





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61463864
PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA DÂN TỘC H’MÔNG VÙNG TÂY
BẮC VÀ MIỀN NÚI THANH NGHỆ 1. Khái quát chung
Nếu bạn chuẩn bị có 1 hành trình ghé thăm vùng đất Tây Bắc và miền
núi Thanh Hóa, Nghệ An thì bạn nên tìm hiểu qua về Dân tộc H'Mông,
bởi nơi đây là vùng đất tập trung đông đúc đồng bào dân tộc H’Mông của nước ta.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’Mông ở Việt
Nam có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh
sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành
phố; trong đó tại các tỉnh Tây Bắc và vùng núi Thanh – Nghệ thì dân
số tại đây là: Điện Biên - 170.648 người, Sơn La - 157.253 người,
Lào Cai - 146.147 người, Lai Châu - 83.324 người, Yên Bái - 81.921
người, Hòa Bình –158.000 người, Thanh Hóa – 14.917 người và Nghệ An – 33.957 người.
Tiếng Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương
án chữ Mông theo tự dạng Latin đã được chính phủ Việt Nam phê
chuẩn (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm ngành Mông Lềnh
Sa Pa — Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành Mông
khác, gồm 59 phụ, 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào
học chữ Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía
Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người Mông sinh sống. 2. Ẩm thực
- Ăn uống của ngươi H’Mông dựa vào nguồn lương thực từ trồng trọt,
chăn nuôi và khai thác các sản vật trong tự nhiên.
- Trước kia, họ thường ăn ngô xay nấu thành bột, hoặc nấu chín nửa
vời rồi đồ lên, thường ngày họ ăn cơm gạo tẻ trong theo cách chế biến
đồ trong chò gỗ. Đa số các món ăn thường được chế biến theo cách
luộc hoặc xào. Các loại thịt nếu có nhiều ăn tươi không hết thì họ
thường để dành bằng cách sấy khô để trên giàn bếp.
- Người H’Mông xúc thức ăn bằng thìa gỗ, dùng đũa chỉ là phụ. -
Khi có khách phụ nữ không được ngồi ăn chung, chủ nhà bao giờ
cũng ngồi ở trên, lưng quay vào bức vách hậu gian giữa.
- ở đây, người h’mông có 1 số món ăn nổi tiếng như: • Thịt trâu gác bếp
• Măng đắng: ta có thể dùng để chế biến các món hầm xương,
muối,… đơn giản nhất là món măng đắng luộc chấm gia vị
khiến ai đã từng ăn 1 lần thì khó có thể quên được hương vị của nó.
• Mèn mén: người h’mông và các cư dân trồng ngô ở đây theo
kiểu đồ bột( mèn mén), họ dùng nước rưới bột ngô rồi trộn đều. lOMoAR cPSD| 61463864
Mỗi ngày họ chỉ làm mèn mén 1 lần và dùng cho cả 3 bữa trong
ngày. Do món mèn mén là bột ngô đồ khô nên trong bữa ăn họ
thường ăn kèm với món canh.
• Rượu ngô: là món đặc sản nổi tiếng, bếp ở nhà người h’mông
nào cũng có 1 chảo to để nấu rượu ngô
• Thắng cố: theo các cụ già người h’mông truyền lại: trước kia
người ta chỉ chế biến thắng cố từ thịt ngựa và chỉ bằng thịt ngựa
mới. nhưng đến ngày nay thắng cố còn được chế biến bằng thịt
trâu, thịt dê, thịt lợn,.. 3. Trang phục
- Trang phục truyền thống của người H'Mông vùng Tây Bắc Việt
Nam có đặc điểm riêng biệt và đa dạng. Mỗi dòng tộc H'Mông
trong khu vực này đều có phong cách trang phục riêng, nhưng
chung quy lại có những đặc trưng chung.
• Nam giới thường mặc áo khoác dài màu đen hoặc xanh đen,
thường được làm từ vải bố hoặc vải thô. Áo khoác có thiết kế
cổ áo cao, có nút hoặc dây cài phía trước. Phần vai áo thường
được trang trí bằng các họa tiết thêu tay phức tạp và các chi tiết
sắc sảo. Quần dài thường màu đen hoặc xanh đen, được cột chặt
bằng dây hoặc thắt lưng. Ngoài ra, nam giới còn có thể đội mũ
nón tròn màu đen hoặc xanh đen.
