Phong tục hôn nhân viên và gia đình/trường đại học ngoại ngữ, đại học Đà Nẵng

Ngày xưa, hôn nhân của người Việt ta có 6 lễ:

Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian

-      Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian thời gian tự động yêu cầu và quyết định kết hôn), thì lúc này nhà trai mang sang nhà gái một đôi "nhạn" để bày tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.

-      Lễ vấn: Đúng như lời gọi tên của lễ: Vấn là hỏi, danh là tên. Như vậy lễ vấn là lễ do nhà trai sai người làm mối quan hệ hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng sinh của người con gái để về xem tuổi, xem mệnh hai người có hợp không có nhau.

-      Lễ nạp cát: Lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi thì nên lấy nhau, nếu xung quanh giải quyết thì thôi.

Lễ nạp tiền (hay tải trưng): là lễ nạp đồ lễ 

Phong tục hônnhân viên và gia đình
Phong tục là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đại đa
số lượng người thừa nhận và làm theo.
TÔI. Phong tục hôn nhân
Hệ thống truyền thông hôn nhân của người Việt Nam không phải là việc làm của hai người
mà là việc “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái. This command xuất phát từ quyền
lợi ích của tập thể.
1. Tập tục hôn nhân:
Ngày xưa, hôn nhân của người Việt ta có 6 lễ:
Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian
- Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian
thời gian tự động yêu cầu và quyết định kết hôn), thì lúc này nhà
trai mang sang nhà gái một đôi "nhạn" để bày tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
- Lễ vấn: Đúng như lời gọi tên của lễ: Vấn là hỏi, danh là tên. Như vậy lễ
vấn là lễ do nhà trai sai người làm mối quan hệ hỏi tên tuổi và ngày sinh
tháng sinh của người con gái để về xem tuổi, xem mệnh hai người có hợp
không có nhau.
- Lễ nạp cát: Lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi thì nên lấy nhau, nếu xung quanh giải quyết thì thôi.
- Lễ nạp tiền (hay tải trưng): là lễ nạp đồ lễ lễ cho nhà gái, là tang vật
cho sự chắc chắn của lời hứa.
- Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm dâu mừng lễ cưới.
- Lễ thân nghinh (có nơi còn gọi là lễ thành nghinh) (tức lễ lễ dâu hay lễ
Đám cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Hiện nay, hôn nhân ở nước ta chỉ còn 3 lễ chính là:
- Lễ hội ngõ: Đây là một lễ tấn công chính thức hóa quan hệ hôn nhân của
hải gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam
nữ được tự động đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu một cách kỹ năng hơn
hơn, trước khi đi đến quyết định nhân.
- Lễ ăn hỏi: lễ này được xem như hỏng một thông báo chính thức của 2 bêngia
đình về việc hứa gả con cái cho nhau.
- Lễ cưới: là lễ cuối cùng và cũng là lễ quan trọng nhất, nhà trai sẽ chính
biểu thức được rước dâu về. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã chính thức
giấy chứng nhận đăng nhập cấp quyền.
2. Ý nghĩa của tập nhân:
2.1. Phúc lợi lợi gia tộc:
- Hôn nhân xác lập quan hệ giữa hai tộc tộc. Vì vậy, điều đầu tiên cần làm là
đơn vị chọn một dòng họ, một gia đình xem cửa nhà hai bên có tương xứng
không, có đăng ký không.
- Đối với cộng đồng gia tộc, hôn nhân là công cụ duy nhất và chắc chắn để
