



















Preview text:
BỘ GD & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ VIỆT NAM
ĐỀ TÀI : PHONG TRÀO TÂY SƠN NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 3 M I C THỜI GIAN THỰC HIỆN: 10/2022 1
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) K48 - LỚP QTH.A - NHÓM 3:
1. Nguyễn Thị Mỹ Hương – 48.01.608.022
2. Phan Lý Như Huỳnh – 48.01.608.024
3. Bùi Thị Ngọc Lan – 48.01.608.030 (Nhóm trưởng)
4. Trần Nguyễn Bảo Ngân – 48.01.608.045
5. Huỳnh Nguyễn Thảo Nguyên – 48.01.608.047
6. Nguyễn Hữu Phước – 48.01.608.059
7. Trần Thái Hồng Tiên – 48.01.608.073
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC Mỹ Hương
Soạn và thuyết trình phần “Cuộc khởi nghĩa bùng lên từ đất Tây Sơn” Như Huỳnh
Soạn và thuyết trình phần “Đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn và
đánh tan quân can thiệp Xiêm” Ngọc Lan
Soạn và thuyết trình “Ở Đàng Ngoài, cuộc khủng hoảng tiếp tục” + Làm Powerpoint Bảo Ngân
Soạn và thuyết trình “Quân Thanh vào Thăng Long”
Thảo Nguyên Soạn và thuyết trình “Quang trung đại phá quân xâm lược” Hữu Phước
Soạn và thuyết trình “Lật đổ chính quyền Lê – Trịnh” Hồng Tiên
Soạn và thuyết trình “Cuộc khủng hoảng ở Đàng Trong” + Làm Powerpoint 2
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) MỤC LỤC
Mục lục...................................................................................................................................... 3 I.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:......................................................................................................................4
1. CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC:..................... 1.1.
Ở ĐÀNG NGOÀI, CUỘC KHỦNG HOẢNG TIẾP TỤC:............................................................... 1.2.
KHỦNG HOẢNG Ở ĐÀNG TRONG: II.
DIỄN BIẾN:......................................................................................................................................9
1. CUỘC KHỞI NGHĨA BÙNG LÊN TỪ ĐẤT TÂY SƠN:.......................................................................
2. ĐÁNH ĐỔI CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ ĐÁNH TAN QUÂN CAN THIỆP XIÊM:..........
3. LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN LÊ TRỊNH:..................................................................................................
4. QUÂN THANH VÀO THĂNG LONG:.................................................................................................
5. QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN XÂM LƯỢC III.
KẾT LUẬN:.....................................................................................................................................19
Tài liệu tham khảo:....................................................................................................................20 3
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Sau khoảng thời gian hơn 30 năm ròng rã phát triển rầm rộ những cuộc khởi nghĩa nông dân
ở Đàng Ngoài, mặc dù đã làm rung chuyển cả Đàng Ngoài, làm lung lay cả cơ đồ thống trị của
tập đoàn Lê-Trịnh, nhưng vẫn không đủ sức để đối đầu với một lực lượng còn tương đối mạnh
của chính quyền họ Trịnh. Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa thực chất nằm ở việc bế tắc về
đường lối, thiếu tính kỷ luật, phân tán cục bộ. Tuy thất bại là vậy, nhưng phong trào nông dân
Đàng Ngoài đã thành công dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tập đoàn Lê-Trịnh và buộc chính
quyền phong kiến phải có những điều chỉnh trong chính sách cai trị.
1. CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC: 1.1.
Ở ĐÀNG NGOÀI, CUỘC KHỦNG HOẢNG TIẾP TỤC:
Khủng hoảng ruộng đất
Nạn kiêm tính ruộng đất vốn là hậu quả của quá trình phát triển tư hữu ruộng đất trong các
thế kỷ XVI-XVII đã trở thành mối quan ngại luôn hiện hữu của chính quyền từ những năm nửa
đầu thế kỷ XVIII đến thời điểm hiện tại đã trở nên sâu sắc và trầm trọng hơn rất nhiều.
“Tích tụ ruộng đất là một hiện tượng tự nhiên trong quá trình phát triển của chế độ tư hữu
nhưng ở Đàng Ngoài hiện tượng này diễn ra trong điều kiện không bình thường”. (1)
Hiện tượng này diễn ra trong điều kiện không bình thường là vì dù nhà nước đã ban bố
những lệnh cấm nhưng biến ruộng công thành ruộng tư nhưng những kẻ cường hào vẫn âm
mưu tìm cách chiếm đoạt ruộng đất. Năm 1711, chúa Trịnh buộc phải xuống chỉ “cấm các gia
đình đại quý tộc, quan lại và hương lý không được nhân cơ hội nông dân bị phá sản, mượn cớ
mua ruộng đất để mở rộng cơ ngơi của mình”. (2) Thế nhưng, những kẻ cường hào và bọn địa
chủ vẫn lợi dung tình hình khủng hoảng do thiếu đói vì thiên tai hay những khi gặp khó khăn
trong cuộc sống để buộc người dân phải cầm cố hoặc gán nợ ruộng đất với giá rẻ mạt. Đó cũng
chính là cách mà những kẻ ấy đã lách luật để ức hiếp và chiếm đoạt ruộng đất của người dân.
Minh chứng rõ ràng nhất cho cuộc khủng hoảng ruộng đất này là số vụ khiếu kiện ruộng đất bị
tước đoạt đã tăng vọt, những người nông dân bị tước mất ruộng phải đến cửa quan lại gặp trăm
điều khó dễ, phải đưa hối lộ, nhưng thường rốt cuộc vẫn là tiền mất tật mang. (2)
Một báo cáo thanh tra năm 1718, lưu ý: ' Trong các thôn xã, bọn hào lý dùng trăm phương
nghìn kế, hoành hành độc đoán cướp tài sản của người khác để làm giàu, áp bức người nghèo,
khinh rẻ kẻ dốt nát, tìm đủ mọi cớ để vu oan và kiện cáo người ta. Việc phán xử dù có đúng
cũng chỉ vô ích, chúng khiếu nại một lần, hai lần, ba lần. Người nghèo không còn đủ sức để
theo kiện, đến nỗi cả những người khá giả cũng bị khuynh gia bại sản' .(2)
Tình trạng tư hữu ruộng đất của những kẻ cường hào cứ tiếp diễn và vào những năm đầu thế kỷ
XVIII, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã xuất hiện hang loạt địa chủ có hàng trăm mẫu ruộng, còn
có những người sở hữu tới hàng nghìn mẫu. Năm 1728, chúa Trịnh Cương đã phải thừa nhận:
“Ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một miếng đất cắm dùi”. Ở
miền núi, “bọn quyền thế làm giả văn khế để chiếm ruộng nên dân muốn cày cầy cũng không có đất”. (1)
Đến năm 1739, Phủ Chúa đành phải thừa nhận: ' Nông dân không còn có gì để sống'‘. (2) 4
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Bên cạnh đó trong nửa đầu thế kỷ XVIII đã có 11 lần thiên tai, trong đó 8 lần vỡ đê gây lụt lội,
và trong thời kỳ này người dân Đàng Ngoài lại liên tục đối mặt với 12 nạn đói lớn. Năm 1713,
dưới ảnh hưởng của thiên tai, trời hạn hán và liên tục mất mùa khiến cho dân phải “ăn vỏ cây,
rễ cỏ, chết đói đầy đường, làng xóm tiêu điều hiu quạnh”. (1) Đến năm 1741, người dân Đàng
Ngoài lại tiếp tục hứng chịu một trận đói to, “dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường.
Giá gạo cao vọt, một trăm tiền không được một bữa no. Nhân dân phần nhiều hải ăn rau, ăn củ,
đến nỗi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau”. (1)
Vào những thời điểm khó khăn như thế, khi không thể nào gắn bó với mảnh đất quê hương
được nữa, những người dân quyết định bỏ làng ra đi ồ ạt, khiến cho cả làng cũng không còn
một ai ở lại. Chính tình trạng xiêu tán này đã đẩy Đàng Ngoài lâm vào tình trạng khủng hoảng hết sức trầm trọng.