• Phụ nữ H'Mông thường mặc áo dài đến gối hoặc dưới gối,
thường làm từ vải màu đen hoặc xanh đen. Áo có thiết kế cổ áo
cách điệu, được trang trí bằng các họa tiết thêu tay tinh xảo và
các chi tiết phức tạp. Vòng cổ và tay áo thường được trang trí
bằng các dải vải màu sắc tương phản. Quần dài thường màu đen
hoặc xanh đen, được cột chặt bằng dây hoặc thắt lưng. Ngoài
ra, phụ nữ còn có thể đội mũ nón tròn tương tự như nam giới.
- Trang phục truyền thống của người H'Mông vùng Tây Bắc thường
rất đa dạng và đẹp mắt. Màu sắc đen và xanh đen là màu chủ đạo
trong trang phục của họ, tạo nên vẻ nổi bật và trang nhã.
- Người H'Mông vùng Tây Bắc có nhiều phụ kiện trang trí đặc biệt
và đa dạng như Vòng cổ, Vòng tay và vòng chân, Nón tròn, Dây
đeo ngực, Móc khuyên tai,...
- Ngày nay, cũng giống như người anh em dân tộc Tày, một số bộ
phận nhỏ dân tộc H'Mông cũng bắt đầu kết hợp trang phục dân tộc
với quần áo hiện đại giống dân tộc Kinh để tiện hơn cho việc sinh
hoạt, sản xuất thường nhật. lOMoAR cPSD| 61463864
4. Tôn giáo, tín ngưỡng và một số nét văn hóa khác
Tây Bắc là nơi tập trung phần lớn người H’Mông của nước ta. Và nền
văn hóa của họ được đặc trưng bởi nhiều phong tục, tập quán và giá
trị truyền thống. Dưới đây là một số điểm nổi bật về văn hóa của người H'mông vùng Tây Bắc:
1. Ngôn ngữ và văn hóa lisan: Người H'mông vùng Tây Bắc sử
dụngngôn ngữ H'mông để giao tiếp hàng ngày. Họ truyền đạt và lưu
giữ kiến thức, truyền thống qua văn hóa lisan, trong đó có truyện, ca
dao, bài hát và hát xẩm.
2. Nghệ thuật dệt và thêu: Người H'mông vùng Tây Bắc nổi tiếng
vớinghệ thuật dệt và thêu tay tinh xảo. Họ tạo ra những sản phẩm như
váy, khăn, túi xách và gối bằng cách dệt và thêu các hoa văn phức tạp.
3. Đờn ca tài tử H'mông: Đây là một nghệ thuật âm nhạc truyền thống
của người H'mông vùng Tây Bắc. Đờn ca tài tử H'mông thường được
biểu diễn trong các dịp lễ hội, buổi hòa nhạc và các sự kiện quan trọng khác.
4. Tín ngưỡng tôn giáo: Người H'mông vùng Tây Bắc có nhiều tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau, bao gồm Đạo Mông, Đạo Hoàng, Đạo
Công Giáo và Đạo Thiên Chúa. Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong
đời sống hàng ngày của họ và ảnh hưởng đến các nghi lễ, lễ hội và tập quán.
5. Lễ hội và tập quán: Người H'mông vùng Tây Bắc có nhiều lễ hội và
tập quán phong phú. Một số lễ hội nổi tiếng bao gồm Lễ hội Pao Dung,
Lễ hội Kỳ Cùng và Lễ hội Cầu Mây. Những lễ hội này thường diễn ra
vào mùa xuân và mùa thu và được tổ chức để cầu nguyện cho mùa
màng bội thu, sức khỏe và may mắn.
5. Phong tục cưới xin của người H’Mông ở Tây Bắc và vùng núi
Thanh – Nghệ
- Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập quán tự do kén
chọnbạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên
nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện
ở tục “cướp vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người
con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình
nhà gái biết, nếu như người con gái đó không phản kháng hay tìm cách
bỏ trốn khỏi nhà người con trai thì tức là cô gái đó cũng đồng ý lấy
người con trai ấy. Và vợ chồng người H’mông rất ít bỏ lOMoAR cPSD| 61463864
nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ… - Cụ thể:
• Đám cưới của người Mông Thường được tổ chức vào mùa xuân hay
cuối mùa đông vì đồng bào dân tộc Mông kiêng những tháng có sấm
sét. Người ta quan niệm mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở
mà con người không nằm ngoài vòng quay đó.
