luận
điệu: Việt Nam đang không chỉ bế tắc về kinh tế mà còn bế tắc cả về tinh thần; và rằng,
không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa. Họ cho rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của C.Mác chỉ là một mớ lý thuyết suông về một chủ nghĩa xã hội không tưởng,
không bao giờ thực hiện được. Do vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông
Âu và trên toàn thế giới là một tất yếu, là sự cáo chung đã được báo trước.
Thứ hai, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lý tưởng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với cách diễn đạt trực diện tấn công: “Vì sao đến giờ này mà
Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội”. Họ cho rằng: ai cũng thấy là chủ nghĩa xã hội đã ở vào giờ thứ 25
trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam đã hoàn toàn thất
bại sau 10 năm (1975 - 1985) thực hiện triệt để dù cố gắng “đổi mới” 10 năm sau đó
(1985 - 1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được. Chúng xuyên
tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa”, nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ
mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và
nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Thứ ba, đưa ra các kiến nghị nhiều hình thức, như “gửi thư”, “trao đổi”, “góp
ý” kiến nghị vào những dịp Đại hội Đảng, sửa đổi Hiến pháp…, cho rằng đó là thời cơ
để đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà
nước dựa trên nền tảng dân chủ, “xã hội dân sự”. Thực chất, ẩn khuất đằng sau những
góp ý này là ý đồ xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Họ cho rằng, chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người
còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi
một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, quan điểm, luận điệu lợi dụng vào những khó khăn tồn tại, hạn chế,
thiếu sót, sơ hở trong đời sống xã hội để đánh đồng hiện tượng thành bản chất của chủ
lOMoARcPSD| 45474828
nghĩa xã hội, là kết quả mang lại do đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Trong quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt
được, còn có những hạn chế, yếu kém, thiếu sót, sơ hở trong đời sống về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí, ô nhiễm môi trường… Các thế lực
thù địch lợi dụng để suy diễn, diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, xuyên tạc, quy
chụp rằng đó là bản chất của chủ nghĩa xã hội, kết quả do con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mang lại…; làm cho những người không có nền tảng tư tưởng chính trị vững
vàng dễ bị lầm tưởng, hồ nghi, hoang mang, dao động, thậm chí xét lại, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị.
Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý nghĩa
quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, giữ vững
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, ngăn chặn đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, qua đó góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 493
2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 43, tr. 50
3. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 318
4. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 634
5. Xem thêm: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 45, tr.
262
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr. 73
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr. 102
lOMoARcPSD| 45474828
8. Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm
xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh
hùng”, Tạp chí Cộng sản số 1.030 (tháng 1 năm 2024), tr. 7
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 186
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 75
11. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 659

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
Tóm tắt: Trải qua gần 50 năm thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra cơ đồ và
vị thế mới trên trường quốc tế. Những thành tựu ấy gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng,
trong đó những phát triển sáng tạo về lý luận xây dựng và phát triển đất nước, nhất là
thời kỳ đổi mới, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đồng thời gắn liền với đấu tranh phản
bác các luận điệu xuyên tạc các vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
I. Khái quát nhận thức lý luận giai đoạn trước đổi mới (những năm 1976-1986)
1. Nhận thức về mục tiêu, đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh về mục tiêu của đất nước trong giai đoạn mới
là: xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa. Những nhiệm vụ trước mắt là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã
hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế,
văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở
vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Như vật, mục tiêu cách mạng Việt Nam là
xuyên suốt, tuy mỗi giai đoạn có điểm nhấn riêng.
Đường lối chung để đạt được mục tiêu đặt ra được Đại hội IV xác định là nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học –
kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa), trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là
then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu…; xây
dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cơ bản theo
những định hướng phổ quát được xác định năm 1960 tại Đại hội các Đảng cộng sản và
công nhân ở Mát-xcơ-va, có những sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và lOMoAR cPSD| 45474828
môi trường phát triển chung của khu vực và thế giới. Mặc dù mô hình phát triển trong
giai đoạn 10 năm trước đổi mới vẫn trong khuôn khổ chế độ bao cấp, song những bước
chuyển nhận thức trên rất quan trọng, đặt nền tảng để có bước đổi mới quyết định tại
Đại hội VI của Đảng.
2. Nhận thức về các quy luật, các mối quan hệ
Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng xác định: “Đảng lãnh đạo Nhà nước
nhưng không làm thay Nhà nước. Phải thông qua hoạt động của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò chủ động và trí sáng tạo của nhân dân”.