Nhận ra hậu quả của nạn kiêm tính ruộng đất, sau cơn bão táp khởi nghĩa nông dân, năm
1773 Trịnh Sâm ban bố 7 điều cấm, trong đó có điều “cấm thế gia không được chiếm càn ruộng
của dân”. Cùng thời gian đó, Ngô Thì Sĩ dâng điều trần, đề nghị “ức chế nạn kiêm tính để lập
nghiệp cho dân đói” …Nửa sau thế kỷ XVIII, thiên tai liên tiếp xảy ra kéo theo những nạn đói
lớn. Trong suốt những năm 70 và 80 của thế kỷ, các trận đói xảy ra liên miên, hết trận này đến
trận khác. Chẳng hạn năm 1777, khi Nghệ An lâm vào nạn đói lớn, Chúa Trịnh đã xuất 15.000
quan tiền và 150.000 bát gạo để chấn cấp. Cùng năm, chúa Trịnh chấp nhận lời đề nghị của các
quan lại về 4 biện pháp giúp Nghệ An cứu đói:
1. Đưa dân đói đến Thanh Hóa khai khẩn
2. Mở cửa biển cho các thuyền buôn vận tải
3. Mở đường châu Quỳ Hợp để thông thương buôn bán (với Lào)
4. Cho phép thuyền buôn chở gạo đến buôn bán miễn thuế
Nhưng những cố gắng kể trên của chính quyền Đàng Ngoài thực chất chỉ là những giải pháp
tạm thời nhằm xoa dịu nỗi bất bình của dân chúng, không giải quyết triệt để được bất kỳ một vấn đề nào.
Khủng hoảng chính trị và hành chính
Trong khi đó, bộ máy chính quyền lại mục nát đến cực độ. Năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi
chúa. Trịnh Sâm là một kẻ chơi bời trác táng và hư hỏng, quyền hành chuyển vào tay ái phi
Đặng Thị Huệ và gia đình của bà ta. Triều đình nhà Chúa chia thành hai phe kình địch nhau,
phe của thế tử và phe của ái phi muốn đưa con trai mình lên ngôi chúa. Chính người con trai
này đã lên ngôi khi Trịnh Sâm chết năm 1782. Chúa đăng quang khi mới 6 tuổi và Hoàng Đình
Bảo, nhân tình của Đặng Thị Huệ, mới là kẻ nắm thực quyền. Cuối năm 1782, quân đội nổi
loạn giết chết Hoàng Đình Bảo, khôi phục ngôi chúa cho thế tử, nhưng từ đó các binh sĩ của
đơn vị đặc biệt buộc triều đình nhà Chúa phải tuân theo ý của họ, cướp bóc nhân dân, hạ bệ các
vương hầu và khanh tướng, giết chết những ai dám chống lại hành động của mình. Nông dân
lại nổi dậy, nhưng những cuộc bạo động đó không đạt được quy mô như trước nữa. Vào cuối
thế kỷ XVIII, chế độ nhà Trịnh đã ở bên bờ sụp đổ. (2) 1.2.
KHỦNG HOẢNG Ở ĐÀNG TRONG 5
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) Kinh tế suy thoái
Trước hoàn cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh ở Đàng ngoài, cùng với sự chia cắt của hai
miền lãnh thổ nước nhà, nền kinh tế Đàng Trong lúc bấy giờ có phần phát triển hơn cả.
Vì lẽ đó nên những dấu hiệu về sự suy yếu của nền kinh tế miền Nam diễn ra chậm hơn
ở khoảng thời gian sau này. Ở Đàng Trong lúc bấy giờ sự phát triển của nền kinh tế được
quyết định bởi hai nhân tố chính là Kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp và Ngoại
thương, tuy nhiên cho đến những năm đầu thế kỷ XVIII lại có hiện tượng giảm sút dần
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hàng hóa:
“Nếu như 10 năm cuối thế kỷ XVII số tàu Trung Quốc nối liền quan hệ thương mại giữa Đàng
Trong với Nagadaki (Nhật Bản) còn là 29 chuyến thì đến 10 năm đầu thế kỷ XVIII rút xuống
còn 11 chuyến và 10 năm tiếp theo chỉ còn 5 chuyến. Đến giữa thế kỷ XVIII, thương cảng Hội
An vốn sầm uất đã trở nên rất thưa thớt tàu bè ra vào. Ngoài nguyên nhân do tình trạng sa sút
của thương mại quốc tế và khu vực nói chung, sự vắng dần tàu buôn nước ngoài còn do sự
sách nhiễu phiền hà của chính quyền Poavrơ đến Đàng Trong năm 1749 đã nhận xét việc buôn
bán gặp nhiều khó khăn vì : “muốn công việc được dễ dàng trôi chảy thì phải có lễ vật đút lót,
hối lộ cho các quan lại, hào trưởng. Nếu không sẽ bị trộm cắp, bị gặp mọi điều trở ngại”.
Năm 1773, toàn bộ số tàu nước ngoài đến Hội An chỉ có 8 chiếc.”
( Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Vấn đề tiền tệ trong thời kỳ này cũng là một sự khủng hoảng đối với nền kinh tế Miền Nam.
Việc không có mỏ đồng để đúc tiền đã khiến thứ nguyên liệu này trở thành nguồn nhập khẩu
hoàn toàn nhưng vẫn không thể đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng, một phần cũng là do ngoại
thương suy giảm. Cho đến năm 1746 tiền lưu thông đã được Nguyễn Phúc Khoát cho đúc bằng
kẽm và cả tư nhân cũng được cho phép tự đúc tiền để thu lợi nhuận. Những điều trên đã dẫn
đến tình trạng rối loạn tiền tệ “Nạn tiền hoang” kéo dài suốt hàng chục năm ở Đàng Trong, sự
rối loạn hệ thống tiền tệ này đã dẫn tới nạn đầu cơ tích trữ, làm ngưng trệ hoạt động lưu thông.
Trong bức thư gửi lên chúa Nguyễn năm 1770, Dật sĩ Ngô Thế Lân từng phân tích, có viết về
những người đúc tiền tư nhân như thế này: “ Không kể vật giá cao hay hạ cứ bỏ tiền ra đong
thóc. Vì thế giá thóc lên cao, giá thóc cao thì dân sợ đói, sợ đói thì tranh nhau tích trữ, tranh
nhau tích trữ thì giá lúa lại càng lên cao. Giá lúa lên cao thì mọi vật trong thiên hạ cũng theo đó mà tăng giá.”
Tình trạng đúc tiền ồ ạt dẫn đến đồng tiền kẽm cũng mất giá trầm trọng “thuyền buôn nước
ngoài đến hết thảy đều không lấy (tiền kẽm), đều đổi vàng bạc, tạp hóa lấy gạo muối rồi đi.
Nhà giàu không chịu bán thócc ra, vì thế mà giá gạo cao vọt.”
(Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Sản xuất nông nghiệp ở Đàng Trong thời kỳ này cũng không thoát khỏi số phận suy thoái,
thể hiện rõ nhất ở vùng Thuận-Quảng “Nơi đây đất chật, người đông, vậy mà từ giữa thế kỷ
XVIII, hiện tượng dân bỏ ruộng hoang ngày càng trở nên phổ biến. Đến năm 1774, theo Lê
Quý Đôn thì xứ Thuận Hóa có 9 huyện, ruộng đất toàn bộ có 256.507 mẫu, nhưng thực cày cấy
chỉ có 153.600 mẫu. Số còn lại phần lớn bị bỏ hoang. Xứ Quảng Nam có 25 huyện, ruộng đất 6
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
nhiều gấp bội so với Thuận Hóa, nhưng ruộng thực cày cấy cũng chỉ được khoảng 27 vạn mẫu.