• Trước những cuộc gặp gỡ, giao duyên và nên vợ nên chồng như vậy ,
mỗi dịp chợ phiên, nhất là dịp Tết của người H'Mông trai , gái đều ở
lại rủ nhau xuống chợ để có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu nhau
• Theo phong tục của người H'Mông, hôn nhân phải đủ nghi lễ như dạm
hỏi, ăn hỏi và lễ đón dâu, tất cả đều được tổ chức vào ngày lành tháng tốt
• Nam nữ không được gặp nhau trong một khoảng thời gian trước khi
kết hôn, dân gian thường gọi là “không gặp mặt trước hôn nhân”
• Lễ dặm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông thuộc các bài hát nghi
lễ cưới xin mà tiếng dân tộc Mông gọi là “ dè sông ” giúp nhà trai sang
nhà gái làm các thủ tục dặm hỏi hẹn ngày đón dâu.Ngoài ra còn có các
phù dâu phù rể do chính nhà trai chọn
• Để chuẩn bị cho đám cưới, gia đình chú rể sẽ chuẩn bị sắm đồ sính lễ
. Ngoài thịt lợn, thịt gà, tiền mặt và một số vật dụng, thuốc lào và rượu
ngô là hai thứ không thể thiếu khi mở đầu câu chuyện. tiền mặt khoảng
từ hai triệu đến mười triệu. Ngoài ra trong số lễ cưới này, có một chiếc
bánh ngô nếp to và dày, được làm từ 25 đến 30 kg gạo và ngô nếp, to
như cái mâm, mang ý nghĩa đoàn tụ, sum vầy.
• Đặc biệt hơn là trong lễ cưới nào nhà trai cũng phải chuẩn bị một chiếc ô dài màu đen
• Vào ngày cưới, cả nam và nữ sẽ tiếp đãi họ hàng, bạn bè và những
người cùng làng ở bản nhà
• Đám cưới người H'Mông bao giờ cũng có phù rể. trưởng đoàn (ông
mối) sẽ hướng dẫn chú rể cùng phù rể vái lạy tổ tiên trời đất (2 lạy tổ
tiên, 2 lạy phía ngoài lạy trời đất) rồi đi một vòng quanh bàn để xin
phép. Sau đó, họ chuẩn bị lên đường đi đón dâu.
• Sau khi ông mối hát bài "Xin chiếc ô đen" và nhận từ tay trưởng họ
túi vải, ô, đoàn đón dâu sẽ đến cửa nhà gái. Người ta quan niệm ô để
che mưa nắng trên đường rước râu, còn túi để dựng những vật dụng
cần thiết của cô dâu khi về nhà chồng.
• Khi đến nhà gái, nếu thấy cửa đóng, ông mối sẽ phải hát bài "Xin mở
cửa". Thường thì gia đình cô dâu đã mở cửa sẵn sàng đón khách. Lời
hát bài “Xin bàn ghế” của ông mối vừa dứt thì bàn rượu được bày ra
và gia đình 2 bên cùng nhau uống rượu. Ông mối bàn giao đồ lễ cho lOMoAR cPSD| 61463864
nhà gái gồm thịt lợn, thịt gà, rượu ngô, mèn mén, cơm xôi, tiền mặt...
Cô dâu lúc này cũng đã chuẩn bị xong bộ trang phục truyền thống.
Sau khi nhà trai xin phép, phù dâu sẽ vào buồng và dắt cô dâu ra ngoài.
Phù rể sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi rước dâu đi.
• Đám đón dâu đi lẻ về chẵn, theo phong tục nhà gái không đưa dâu đến
nhà trai. Quãng đường đón dâu về nhà trai dù xa hay gần thì cũng nhất
thiết phải nghỉ giữa chừng ăn cơm nắm do nhà gái chuẩn bị sẵn. bày
đồ ăn thức uống ra để ông mối làm lễ mời các vị thần. đều không được
dùng thìa để ăn mà phải bốc hoặc ăn bằng đũa tự vót giữa đường ,
không được uống rượu bằng chén mà uống bằng lá.
• Cô dâu về tới trước cửa nhà trai còn phải làm một nghi lễ nhập ma nhà
chồng mới được vào cửa
• Cỗ tiệc ở nhà trai lúc này cũng đã được bày sẵn, trưởng họ nhà trai
mời tất cả mọi người trong bản, gia đình nhà gái ở lại phá cỗ mừng dâu mới.
• Khi về nhà chồng, đám cưới kết thúc, gia đình nhà chồng bày một
mâm cơm cúng tổ tiên để ra mắt con dâu.
• Chính vì một tập tục cưới xin rất cầu kỳ, rất đặc sắc như vậy, có thể
nói người Mông có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe xong
bên trong đó chứa đựng các yếu tố nhân văn rất tình người. Được xử
lí linh hoạt trên cơ sở đoàn kết thương yêu, nó chính là nhân tố để giữ
gìn sự gắn bó của cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa độc đáo của họ
• Bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Mông đã đóng góp và làm phong
phú cho nền văn hóa Việt Nam “ thống nhất trong đa dạng, đa dạng trong thống nhất” . lOMoAR cPSD| 61463864