Đến Đại hội V (năm 1981), cùng với việc khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược,
Đảng ta đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, Văn kiện Đại hội V của Đảng đã chỉ rõ: “… xét cho cùng là do chưa thực sự
nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
được phản ánh trong đường lối của Đảng”.
II. Giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến năm 2016
1. Nhận thức về thời kỳ quá độ, đặc trưng, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã
hội và các mối quan hệ lớn
Trước hết là, nhận thức về thời kỳ quá độ ngày càng rõ, hoàn thiện hơn. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định:
“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới
trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục khẳng định tinh thần Cương lĩnh năm 1991 và xác định, làm sáng tỏ hơn
về những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền ăn hóa, xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến độ, công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, lOMoAR cPSD| 45474828
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, nhận thức ngày càng rõ hơn về đặc trưng và phương hướng cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội
VII thông qua đã xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các
Đại hội tiếp theo đều khẳng định và làm rõ, bổ sung thêm nội hàm của 6 đặc trưng.
Đặc biệt, đến Đại hội X và XI đã có những điều chỉnh, bổ sung, phát triển nhận thức lý
luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011 nêu rõ 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đã xác định rõ hơn các phương hướng cơ bản,
thể hiện trên các nội dung: 1-Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2-Phát
triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3-Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; 4-Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5-Thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp
mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng; 7-Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đặc biệt, đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng
ta đã nêu 8 phương hướng cơ bản, qua đó bổ sung sáng tỏ so với Cương lĩnh năm 1991 lOMoAR cPSD| 45474828
về mô hình, mục tiêu; đồng thời, trong nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội nêu rõ và
cụ thể hơn, trong nội dung phương hướng thể hiện rõ 3 trụ cột: Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất
nước; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công cụ, phương tiện giải
phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu bảo đảm
quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Đây
là sự bổ sung sáng tạo mới của Đảng.
Thứ ba, về nhận thức các mối quan hệ lớn. Tại Đại hội VII, Đảng nêu những
kinh nghiệm bước đầu trong đổi mới, đề cập đến mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, mối
quan hệ giữa phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước… Có thể nói, đây là những bước phát triển nhận thức rất quan
trọng về các mối quan hệ, để tiến tới có sự khái quát rõ và ngày càng hệ thống, đầy đủ.
Tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011), nhận thức về các mối quan hệ có bước
phát triển mang tính hệ thống, khi lần đầu tiên 8 mối quan hệ lớn đã được đưa vào Văn
kiện và Nghị quyết của Đại hội, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.
2. Sự phát triển nhận thức lý luận trong các lĩnh vực chủ yếu
Thứ nhất, sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là đột phá lớn về lý luận. Khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng
và đã hoàn thiện hơn tại Đại hội XII của Đảng với việc khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ lOMoAR cPSD| 45474828
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Đây
là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt những chỉ dẫn của V.I. Lê-nin trong Chính
sách kinh tế mới; đồng thời, xuất phát từ tổng kết thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của
Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới” của Đảng.
Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những điều chỉnh cơ
bản. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), với đường lối đổi mới, Đảng ta xác định cần tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo và cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa với việc
thực hiện 3 chương trình: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đến năm 2020 là: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta xác định rõ đường lối công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo phương thức rút ngắn, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy
vọt. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là nhằm bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Quá trình này phải đi đôi với chủ động hội nhập quốc tế, kết
hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. lOMoAR cPSD| 45474828
Tại Đại hội X (năm 2006), trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và trước bối
cảnh mới, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta xác định:
“… thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành
công nghiệp có lợi thế”.
Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có phát triển mới khi khẳng
định nền văn hóa Việt Nam hướng đến là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
(Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998). Đến Đại hội IX của Đảng
(tháng 4-2001), Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5 khóa VIII và xem: “Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội X của Đảng nêu quan
điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và yêu cầu “tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đã có bước phát triển, thể
hiện ở sự khẳng định bản chất của Đảng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối ngoại có nhiều đổi mới. Đảng
xác định việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Đây là quan điểm xuyên suốt,
nhất quán của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Cương lĩnh lOMoAR cPSD| 45474828
năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định cụ thể: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”(16).
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm: “Tăng cường quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là lực lượng nòng cốt”.