Huyện nào cũng có ruộng hoang. Đó là những ruộng đất cằn cỗi khó canh tác, dân không chịu
nổi thuế phải bỏ hoang. Trong khi đó, những ruộng đất tốt lại “bị bọn nhà giàu xâm chiếm
khiến người nghèo không có mảnh đất cắm dùi, cho nên người giàu càng giàu, người nghèo
càng nghèo, thiếu thuế, dân lưu li.”
(Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Ngoài ra các lĩnh vực Thủ công nghiệp, Khai thác lâm sản,... cũng dần sa sút cả.
Kinh tế Đàng Trong rơi vào tình trạng đình đốn, suy thoái vô cùng nghiêm trọng. Chính trị suy đồi
Đứng trước sự suy thoái trầm trọng của nền kinh tế, chính quyền Đàng trong vẫn dững dưng,
bỏ mặt vấn đề và chỉ chú tâm vào việc củng cố quyền lực nhà nước cũng như chỉ nghĩ đến lợi
ích của chính quyền nhà nước. “Năm 1774, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, kinh đô được cho
xây dựng ở Phú Xuân. Quan lại cấp cao thì đua nhau xây dựng dinh thự, tiêu phí vô cùng tốn
kém cho việc ăn chơi xa xỉ, tổ chức yến tiệc linh đình. Họ “coi vàng bạc như cát, thóc gạo như
bùn, xa xỉ hết mực” . Tiền của cung đốn cho cuộc sống xa hoa của nhà chúa và quan lại đều bồ
vào đầu dân. Trong vòng 7 năm (1746-1752), chính quyền họ Nguyễn thu vào trên 5.768 lạng
vàng, 45.404 lạng bạc các loại và hơn 2 triệu quan tiền. Số dân phải đóng góp còn gấp hai ba
lần đó vì “về nhà nước được một phần thì kẻ trưng thu lấy hai phần” . Theo nhận xét của Lê
Quý Đôn , ở Đàng Trong “hàng năm có hàng trăm thứ thuế mà trưng thu thì phiền phức, gian
lận, nhân dân khổi vì nỗi một cổ hai tròng”.
(Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Tình trạng bóc lột, vơ vét, tham nhũng của hệ thống chính quyền ngày một tệ hại hơn sau khi
quyền thần Trương Phúc Loan phế truất Hoàng tôn Dương, đưa Nguyễn Phúc Thuần chỉ mới
12 tuổi lên ngôi Chúa năm 1765. Trương Phúc Loan cũng là người cậy thế hãm hại những
người chống đối và chuyên quyền tự xưng mình là quốc phó, ra sức bóc lột, vơ vét và làm giàu.
Dưới thời Trương Phúc Loan, chính sự Đàng Trong cực kỳ thối nát. Không chỉ có Trương Phúc
Loan mà những kẻ thân cận của Nguyễn Phúc Thuần như Nguyễn Noãn và Nguyễn Nghiễm
đều là những tên ôn thần, ăn chơi loạn lạc và có đời sống trụy đồi, buông thả, chẳng quan tâm
gì đến việc chính sự càng khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết. Lê Quý Đôn từng phải
thốt lên rằng: “Dùng người như thế hỏi sao không mất nước!”.
Cả bọn quan lại dưới thời này cũng đều là một lũ mọt dân. Tình hình hiện tại của thời điểm
đó đã được kể đến trong bức thư của Nguyễn Cư Trinh gửi chúa Nguyễn vào năm 1751 như sau:
“Phủ huyện là chức trị dân mà gần đây không giao trách nhiệm làm việc, chỉ lo khám hỏi, kiện
tụng... chỉ trông vào sự bắt bớ tra hỏi mà kiếm lộc, khiến của dân ngày càng hao, tục dân càng bạc.” 7
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Ở cấp làng xã thì có bọn lý dịch và cường hào cũng mặc sức hoành hành, chèn ép người dân
khốn khổ (mỗi xã có đến 17 tướng thần (quan thu thuế) và 20 xã trưởng)
Đời sống cùng cực và sự phản kháng của nhân dân
Cùng với tình trạng kinh tế suy thoái, thuế hóa nặng nề, quan lại tham nhũng, từ những năm
30, thiên tai lụt lội lại xảy ra liên miên khiến những vùng đất trù phú nhất cũng có khi bị cảnh
đói khổ trầm trọng, đời sống nhân dân đã khổ nay còn khổ hơn, gian nan, vất vả không sao tả
xiết. “Thuận Hóa và Quảng Nam là hai xứ chịu cảnh đói khổ trầm trọng nhất. Giữa vùng
Thuận-Quảng cũ và Gia Định vốn có mối quan hệ giao thương chặt chẽ, một phần lương thực
quan trọng của vùng này được cung cấp từ đồng bằng Nam Bộ. Từ khi tiền kẽm phát hành, dân
Gia Định không bán thóc gạo lấy tiền, miền Trung lâm vào cảnh thiếu lương thực trầm trọng.
Năm 1769, đói kém xảy ra liên tục trong 4-5 năm liền. Thê thảm nhất là nạn đói lớn ở Thuận
Hóa năm 1747. Theo lời mô tả của giáo sĩ La Bactet thì “gạo đắt như vàng... tình trạng đói
khổ bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau.”
(Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Đỉnh điểm của tình trạng đói khổ cùng cực đã được sử sách ghi chép lại, từ giữa thế kỷ XVIII
bắt đầu xảy ra hiện tượng “Trộm cướp nổi dậy tứ tung” cho thấy sự rối loạn trong đời sống xã
hội của người dân. Cuộc sống quá khổ sở, cùng cực đã đẩy người dân vào con đường cầm vũ khí vùng lên đấu tranh.
“Năm 1747, ở Gia Định cuộc khởi nghĩa do thương nhân Hoa kiều Lý Văn Quang cầm đầu
bùng nổ. Bất bình với chính sách chèn ép thương nhân của Nguyễn Phúc Khoát, Quang nhóm
họp bè đảng chừng 300 người, chiếm cứ bãi Đông Phố (nay thuộc Biên Hòa) và dự định đánh
úp dinh Trấn Biên. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dập tắt.”
(Trích: TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM)
Ngoài ra những cuộc bạo động của nông dân cũng diễn ra lẻ tẻ ở nhiều nơi khác trước khi
phong trào Tây Sơn nổi lên, tiêu biểu nhất chính là cuộc nổi dậy do Lía lãnh đạo nổ ra ở phủ
Quy Nhơn. Ông xuất thân trong một gia đình làm nông nghèo, cũng từng phải đi ăn xin, đi ở
cho địa chủ, chàng Lía (còn gọi là Doan) từ rất sớm đã nhận thấy được sự bất công trong xã hội
đương thời và thương xót cho nổi thống khổ của nhân dân. Vốn là người khí khái, hào hiệp, lại
có sức khỏe rất tốt và tinh thông võ nghệ, khi nạn đói xảy ra, nhân dân phẫn uất, Lía đã tập hợp
dân nghèo nổi dậy khởi nghĩa. Bước đầu, nghĩa quân của Lía đã xây dựng lên một căn cứ tại
Truông Mây để chống lại họ Nguyễn. Nghĩa quân chủ yếu hoạt động theo cách đánh cướp nhà
giàu lấy gạo thóc, của cải chia cho người nghèo. Nhưng rồi nghĩa quân của Lía đã bị đàn áp,
căn cứ Truông Mây cũng bị vây hãm, Lía cùng đường buộc phải tự sát.