duy trì theo dõi và phát triển nguồn nhân lực.
- Không chỉ có ý nghĩa duy trì nòi lợi tương tự, Hôn nhân còn làm cho gia đình:
con gái phải đảm bảo giải quyết vát, tặng lại nguồn vật chất cho gia đình
nhà chồng, con trai phải hảo giang, đem lại vẻ vang ( nguồn tinh thần)
cho gia đình nhà vợ: “Trai không kén vợ thoáng, Gái không kén chồng giữa
chốn ba quân”, …
2.2. Phn ứng lợi ích của làng xã:
- Mối quan tâm hàng đầu của người Việt Nam là sự ổn định của làng xã, vì
như vậy có truyền thống khinh thường ngụ cư. Do đó, nhắm mục tiêu tạo mục tiêu
sư ổn định, nên đã hình thành quan niệm lựa chọn vợ chồng cùng làng: Ruộng
đầu chợ, vợ giữa làng; Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng; Lấy khóa khó
10:50 5/9/24
<font style="vertical-align: inherit;"><font style="vertical-align: inherit;">Phong tục …
about:blank
1/2
giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ,… Việc phân biệt dân chính cư- dân
đại diện cho phương tiện hành động chính, việc chọn vợ chọn chồng cùng làng là
phương tiện tâm lý, tiếp tục đóng góp vai trò trò chơi là phương tiện kinh tế. Khí
lấy vợ, nhà trai phải phụ thuộc cho làng xã nữ một tài khoản phí gọi là
“cheo” thì đám cưới mới được công nhận là hợp pháp: “Lấy vợ thì phải phụ
heo cho làng; Lấy vợ mười heo, không cheo cũng mất,…”. Người cùng làng
lấy nhau thì cheo ít, gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì chèo rất rặng
(gấp 2, gấp 3 cheo nội)
- Nhìn chung, lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì cộng đồng
đồng, tập thể: ví dụ có thể kể đến cuộc hôn nhân giữa Mỵ Châu – Trọng
Thủy; công chúa Huyền Trân – vua Chàm Chế Mân; công chúa Ngọc Hân –
Nguyễn Huệ...
2.3. Đáp ứng nhu cầu riêng tư
Trước hết là sự phù hợp của đôi trai gái được xem xét bằng việc hỏi tuổi
xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau không, nếu xung quanh giải quyết thì thôi.
- Thời Hùng Vương khi cưới, có tiếp tục trao nhau nắm đất và gói muối: nắm
đất tượng trưng cho lời nói gắn bó với đất đai – làng xóm; gói là muối
lời chúc cho tình huống giữa người mặn mà thủy chung, như trong ca
dao ta có câu: Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
- Hiện nay, vẫn tiếp tục bổ sung gói bánh phu nhân
Ngoài ra, Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu cũng rất được chú ý. Mẹ chồng và
nàng dâu thường hay có những độc lập vì những chuyện nhỏ nhỏ
không đâu, vì thế khi cô dâu mới bước vào nhà, có mẹ chồng bình bình
chanh tạm thời sang nhà hàng xóm – có ý dưng quyền “nội tướng”
quản lý trong gia đình) cho con dâu trong tương lai. Nhưng đó là trong
tương lai, còn hiện tại thì chưa, bởi vì theo quan niệm dân gian, Chiếc bình
vôi là biểu tượng cho quyền lực của phụ nữ và tài sản trong gia đình.
Cho nên khi người mẹ chồng ôm chiếc bình vôi mang theo sang nhà hàng
lồng ý rằng mẹ chồng vẫn muốn nắm quyền hành động trong nhà,
không muốn cho dâu thay thế.
So sánh xưa và nay:
- Ngày xưa: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”
- Ngày nay: Con cái có quyền tự do được yêu cầu, không bị ảnh hưởng bởi sự thật
sắp đặt bố mẹ miễn là không vi phạm những điều luật luật pháp
định
10:50 5/9/24
<font style="vertical-align: inherit;"><font style="vertical-align: inherit;">Phong tục …
about:blank
2/2
| 1/2