III. Bước phát triển mới về nhận thức từ năm 2016 tới nay
1. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, có bước phát triển trong nhận thức về xác định mục tiêu phát triển đất
nước. Các đại hội Ðảng thời kỳ đổi mới đã xác định mục tiêu phát triển đất nước theo
cách tiếp cận về trình độ phát triển công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đại
hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm
2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến
năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Ðây là bước phát triển nhận thức rất
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội XIII của
Đảng đã có nhận thức rõ hơn về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
phấn đấu xây dựng trên một số khía cạnh như: 1- Đạt được một xã hội thịnh vượng, có
thu nhập thuộc nhóm trên của các nước thu nhập trung bình cao của thế giới. Nền kinh
tế thị trường có năng lực cạnh tranh cao, phát triển năng động, nhanh, bền vững, làm
chủ công nghệ và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nền kinh tế dựa trên cơ sở khoa
học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. 2- Một nhà nước pháp quyền, có cơ chế quản trị hiện
đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và bảo đảm trách nhiệm giải trình; tập
trung nhiều hơn quản trị phát triển và quản lý xã hội. 3- Một xã hội văn minh, hiện đại,
trong đó người dân được phát huy sức sáng tạo, khơi dậy được ý chí, khát vọng phát
triển, sức mạnh toàn dân tộc, có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương,
an toàn, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 4- Một môi
trường bền vững sẽ bảo vệ chất lượng không khí, đất và nguồn nước, tạo khả năng thích lOMoAR cPSD| 45474828
ứng và chống chịu nhằm giảm thiểu những rủi ro nghiêm trọng do biến đổi khí hậu;
hướng tới phát triển chủ yếu nguồn năng lượng đa dạng, sạch và an toàn.
2. Sự phát triển nhận thức mới trong các lĩnh vực chủ yếu
Thứ nhất, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
rõ và cụ thể hơn. Điểm mới ở đây là làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ hơn
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đề ra nhiều nhiệm vụ mới, nội dung mới để tiếp
tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong những năm tới. Một trong
những điểm mới trong quan điểm của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn này là: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai
trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế
thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng”.
Thứ hai, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng gắn với xu thế
phát triển chung. Nhận thức về công nghiệp hóa của Đảng luôn có sự điều chỉnh phù
hợp, sáng tạo trước biến động của các nguồn lực và bối cảnh tăng trưởng. Công nghiệp
hóa ở Việt Nam không chỉ là chuyển lao động chân tay sang lao động dựa trên máy móc
như quan niệm cổ điển, mà công nghiệp hóa đi liền hiện đại hóa và gắn với kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trên
cơ sở gắn với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế; bảo đảm cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự kết hợp giữa nguồn lực bên
trong và nguồn lực bên ngoài, trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững; khoa học và công nghệ được xem là nền tảng và
động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được đẩy mạnh đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư
nhân đóng vai trò quan trọng; tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được triển khai
theo phương thức rút ngắn. lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ ba, lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã có bổ sung mới, tạo môi trường
và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy tài năng, trí
tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam cho phát triển đất nước.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng có bước phát triển
nhận thức mới. Đó là bổ sung nhiệm vụ “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn cả
chỉnh đốn Đảng. Các nội dung xây dựng Đảng được phát triển cụ thể hơn phù hợp với
tình hình mới. Sau thời gian đất nước thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế, đã tác động đến đội ngũ đảng viên và
công tác tổ chức xây dựng Đảng, tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức đã xuất hiện
trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặt ra yêu cầu mới. Do vậy, Đại hội XII
của Đảng chủ trương đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung,
nhiệm vụ. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Tiếp đó, tại Đại hội
XIII, Đảng đã nhấn mạnh hơn đến công tác tổ chức cán bộ và tách thành 2 nhiệm vụ:
xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong
những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đi liền với bước phát triển
nhận thức khi tách thành 5 nội dung trong tổng thể công tác xây dựng Đảng, Đảng ta
cũng đã chỉ rõ hơn trong nội dung từng nhiệm vụ. Đây là bước phát triển sáng tạo trong
nhận thức lý luận về nội dung công tác xây dựng Đảng, góp phần rất quan trọng cho
hoạt động xây dựng Đảng ngày càng có hiệu quả.