Sau đó đến nhữnng năm 70, Đàng Trong đã ở vào đêm trước của “một cơn giông bão lớn” –
Phong trào nông dân quật khởi nổi lên từ đất Tây Sơn. II. DIỄN BIẾN: 8
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
1. CUỘC KHỞI NGHĨA BÙNG LÊN TỪ ĐẤT TÂY SƠN:
Lãnh đạo của phong trào Tây Sơn là ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, họ
còn được gọi là Tây Sơn tam kiệt. Ba anh em sinh ra và lớn lên ở ấp Kiên Thành thuộc hạ đạo
Tây Sơn. Tổ tiên của 3 người vốn gốc ở Nghệ An, tên là Hồ Phi Khang bị quân chúa Nguyễn
bắt làm tù binh năm 1655, đưa vào Tây Sơn khai hoang lập ấp. Đến đời cha của 3 anh em là Hồ
Phi Phúc thì đã thành 1 gia đình trung nông khá. Hồi nhỏ 3 anh em được học thành giáo Hiến,
một nho sĩ bất bình với quyền thần Trương Phúc Loan, trốn vào đây dạy học, hiểu biết tình
hình triều điình của chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc còn là một người buôn trầu qua lại miền
thượng, quen biết các già làng miền thượng người Bana, người Chăm nên giữ chức biện lại
(nhân viên thu thuế) tuấn Vân Đồn, Nguyễn Nhạc lấy con gái 1 tù trưởng Bana: Ya Đố (cô
Hầu) - người hết lòng giúp đỡ Nguyễn Nhạc minh chứng cho đó là di tích cách đồng ruộng 20
mẫu - xã Nghĩa An, huyện An Khê (Giai Lai) nơi bà đã cùng dân làng Tây Nguyên khai phá
sản xuất lương thực cho nghĩa quân.
Do thấy được sự thối nát của chính quyền họ Nguyễn, mùa xuân 1771 ba anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lên vùng Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai) lập
căn cứ, Nguyễn Nhạc xây thành lũy, lập kho tang, luyện nghĩa quân. Nghĩa quân được đồng
bào thiểu số ủng hộ lương thực, voi ngựa. cũng cùng năm đó nhân bị tên đốc trưng Đằng ức
hiếp, Nguyễn Nhạc cùng 2 em dựng cờ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn với khẩu hiệu:
“đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Phúc Dương
“lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”
Cùng với đó nghĩa quân truyền đi bài hịch với những câu:
“Giận Quốc phó ra long bội bạn nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương
Trước là ngăn cột đá giữa dòng kéo đàng giặc đặt mưu ngấp nghé
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kéo cùng dân ra chốn lầm than”
Nhờ đó nghĩa quân được nhiều thành phần trong xã hội lúc bấy giờ ủng hộ, ngoài những
nông dân nghèo miền xuôi, miền ngược. Còn có thợ thủ công, thương nhân Hoa kiều đứng đầu
là Tập Đình, Lý Tài, một số bộ phận trong tầng lớp thống trị vốn bất bình với phe cánh Trương
Phúc Loan, một số nhà giàu, thổ hào: Huyền Khê, Nguyễn Thông…. đã bỏ tiền ra giúp nghĩa
quân, một số dân tộc ít người cùng với thủ lĩnh của họ - nữ chúa Chăm Thị Hòa.
Giai đoạn đầu hoạt động của nghĩa quân chủ yếu là tấn công vào bộ máy chính quyền ở các
làng xã; đốt sổ thuế, các văn tự vay nợ; Lấy của giàu chia cho người nghèo.
2. ĐÁNH ĐỔI CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ ĐÁNH TAN QUÂN CAN THIỆP XIÊM:
Đồng bằng sông Cửa Long trù phú ngày hôm nay, là biết bao mồ hôi và máu đổ của tiền
nhân, những người khai phá không tên, những chiến binh vô danh, những trận chiến đã trở
thành huyền thoại. Thế kỷ XVIII sơn hà rung chuyển, cả hai triều đình vua Lê chúa Trịnh ở Bắc
Hà và chúa Nguyễn ở Nam Hà đều lâm vào khủng hoảng suy thoái. Vua chúa suy bại, quan
tham vơ vét, dân chúng đói khổ liên tục nổi dậy, máu đã không ngừng đổ xuống. Sau khi đã
tạm yên được ở chiến trường phía Bắc, quân Tây Sơn tập trung toàn lực lượng mở các cuộc
tiến công lớn vào phía Nam thành Quy Nhơn. Cuối năm 1775, dưới sự chỉ huy của Nguyễn 9
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Huệ, đại quân Tây Sơn chiếm được Phú Yên và sau đó Nguyễn Lữ đánh thắng trận đầu tiên ở
Gia Định. Sau hai chiến công này, năm 1776 Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, cho tu
sửa và mở rộng thành Đồ Bàn (Vigiaya, kinh đô cũ của Champa) làm đại bản doanh của nghĩa
quân. Năm 1777, Chúa Nguyễn Phúc Thuần bị bắt giết và đến năm 1778, Nguyễn Nhạc lên
ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu là Thái Đức. Kể từ đó. Quân Tây Sơn liên tiếp mở các cuộc tấn
công vào Gia Định, quân Nguyễn tan rã. Sau khi chính quyền chúa Nguyễn bị đánh đổ, Nguyễn
Ánh vẫn không từ bỏ mong muốn khôi phục lại cơ đồ đã mất bèn cùng Châu Văn Tiếp chạy
sang Xiêm nhờ đem quân sang đánh Tây Sơn cứu mình. Cuối năm 1784, theo lời cầu viện của
Châu Văn Tiếp và Nguyễn Ánh, vua Xiêm La là Rama I cử bọn Chiêu Tăng, Chiêu Sương, Lục
Côn, Sa Uyển, Chiêu Thùy Biện chỉ huy hơn 5 vạn quân gồm 2 vạn thủy binh, 300 chiến
thuyền và 3 vạn bộ binh sang xâm lược Gia Định. Đại đô đốc Châu Văn Tiếp dẫn quân đi trước
bị trúng phục kích của quân Tây Sơn trên sông Mang Thít bỏ mạng. Quân Xiêm mất người kết
nối càng hung hăng, bạo ngược. Đi đến đâu chúng đều giết hại bách tính, đến cả Nguyễn Ánh
cũng không can ngăn nổi. Đến cuối năm đó, gần một nửa đất Gia Định đã thuộc về quân Xiêm
- Nguyễn Ánh. Phò mã Trương Văn Đa binh ít thuyền mỏng, vừa đánh vừa lui, đồng thời cử
người về Quy Nhơn cấp báo tình hình. Vua Thái Đức bèn cử Long Nhương tướng quân Nguyễn
Huệ đem binh thuyền ứng cứu. Đầu tháng 1 năm 1785, quân Tây Sơn vào đóng lại ở Mỹ Tho
(Tiền Giang). Bấy giờ quân Xiêm - Nguyễn Ánh đang đóng ở Sa Đéc (Đồng Tháp), chuẩn bị
tấn công Mỹ Tho. Nguyễn Huệ đã chọn khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút mà bố trận quyết
chiến với giặc Xiêm La. Đoạn sông này dài khoảng 7km, lòng sông đủ rộng để dồn bẩy hàng
trăm chiến thuyền giặc vào bên trong, lại có cù lao Thới Sơn ngăn sông làm 2 nhánh, lùm bãi
um tùm, rất thích hợp để phục binh ẩn nấp. Vào đầu canh 5 ngày 19 tháng 1 năm 1785, khi hạm
thuyền giặc đang hung hăng lướt sóng tấn công về hướng Mỹ Tho, thì có tiếng pháo lệnh nổ
vang trời. Mở đầu trận đánh, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm - Xoài Mút, bất ngờ lao
ra, chốt cứng hai đầu. Cũng cùng lúc đó, từ khắp đầm bãi sông Tiền, trăm ngàn đại bác và hỏa
hổ của bộ binh Tây Sơn nhất tề nả “mưa đạn bảo lửu” vào sườn giặc. Hàng vạn quân Tây Sơn
phục khích trên bờ đổ ra giáp lá cà, tiếng hò reo vang trời dậy đất, giáo thương sáng lóa một
vùng. Quân ta càng đánh càng hăng, còn quân Xiêm giống như cá nằm trong rọ chỉ biết chờ
chết. Ánh nắng le lói đầu tiên rọi thẳng xuống sông Tiền. Sóng ầm ầm cuốn thẳng ra biển lớn,
rửa trôi hết huyết thù. Trời vừa rạng sáng thì chiến cuộc cũng đến hồi kết. Chỉ trong vòng chưa
đầy một ngày, toàn bộ quân Xiêm và quân bản bộ của Nguyễn Ánh đã đại bại. Mọi cố gắng
chống cự của Chiêu Tăng và Chiêu Sương đều bị đập tan, phải bỏ thuyền chạy theo đường
Chiêm Hóa, hướng thẳng sang Nam Vang. Chiến thuyền của giặc bị thiêu rụi và nhấn chìm.