Preview text:

10:50 5/9/24 Phong tục …
Phong tục hônnhân viên và gia đình
Phong tục là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đại đa
số lượng người thừa nhận và làm theo. TÔI. Phong tục hôn nhân
Hệ thống truyền thông hôn nhân của người Việt Nam không phải là việc làm của hai người
mà là việc “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái. This command xuất phát từ quyền lợi ích của tập thể. 1. Tập tục hôn nhân:
Ngày xưa, hôn nhân của người Việt ta có 6 lễ:
Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian -
Lễ tải thái: sau khi bầu hôn (tức là sau khi 2 bên trải qua một khoảng thời gian
thời gian tự động yêu cầu và quyết định kết hôn), thì lúc này nhà
trai mang sang nhà gái một đôi "nhạn" để bày tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy. -
Lễ vấn: Đúng như lời gọi tên của lễ: Vấn là hỏi, danh là tên. Như vậy lễ
vấn là lễ do nhà trai sai người làm mối quan hệ hỏi tên tuổi và ngày sinh
tháng sinh của người con gái để về xem tuổi, xem mệnh hai người có hợp không có nhau. -
Lễ nạp cát: Lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi thì nên lấy nhau, nếu xung quanh giải quyết thì thôi. -
Lễ nạp tiền (hay tải trưng): là lễ nạp đồ lễ lễ cho nhà gái, là tang vật
cho sự chắc chắn của lời hứa. -
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm dâu mừng lễ cưới. -
Lễ thân nghinh (có nơi còn gọi là lễ thành nghinh) (tức lễ lễ dâu hay lễ
Đám cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về. 
Hiện nay, hôn nhân ở nước ta chỉ còn 3 lễ chính là: -
Lễ hội ngõ: Đây là một lễ tấn công chính thức hóa quan hệ hôn nhân của
hải gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam
nữ được tự động đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu một cách kỹ năng hơn
hơn, trước khi đi đến quyết định nhân. -
Lễ ăn hỏi: lễ này được xem như hỏng một thông báo chính thức của 2 bêngia
đình về việc hứa gả con cái cho nhau. -
Lễ cưới: là lễ cuối cùng và cũng là lễ quan trọng nhất, nhà trai sẽ chính
biểu thức được rước dâu về. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã chính thức
giấy chứng nhận đăng nhập cấp quyền.
2. Ý nghĩa của tập nhân: 2.1.
Phúc lợi lợi gia tộc: -
Hôn nhân xác lập quan hệ giữa hai tộc tộc. Vì vậy, điều đầu tiên cần làm là
đơn vị chọn một dòng họ, một gia đình xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có đăng ký không. -
Đối với cộng đồng gia tộc, hôn nhân là công cụ duy nhất và chắc chắn để
duy trì theo dõi và phát triển nguồn nhân lực. -
Không chỉ có ý nghĩa duy trì nòi lợi tương tự, Hôn nhân còn làm cho gia đình:
con gái phải đảm bảo giải quyết vát, tặng lại nguồn vật chất cho gia đình
nhà chồng, con trai phải hảo giang, đem lại vẻ vang ( nguồn tinh thần)
cho gia đình nhà vợ: “Trai không kén vợ thoáng, Gái không kén chồng giữa chốn ba quân”, … 2.2.
Phn ứng lợi ích của làng xã: -
Mối quan tâm hàng đầu của người Việt Nam là sự ổn định của làng xã, vì
như vậy có truyền thống khinh thường ngụ cư. Do đó, nhắm mục tiêu tạo mục tiêu
sư ổn định, nên đã hình thành quan niệm lựa chọn vợ chồng cùng làng: Ruộng
đầu chợ, vợ giữa làng; Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng; Lấy khóa khó about:blank 1/2 10:50 5/9/24 Phong tục …
giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ,… Việc phân biệt dân chính cư- dân
đại diện cho phương tiện hành động chính, việc chọn vợ chọn chồng cùng làng là
phương tiện tâm lý, tiếp tục đóng góp vai trò trò chơi là phương tiện kinh tế. Khí
lấy vợ, nhà trai phải phụ thuộc cho làng xã nữ một tài khoản phí gọi là
“cheo” thì đám cưới mới được công nhận là hợp pháp: “Lấy vợ thì phải phụ
heo cho làng; Lấy vợ mười heo, không cheo cũng mất,…”. Người cùng làng
lấy nhau thì cheo ít, gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì chèo rất rặng (gấp 2, gấp 3 cheo nội) -
Nhìn chung, lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì cộng đồng
đồng, tập thể: ví dụ có thể kể đến cuộc hôn nhân giữa Mỵ Châu – Trọng
Thủy; công chúa Huyền Trân – vua Chàm Chế Mân; công chúa Ngọc Hân – Nguyễn Huệ... 2.3.
Đáp ứng nhu cầu riêng tư
Trước hết là sự phù hợp của đôi trai gái được xem xét bằng việc hỏi tuổi
xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau không, nếu xung quanh giải quyết thì thôi. -
Thời Hùng Vương khi cưới, có tiếp tục trao nhau nắm đất và gói muối: nắm
đất tượng trưng cho lời nói gắn bó với đất đai – làng xóm; gói là muối
lời chúc cho tình huống giữa người mặn mà thủy chung, như trong ca
dao ta có câu: Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau -
Hiện nay, vẫn tiếp tục bổ sung gói bánh phu nhân 
Ngoài ra, Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu cũng rất được chú ý. Mẹ chồng và
nàng dâu thường hay có những độc lập vì những chuyện nhỏ nhỏ
không đâu, vì thế khi cô dâu mới bước vào nhà, có mẹ chồng bình bình
chanh tạm thời sang nhà hàng xóm – có ý dưỡng quyền “nội tướng”
quản lý trong gia đình) cho con dâu trong tương lai. Nhưng đó là trong
tương lai, còn hiện tại thì chưa, bởi vì theo quan niệm dân gian, Chiếc bình
vôi là biểu tượng cho quyền lực của phụ nữ và tài sản trong gia đình.
Cho nên khi người mẹ chồng ôm chiếc bình vôi mang theo sang nhà hàng
lồng ý rằng mẹ chồng vẫn muốn nắm quyền hành động trong nhà,
không muốn cho dâu thay thế.
So sánh xưa và nay: -
Ngày xưa: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” -
Ngày nay: Con cái có quyền tự do được yêu cầu, không bị ảnh hưởng bởi sự thật
sắp đặt bố mẹ miễn là không vi phạm những điều luật luật pháp định about:blank 2/2