Thứ năm, lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại cũng có những bổ sung
mới. Đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tại Đại hội XII, Đảng ta phát triển thêm,
bổ sung nội dung: ổn định chính trị, coi là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Đại hội
XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là nòng cốt”. Đây là căn cứ để xác định vị trí mối quan hệ và mức độ ưu tiên giải
quyết đối với từng lĩnh vực cụ thể. lOMoAR cPSD| 45474828
IV. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua, cuộc đấu tranh tư
tưởng, lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta diễn
ra trong bối cảnh và yêu cầu mới, mang tính phức tạp và quyết liệt hơn. Sự tan rã của
Liên Xô và sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu là cái cớ để các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị tung ra các quan điểm sai
trái, thù địch, phủ nhận sự đúng đắn, khách quan của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới
với tư cách là một học thuyết, một chế độ xã hội, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình” chống phá chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trên con đường dân tộc, nhân dân ta đi tới là đề tài để các thế lực thù địch
bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận bằng đủ các luận điệu sai trái, thù địch khác nhau. Hiện
nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của
truyền thông xã hội, internet toàn cầu, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những vấn đề nóng bỏng trước những tác động của an ninh truyền thống, an
ninh phi truyền thống, tác động tiêu cực của tình hình thế giới đến đời sống xã hội như:
Xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, tự do mới, dịch bệnh…,
các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động tăng cường hoạt động với những chiêu
thức, thủ đoạn mới chống phá chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch chống phá này, thể hiện ở số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xuyên tạc giá trị, tính khoa học, cách mạng của học thuyết Mác -
Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng về chủ nghĩa xã hội. Những chiêu bài mà chúng
đang sử dụng không mới, nhưng hết sức tinh vi và thâm độc, tập trung vào việc đưa ra
những lập luận, tuyên truyền, cổ vũ từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, làm lung lay, phủ
nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Để phủ định học thuyết Mác - Lênin, các thế
lực thù địch cho rằng, học thuyết Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX và phù hợp
trong một chừng mực nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phương Tây
thời đó. Lý luận này không còn phù hợp với thế kỷ XX và đặc biệt trong điều kiện ngày lOMoAR cPSD| 45474828
nay càng không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Từ đó, họ tuyên truyền xuyên tạc,
rêu rao: chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không phù hợp ở Việt Nam và cần loại bỏ.
Gần đây, trước những khó khăn về kinh tế, xã hội của đất nước, họ tuyên truyền luận
điệu: Việt Nam đang không chỉ bế tắc về kinh tế mà còn bế tắc cả về tinh thần; và rằng,
không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa. Họ cho rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của C.Mác chỉ là một mớ lý thuyết suông về một chủ nghĩa xã hội không tưởng,
không bao giờ thực hiện được. Do vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông
Âu và trên toàn thế giới là một tất yếu, là sự cáo chung đã được báo trước.
Thứ hai, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lý tưởng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với cách diễn đạt trực diện tấn công: “Vì sao đến giờ này mà
Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội”. Họ cho rằng: ai cũng thấy là chủ nghĩa xã hội đã ở vào giờ thứ 25
trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam đã hoàn toàn thất
bại sau 10 năm (1975 - 1985) thực hiện triệt để dù cố gắng “đổi mới” 10 năm sau đó
(1985 - 1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được. Chúng xuyên
tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa”, nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ
mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và
nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Thứ ba, đưa ra các kiến nghị nhiều hình thức, như “gửi thư”, “trao đổi”, “góp
ý” kiến nghị vào những dịp Đại hội Đảng, sửa đổi Hiến pháp…, cho rằng đó là thời cơ
để đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà
nước dựa trên nền tảng dân chủ, “xã hội dân sự”. Thực chất, ẩn khuất đằng sau những
góp ý này là ý đồ xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Họ cho rằng, chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người
còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi
một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, quan điểm, luận điệu lợi dụng vào những khó khăn tồn tại, hạn chế,
thiếu sót, sơ hở trong đời sống xã hội để đánh đồng hiện tượng thành bản chất của chủ lOMoAR cPSD| 45474828
nghĩa xã hội, là kết quả mang lại do đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Trong quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt
được, còn có những hạn chế, yếu kém, thiếu sót, sơ hở trong đời sống về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí, ô nhiễm môi trường… Các thế lực
thù địch lợi dụng để suy diễn, diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, xuyên tạc, quy
chụp rằng đó là bản chất của chủ nghĩa xã hội, kết quả do con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mang lại…; làm cho những người không có nền tảng tư tưởng chính trị vững
vàng dễ bị lầm tưởng, hồ nghi, hoang mang, dao động, thậm chí xét lại, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị.
Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý nghĩa
quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, giữ vững
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, ngăn chặn đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, qua đó góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”
các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 493
2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 43, tr. 50
3. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 318
4. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 634
5. Xem thêm: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 45, tr. 262
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102 lOMoAR cPSD| 45474828
8. Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm
xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh
hùng”, Tạp chí Cộng sản số 1.030 (tháng 1 năm 2024), tr. 7
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 186
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 75
11. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 659