Hàng nghìn tên cố liều chết vượt lên bờ bị bắt sống. Nguyễn Ánh cùng các tướng thân tín cũng
hốt hoảng chạy trốn ra Hà Tiên. Đám tàn quân chỉ còn lại khoảng 1 vạn, giặc 5 phần chết quá 4
phần. Chính sử nhà Nguyễn cũng viết rằng: “Người Xiêm từ sau trận thua năm giáp Thìn
(1785) ngoài miệng tuy nói khoác nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như cọp” Trận đại
thắng Rạch Gầm - Xoài Mút là minh chứng tiêu biểu cho biệt tài và phong cách cầm quân của
Nguyễn Huệ: Uy phong như rồng, mạnh mẽ như hổ, dứt khoát như đại bàng. Đánh tổng lực,
huy động mọi binh chủng thủy bộ phối hợp, đánh không lùi, đánh nhanh thắng nhanh, hổ đã
giơ nanh vuốt thì kẻ thù phải vong thân, bỏ mạng. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút đã góp
phần làm ổn định mặt trận phía Nam cho quân Tây Sơn. Đặt những nốt nhạc đầu tiên cho bản
thiên anh hùng ca mang tên Nguyễn Huệ sẽ được ngân vang mãi muôn đời. 10
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
3. LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN LÊ - TRỊNH:
Trong hoàn cảnh nghĩa quân Tây Sơn đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn, đồng thời đánh tan
quân xâm lược Xiêm thì từ nhiều năm trước đó, Nguyễn Nhạc tự xưng hoàng đế, lấy Đồ Bàn
làm kinh đô. Được biết, Đồ Bàn còn gọi là thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn) hoặc thành Hoàng Đế,
nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và các thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình
Định) 27 km về hướng Tây Bắc. Ông mở rộng về phía đông xây dựng nhiều công trình lớn. Hình ảnh của Đồ Bàn:
Tình hình Đàng Ngoài lúc bấy giờ ngày càng khó khăn. Quân Trịnh tỏ ra kiêu căng, sách
nhiễu (sách: bức hiếp; nhiễu: lấn cướp) khiến cho nhân dân Đàng Ngoài vô cùng phẫn nộ.
Trong bức thư gửi về nước đúng vào dịp quân Tây Sơn đánh ra, giáo sĩ La Bectet viết:
“Quân Đàng Ngoài đóng ở đây áp bức dân chúng một cách rất tàn ác. Bọn họ quá kiêu ngạo”.
Qua những câu nói của giáo sĩ, chúng ta có thể thấy rằng
cuộc sống của người dân vô cùng lầm than chịu cảnh bóc lột
của Quân Trịnh. Ngoài ra, tình hình mất mùa đói kém liên
tiếp xảy ra. Người trị vì lúc bấy giờ là Trịnh Sâm.
Trong những năm đầu cai trị, ông chính thức hoàn thành
công cuộc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân còn dang
dở ở dưới thời chúa cha, bên trong thì sửa sang nền chính trị,
trọng dụng nhân tài, xây dựng quân đội hùng mạnh. Bởi thế
đến năm 1774, nhân tình hình miền nam bất ổn do có cuộc
nổi dậy của Tây Sơn, ông đã chớp lấy thời cơ thu phục đất
Thuận Hóa là kinh đô của họ Nguyễn, giúp lãnh thổ Đàng
Ngoài mở rộng cục đại kể từ khi phân tranh Trịnh-Nguyễn
nổ ra đầu thế kỉ XVII. Tuy nhiên sau những thành công ban
đầu, Chúa Trịnh Sâm dần trở nên tự mãn kiêu căng ngày
càng sa vào tửu sắc, xa rời thực tế, khiến nền chính trị suy
bại, cuộc sống người dân trở nên cơ cực. Chính vì lẽ đó,
cuộc sống của người dân Đàng Ngoài vô cùng khó khăn.
Năm 1782, Trịnh Sâm qua đời, 5 năm trước khi họ Trịnh bị mất nước do bão táp của phong
trào Tây Sơn. Ngôi Chúa được truyền cho người con nhỏ là Trịnh Cán, mới lên 6 tuổi. Tuy
nhiên ông chỉ tại vị được hơn 1 tháng thì bị lật đổ bằng cuộc đảo chính của quân tam phủ nhằm
ủng hộ thế từ bị phế Trịnh Tông đứng đầu do Trịnh Khải. Trịnh Cán bị giáng xuống tước Công
và qua đời không lâu sau đó. 11
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Sau khi Trịnh Khải làm đảo chính, quân sĩ nhân đó gây nên “loạn kiêu binh”.
“Loạn kiêu binh” hay còn gọi là “Nạn kiêu binh-Kiêu binh chi loạn” tên dung
chỉ sự việc loạn lạc thời bấy giờ, do những quân lính gốc ở Thanh-Nghệ gây
ra, do cậy mình có công, đã sinh thói kiêu căng, coi thường luật lệ, đã làm
trong và ngoài triều chính thời đó hết sức điêu đứng, khổ sở. Chính quyền Lê-
Trịnh không còn có điều kiện quan tâm đến phía nam nữa.
Ở Thuận Hóa- là địa danh hành chính cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, tướng Hoàng Ngũ Phúc chết, Phạm Ngô Cầu
trấn thủ Phú Xuân- hay tên gọi bây giờ là cố đô Huế là thủ phủ Đàng Trong
dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774.
Tuy có thông tin ít nhiều về hoạt động của nghĩa quân Tây Sơn, Phạm Ngô Cầu, Hoàng Đình
Thế vẫn không có bất kì động tĩnh gì mà quân lính của chúa Trịnh thì mệt mỏi vì cảnh:
“Ba năm trấn thủ Lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan…”
Trong bối cảnh đó, một viên tướng của chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh- là nhà quân sự,
chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê Trung Hưng và Tây Sơn cũng như đã là người
mang ấn, kiếm vào phong cho Nguyễn Nhạc, đã bỏ hàng ngũ Trịnh theo về với quân Tây Sơn.
Sau khi tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và bè lũ của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ củng cố lại chính
quyền Tây Sơn ở Gia Định rồi rút về. Song, điều này
đã khiến cho các thủ lĩnh Tây Sơn nung nấu ý tưởng
chiếm lại Phú Xuân. Sau khi được sự gợi ý và đóng
góp của Nguyễn Hữu Chỉnh, tháng 6-1786, Nguyễn
Nhạc đã quyết định cử Nguyễn Huệ tiết chế quân
thủy bộ cùng Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm-
hay còn gọi là Võ Văn Nhậm là người giỏi võ nghệ,
thuộc chính quyền chúa Nguyễn, nhưng vì không
chịu tuân phục theo tuân pháp, nên bị kết tội, phải
trốn vào Quy Nhơn, sau đó gặp được Trần Quang
Diệu, Vũ Văn Nhậm được nhận làm thuộc tướng của
Tây Sơn Vương, tiến ra Phú Xuân. Dùng mưu lí gián
Hoàng Đình Thể và Phạm Ngô Cầu, nghĩa quân Tây Sơn nhanh chóng hạ thành Phú Xuân rồi
nhân đà thắng lợi, tiến ra chiếm nốt các dinh còn lại ở nam sông Gianh.Nguyễn Huệ để Nguyễn
Lữ ở lại giữ Thuận Hóa, sai người về Quy Nhơn báo cáo với Nguyễn Nhạc. Thừa thắng,
Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” đã vượt sông Gianh cấp tốc hành quân ra Bắc
đánh tan quân Trịnh, kéo quân qua Phố Hiến tiến về Thăng Long, chưa đầy hai tháng sau đó
làm chủ Thăng Long. Quân Trịnh do Hoàng Phùng Cơ rồi tiếp đó Trịnh Khải chỉ huy đều bị
đánh tan. Trịnh Khải chạy lên Sơn Tây rồi bị bắt. Với chiến thắng vẻ vang này, quân Tây Sơn
đã lật nhào ách thống trị hơn 200 năm của họ Trịnh (1545-1787) và cùng với việc tiêu diệt quân
Nguyễn ở Đàng Trong, đã tạo tiền đề cho việc thống nhất đất nước. Trong bối cảnh Bắc Hà lúc
đó, mặc dù có quyền định đoạt mọi việc nhưng với nhãn quan chính trị sáng suốt, Nguyễn Huệ 12
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
đã trao lại quyền cho vua Lê Hiển Tông và được vua Lê phong tước Uy quốc công, Vua Lê
cũng nhường cho Tây Sơn đất Nghệ An, gọi là thưởng công. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ,
Nguyễn Huệ rút quân vào Nam.
Nhưng sau khi quân Tây Sơn rút đi, một lần nữa Bắc Hà lại lâm vào cảnh rối loạn. Các mâu
thuẫn giữa các thế lực phong kiến tích chứa bấy lâu bùng phát. Dư đảng họ Trịnh bấy giờ là
Trịnh Bồng cầm đầu cố sức khôi phục lại cơ đồ. Cũng như sự ra đi của Vua Lê Hiển Tông và
sự kế vị của vua Lê Chiêu Thống, vị vua mới này chỉ lo trả thù họ Trịnh mà không lo cho đời
sống nhân dân khiến cho dân chúng đói khổ, lầm than. Nguyễn Hữu Chỉnh bấy giờ cậy có ít
công lao trong việc đưa quân Tây Sơn ra Bắc Hà, tỏ ra lộng hành, tự tiện giải quyết mọi vấn đề
chính trị, giúp đỡ cho Chiêu Thống đánh bại quân Trịnh, đốt phá phủ chúa. Trong nhân dân truyền nhau câu đối:
“Thiên hạ mất chuông chùa, chuông đã mất, đỉnh yên sao được
Hoàng thượng đốt phủ chúa, phủ đốt rồi thì điện cũng trơ”
Trước tình hình đó, Chỉnh tiếp tục chống lại Tây Sơn, cho người vào đòi lại Nghệ An. Cuối
năm 1787, Nguyễn Huệ (Bắc bình vương, làm chủ vùng đất từ Phú Xuân ra Bắc theo sự phân
chia của Nguyễn Nhạc) cử Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm đem quân ra diệt Chỉnh. Trước sự tấn
công dữ dội, Nguyễn Hữu Chỉnh và Lê Chiêu Thống rủ nhau chạy lên phía Bắc. Giữa đường
quân lính bỏ trốn, Hữu Chỉnh chạy đến Yên Thế (Bắc Giang) bị bắt và giết. Lê Chiêu Thống
trốn thoát vượt biên giới chạy sang đất Quảng Tây. Nhà Lê sụp đổ sau gần 4 thế kỉ trị vì.
Nhưng chẳng bao lâu sau đó, Nhậm cũng tỏ ra kiêu căng, thao túng mọi việc. Được thông báo
sự lộng quyền của Nhậm, Nguyễn Huệ vội vã ra Bắc, bắt giết Nhậm và giao cho Ngô Văn Sở,
Ngô Thì Nhậm và một số tướng lĩnh khác (Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tấn…)
quyền hành, chức vụ cho họ, thể hiện đúng ý thức trọng dụng người hiền tài, còn mình tự trở về lại Phú Xuân.
Như vậy hơn 15 năm khởi nghĩa, đánh nam dẹp bắc, quân Tây Sơn ngày càng lớn mạnh hoàn
thành một sự nghiệp to lớn: đánh đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê, để làm
chủ đất nước. Trong lúc tình hình chính trị Bắc Hòa đang dần ổn định thì Lê Chiêu Thống cầu
khẩn sự giúp đỡ nhà Thanh vào năm 1788. Đây chính là tín hiệu về một cuộc chiến tranh sắp
diễn ra. Ở mặt nam thì mâu thuẫn, xung đột, bất hòa xảy của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ và nhân sự thoái hóa của Nguyễn Nhạc, sự bất lực của Nguyễn Lữ, từ đất Xiêm, Nguyễn
Ánh quay trở về, một lần nữa dựa vào bọn địa chủ ở đây chiếm lại Gia Định. Sự nghiệp của
phong trào Tây Sơn vẫn chưa thật sự trọn vẹn.
4. QUÂN THANH VÀO THĂNG LONG
Chạy thoát sang được Quảng Tây, vua tôi Lê Chiêu Thống vội đến cầu cứu tuần phủ Quảng Tây là
Tôn Vĩnh Thanh và viết thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị.Cả hai mặc dầu có ý sợ quân
Tây Sơn “một phen ra tay đã đánh đổ được cả triều đình 300 năm” vẫn tỏ thái độ sẵn sàng giúp vua Lê
phục tồn để nhân đó “đặt thú binh giữ lấy An Nam”, làm một việc được hai công.Tôn Sĩ Nghị đã dâng
sớ lên vua Càn Long. Sau khi kiểm tra cẩn thận, vua Càn Long đã đồng ý.Càn Long điều động binh mã
4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu tổng cộng 29 vạn quân, đặt dưới quyền chỉ huy
của Tôn Sĩ Nghị. Quân Thanh chia làm 4 đạo ồ ạt tiến vào Đại Việt.
-Đạo quân đi theo đường Lạng Sơn do đích thân Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. 13
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
-Đạo thứ hai đi theo đường Cao Bằng dưới sự điều khiển của Tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống.
-Đạo thứ ba đi theo đường Tuyên Quang do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy.
- Đạo thứ tư theo hướng Quảng Ninh tiến vào đóng ở Hải Dương. * Lực lượng quân Thanh Chỉ huy
Chỉ huy tối cao: Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng (quan văn)
Chỉ huy yểm trợ: Phú Cương, tổng đốc Vân Quý (quan văn)
Chỉ huy đạo quân phí Đông” đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh (võ) Hai phụ tá:
(1) Tổng binh Quảng Tây Thượng Duy Thăng (phó tướng Tôn Khánh Thánh). (võ)
(2) Tổng binh Quảng Đông Trương Triều Long (phó tướng Lý Hóa Long). (võ)
Chỉ huy đạo quân phía Tây: Đề đốc Ô Đại Kinh (võ). Hai phụ tá:
(1) Tổng binh Thọ Xuân Đinh Trụ. (võ)
(2) Tổng binh Khai Hóa Tôn Khởi Giao. (võ)
Cấp bậc trong quân Thanh: Đề Đốc > Tổng binh > Phó tướng > Tham tướng > Du kích > Đô ty >
Thủ bị > Thiên tổng > Bả tổng.
Tháng 11 năm 1788, quân Thanh ồ ạt tiến vào nước ta.Quân Tây Sơn lập ba địa điểm phòng
thủ chính dựa vào ba con sông là Thọ Xương (sông Thương), Thị Cầu (sông Cầu) và Phù Lương
(sông Hồng). Ngoài ra còn có rất nhiều các vị trí phòng thủ rải rác dọc biên giới do các thổ quan,
thổ binh phòng ngự để nghi binh và cản bước tiến của quân Thanh. Các đồn lũy của Tây Sơn được
xây dựng bằng gỗ, ngoài đào hào cắm chông theo phong cách của các công trình phòng ngự ở
Đàng Trong.Thế giặc vô cùng hung hãn, lực lượng quân Tây Sơn đóng ở Lạng Sơn không chống
cự nổi, tướng Phan Khải Đức phải đầu hàng. Biết tin, Ngô Văn Sở hội các tướng bàn cách đối
phó. Trên cơ sở phân tích tương quan lực lượng của hai bên thời xưa và nay, Ngô Thời Nhậm đề
nghị : tạm rút lui vào giữ phòng tuyến Tam Điệp ( Ba Dội- Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa) để
cho quân Thanh vào Thăng Long rồi cho người cấp báo với Nguyễn Huệ đem quân ra tiêu diệt
chúng tựa như “cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi”. Ngô Văn Sở đã tán thành đề nghị, một
mặt hạ lệnh cho quân sĩ bí mật rút về Tam Điệp - Biện Sơn, một mặt cử đô đốc Nguyễn Văn Tuyết
vào Phú Xuân phi báo cho Nguyễn Huệ. Trận Thọ Xương
Suốt quãng đường từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, quân Tây Sơn chủ động rút lui tránh giao
chiến. Quân Tây Sơn phá cầu phao bắc qua sông Thọ Xương, lui về giữ bờ Nam, dựa vào địa thế
để phòng thủ. Ngày 10/12/1788 tổng binh Thượng Duy Thăng dẫn binh sĩ tiến đến bờ sông Thọ
Xương. Do sương mù dày đặc, thiên tổng Liêu Phi Hồng đem quân truy kích quân Tây Sơn, do
không biết cầu phao đã bị phá nên bị rơi xuống sông, suýt chết đuối.
Quan Thanh chặt tre kết bè làm cầu vượt sông Thọ Xương. Tổng binh Trương Triều Long
cũng dẫn 1500 quân theo đường mòn trên núi tràn xuống Tam Dị. Khi tiến đến ranh giới Tam Dị,
Trụ Hữu thì đụng độ với quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn chia làm nhiều mặt, phân binh theo cờ đỏ,
cờ trắng, cờ đen kéo đến tấn công. Sau một hồi giao chiến, quân Tây Sơn rút lui. Trương Triều 14
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Long tranh thủ sai du kích Lưu Việt phục sẵn ở thung lũng. Ngày hôm sau (11/12/1788) 200 quân
tây Sơn đến tấn công bị phục kích, phải bơi theo khe nước để lui về. Quân Thanh được thổ binh
dẫn đường, đón đánh ở khu rừng hạ lưu sông Thương. Quân Tây Sơn tan vỡ, bị bắt sống 79 người.
Trần Danh Bính vốn hàng quân Thanh từ trước, sau nhận được thư của Ngô Văn Sở thì
quay về chuộc tội, đóng quân ở Trụ Hữu. Tôn Sĩ nghị sai Tôn Khánh Thành, thủ bị Lê Chí
Minh đem 300 quân đánh úp. Trần Danh Bính bị bắt rồi xử tử. Trận Thị Cầu
Sau khi thua ở Thọ Xương, nội hầu Phan Văn Lân đem quân lên trấn giữ tại bờ Nam sông
Thị Cầu, đóng trên các sườn núi và chỗ hiểm yếu, lại dựng một loạt đồn lũy bằng tre, gỗ dọc
theo bờ sông để phòng thủ.
Ngày 12/12/1788 quân Thanh từ núi Tam Tằng tiến xuống đóng ở bắc ngạn sông Thị Cầu. Phía
Bắc sông Thị Cầu đất thấp, Phan Văn Lân tập trung súng lớn bắn sang, quân Thanh chống đỡ
không nổi phải cố gắng theo cầu phao vượt sông. Quân Tây Sơn chặn cầu phao và dùng thuyền
nhỏ đánh tới khiến nỗ lực vượt sông của quân Thanh thất bại. Hứa Thế hanh vội sai quân đắp
tường đất để ngăn đạn. Hai bên dàn pháo hai bên bờ bắn sang nhau. Trận đấu pháo kéo dài từ
trưa ngày 12 đến tận chiều tối ngày 13/12/1788.
Trận địa quân Tây Sơn khá vững chắc, lại thêm lợi thế từ cao bắn xuống nên chiếm được
ưu thế. Thấy bất lợi, các hàng binh nhà Lê đi theo quân Thanh liền hiến kế lợi dụng dòng sông
ngoằn ngoèo, tối tăm vòng ra xa rồi quay lại tập kích vào phía sau quân Tây Sơn.
Tôn Sĩ Nghị theo kế, một mặt sai dân quân dùng thuyền chở tre gỗ giả vờ vượt sông, lại bí
mật sai tổng binh Trương Triều Long đem 2000 quân lợi dụng đêm tối đi xuống 20 dặm rồi lén
vượt sông. Trương Triều Long để lại 500 quân giữ bờ sông, 1500 quân tiến lên phía trước, lại
sai các thổ dân đi trước dẫn đường. Tôn Sĩ Nghị sợ quân ít nên sai thêm tổng binh Lý Hóa
Long đem 500 quân đi tiếp ứng. Quân Tây Sơn tan vỡ, bỏ đồn lùi về Thăng Long. Theo báo
cáo của quân Thanh, trận này quân Tây Sơn chết 1000 người, 500 người bị bắt, bị tịch thu 34
khẩu đại pháo, 432 người bị bắt rồi xử trảm. Trận Phù Lương
Theo tài liệu Trung Hoa, ngày 16/12/1788, lúc trời mờ mờ sáng, quân Thanh kéo đến phía
Bắc sông Hồng, quân Tây Sơn dùng thuyền chở đại pháo bắn chặn lại. Quân Thanh cướp được
một số thuyền của ngư dân chở khoảng 100 binh sĩ vượt sông, hai bên đụng độ nhiều trận, cùng
thiệt hại. Quân Tây Sơn bị bắt mất 17 người. Quân Thanh không kiếm đâu ra tre để đóng bè
vượt sông vì tre đã bị quân Tây Sơn chặt hết để làm đồn lũy. Tờ mờ sáng ngày 17/12/1788,
Hứa Tế Hanh dẫn 200 quân cảm tử đột kích cướp được 30 chiếc thuyền nan rồi dùng thuyền đó
để chở đại quân vượt sông. Khi quân Thanh tới nơi, thành Thăng Long đã bỏ trống.
Ngày 17/12/1788. Quân Thanh tiến vào Thăng Long. Triều đình Lê Duy Cẩn lập tức ra
hàng. Quân Thanh ra tuyên cáo rồi chia quân ra đóng ở hai bên bờ sông, lại làm cầu nổi qua
sông Hồng để tiện qua lại. Một số quan lại nhà Lê xin theo quân Thanh lập công. Những đồn
nhỏ lẻ tẻ của Tây Sơn ở các nơi chưa kịp rút lui bị quân Thanh và dư đảng nhà Lê tiến đánh.
Một số làng ở Bắc Hà cũng đánh trống để hưởng ứng đoàn quân viễn chinh.
Sau khi làm chủ được Thăng Long và các xứ phía Bắc, Tôn Sĩ Nghị hốc hách, thả cho quân
mặc sức làm càn. “cướp bóc nhà giàu có”, “hãm hiếp đàn bà”. Bấy giờ theo sử cũ “luôn năm mất
mùa đói kém, nhất là năm ấy lại càng quá lắm”, “triều đình đốc thúc quân lương, các châu huyện 15
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
đều không cung ứng”, “bao nhiêu lương tiền thu được của dân đều đem cung đốn cho họ hết sạch”.
Trước tình hình đó chính bà Thái hậu cũng phải kêu lên “ Thôi! Diệt vong đến nơi rồi”.
5. QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN XÂM LƯỢC
Cuối năm 1788, vua Thanh đương thời là Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị
chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động từ Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quý Châu hộ tống Lê Chiêu
Thống về Việt Nam với danh nghĩa phù Lê, vào chiếm đóng Thăng Long.
Càn Long còn đặc cử Phúc Khang An chuyên trách hậu cần. Theo sách Thánh vũ ký, phần
"Càn Long chinh phủ An Nam ký" của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập
trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai đường Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng
Long. Riêng chặng đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân
lương trong khi Tôn Sĩ Nghị hành quân.
Quân Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, chủ
động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) cố thủ chờ lệnh.
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc Bình vương
Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lý do vua Lê đã bỏ nước và rước giặc về, để có
danh nghĩa chính thống, (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ
An, dừng quân Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng,
nâng quân số lên 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ngoài ra
còn có một đội tượng binh với hơn 100 voi chiến. Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh
ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm
lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Đạo thứ nhất đánh thẳng vào các đồn lũy phía nam Thăng Long vầ là đạo quân chủ
lực, do Quang Trung trực tiếp chỉ huy.
Đạo thứ hai do đô đốc Long (tức Đặng Tiến Đông) chỉ huy, đánh vào đồn Khương
Thượng rồi qua cửa Tây Nam thọc sâu vào Thăng Long.
Đạo thứ ba do đại đô Bảo chỉ huy, tiến vào Đại Ấng (Thường Tín – Hà Tây), chuẩn
bị tham gia tiêu diệt đồn Ngọc Hồi.
Đạo thứ tư do đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển lên đóng ở Hải Dương uy hiếp mật động của quân giặc.
Đạo thứ năm do đại đô đốc Lộc chỉ huy, vượt biển vào sông Lục Đầu sẵn sàng tiêu
diệt tàn quân của giặc.
Vì kế hoạch đã được định ra rõ ràng, vua Quang Trung nghĩ đến 3 ngày lễ Tết cổ truyền của
dân tộc nên đã quyết định mở tiệc khao quân, gọi là ăn Tết trước, và hứa hẹn chờ “đến ngày
khai hạ sẽ ăn Tết tại kinh thành Thăng Long, mừng chiến thắng”.
Hoàng đế Quang Trung hạ dụ: “Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. 16
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Đoàn quân Quang Trung ra Bắc bằng bước đi thần tốc, ngày 25/1 tức 30 tháng Chạp, đúng
giao thừa năm Kỷ Dậu, đã mở màn chiến dịch đại phá quân Thanh ngay trên đất Thăng Long,
mở cửa vào ở phía Nam và phía Tây.
“Ta đến mà giặc không biết,
Ta đánh mà giặc không đề phòng, Ta nhất định thắng”. Các đồn tiền tiêu
của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật
Tảo lần lượt bị hạ. Nửa đêm ngày mồng 3 Tết bao
vây đồn Hà Hồi (Thường Tín), buộc quân địch
phải bỏ giáo đầu hàng, đồn
Hà Hội được diệt gọn. Sau đó đạo quân
tiếp tục tiến quân ngay lên đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì) chỉ cách Thăng Long 14 km. Theo phân bố
của Tôn Sĩ Nghị, đồn Ngọc Hồi giữ vị trí then
chốt ở mặt nam Thăng Long và sẽ do phó tướng Hứu Thế Hanh chỉ huy.
Mồng 4 Tết, Tôn Sĩ Nghị cùng binh lính nhà Thanh vẫn đang vui vẻ ăn uống thì hay tin:
“quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết rồi!”. Quân sĩ nhà Thanh cũng
hoảng hốt: “Thật là tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Tôn Sĩ Nghị nhanh
chóng kêu gọi tăng viện trấn giữ đồn Ngọc Hồi.
Vua Quang Trung nhanh chóng nhận được tin về hai đạo quân của đô
đốc Long và đại đô đốc Bảo, người đã đề ra kế hoạch tác chiến và
chuẩn bị đầy đủ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ngày mồng 5 Tết Kỉ
Dậu tức ngày 30 tháng 1 năm 1789 nhân lúc trời còn chưa sáng, quân ta
nhanh chóng tiến về phía Ngọc Hồi, lúc bấy giờ Hứa Thế Hanh lập
tức ra lệnh cho đội kị binh thiện chiến xông ra nghênh chiến.
Đoàn voi chiến phe ta chia thành hai cánh tả, hữu mở đường cho đội
xung kích tiến lên. Quân ta với dao ngắn dắt bên hông, cùng trang bị
một tấm mộc lớn được quấn rơm ướt mặt ngoài xông lên phía trước,
phía sau có khoảng 20 chiến sĩ đi theo, kết thành những bức tường di
động chặn đạn đại bác cùng cung tên của phe địch nhằm áp sát chân lũy, quân ta bỏ các tấm
mộc xuống, rút dao và các loại vũ khí khác xông vào chiến đấu dữ dội cùng phe địch. Với sự
chỉ huy tài ba của Quang Trung, hàng vạn quân ta ào ạt tiếp chiến, xạ tiễn được bắn ra dữ dội
gây khó khăn cho quân địch. Không thể chống đỡ tiếp, quân địch quay đầu bỏ chạy tán loạn.
“Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối”. Hứa
Thế Hanh, Thượng Duy Thăng tử trận. Đồn Ngọc Hồi toàn thắng. 17
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Quân Thanh chạy về phía Thăng Long, bị ta dồn về làng Quỳnh Đô. Tiếp đến, đạo quân của
đô đốc Đông tấn công dồn dập vào đồn Khương Thượng – Đống Đa. Quân địch chống đỡ yếu
ớt rồi rạn nứt, Sầm Nghi Đống tuyệt vọng, tự vẫn.
Quân ta thừa thắng xông lên, đô đốc Đông tiến về trung tâm Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị nghe tiếng binh lính ngày càng gần, y hốt
hoảng, chỉ còn cách trốn chạy “ngựa không kịp đóng
yên, người không kịp mặc áo giáp”. Y chạy qua cầu
phao, rút về nước song cầu bị gãy vì quá tải, hàng
ngàn quân bị đẩy xuống sông mà chết.
Như vậy, tính từ ngày 16/12/1788, quân Thanh đã chiếm giữ
thành Thăng Long được 45 ngày và cuối cùng khi Vua Quang
Trung dẫn đầu đoàn hùng binh vào quét sạch quân thù xâm
lược, quân ta đã toàn thắng và lấy lại được kinh thành Thăng Long.
Với tinh thần nhân đạo, nhà Vua cho chôn cất mấy vạn quân
xâm lược thành 7 gò đắp cao, nay còn lại 1 gò là gò Đống Đa,
để làm nơi di tích trận đánh.
Chiến thắng Kỷ Dậu 1789 là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất
trong lịch sử Việt Nam và cũng được các nhà nghiên cứu Việt Nam như Nguyễn Lương
Bích và Phạm Ngọc Phụng đánh giá là chiến công oanh liệt nhất của hoàng đế bách chiến bách
thắng Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh
dưới thời Càn Long thịnh trị. III. KẾT LUẬN:
Như vậy nhờ có ý chí đấu tranh chống lại bọn cường hào chuyên đi áp bức bóc lột, tinh thần
yêu nước, sự đoàn kết của dân tộc và sự hi sinh cao cả của nhân dân ta. Cùng với sự lãnh đạo 18
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
tài tình, sáng suốt của người anh hùng dân tộc vĩ đại Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân mà
chúng ta đã thành công lật đổ ách thống trị thối nát và tàn bạo để viết lên một trang sử hào hùng của dân tộc.
Nhờ vào chiến thắng của phong trào Tây Sơn trong việc lật đổ chính quyền phong kiến thối nát
Nguyễn - Trịnh – Lê đã xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất
quốc gia theo hình hài một Việt nam hoàn thiện hình chữ S. Bên cạnh đó thắng lợi của phong
trào Tây Sơn trong việc chống lại quân xâm lược Xiêm và Thanh còn có ý nghĩa lịch sử to lớn
trong việc giải phóng đất nước, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc và một lần nữa đập tan tham
vọng xâm lược nước ta của các đế chế quân chủ phương Bắc.
Sau những thắng lợi bước đầu của phong trào Tây Sơn, các vương triều Tây Sơn được thành
lập. Nhờ những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một tư tưởng tiến bộ
nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài để vươn
lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo
khả năng mở đường, phát triển của đất nước, của dân tộc. 19
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc chủ biên
(2) Việt Nam một thiên lịch sử, Nguyễn Khắc Viện
(3) Đại cương Lịch sử Việt Nam Tập I – Nhà xuất bản Giáo dục
(4) vi.wikipedia Trận Ngọc Hồi – Đống Đa 20
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)