Phương pháp học tập của sinh viên - Sinh viên đại học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Nắm được những vấn đề chung về phương pháp học tập, phương pháp học tập ở bậc đạihọc - Nhận biết được các phương pháp học tập ở bậc đại học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
CHƯƠNG II PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Mục tiêu chương:
- Nắm được những vấn đề chung về phương pháp học tập, phương pháp học tập ở bậc đại học
- Nhận biết được các phương pháp học tập ở bậc đại học
- Rèn luyện các phương pháp học tập cá nhân, phương pháp học tập nhóm, phương pháp
xây dựng kế hoạch học tập
2.1. Những vấn đề chung về phương pháp học tập ở bậc đại học
2.1.1. Phương pháp học tập
Phương pháp là gì?
Theo cách giải nghĩa từ: phương là hướng, pháp là phép, phép tắc; là định hướng
triển khai các phép, giải quyết một vấn đề nào đó.
Với cách hiểu lý luận khái quát nhất, phương pháp là cách thức nhận thức, nghiên
cứu các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội. Tức là để trang bị cho mình thế giới
quan, con người cần có phương pháp, cách thức nghiên cứu thế giới.
Thuật ngữ “Phương pháp” sử dụng trong các hoạt động, thường được hiểu là hệ
thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó hay lề lối, cách thức phải theo
để thực hiện công việc có hiệu quả.
Phương pháp là những lý luận được vận dụng thành các nguyên tắc, lý luận của
phương pháp là những lý luận đã được thực tiễn xác nhận.
Như vậy, có thể định nghĩa phương pháp là các cách thức, đường lối mang tính
lý luận được hệ thống thành các nguyên tắc để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hai đặc trưng của phương pháp:
- Có tính khách quan về mặt nội dung, vì phương pháp bao giờ cũng phải gắn với
một công việc, hoạt động cụ thể, phụ thuộc vào nội dung của hoạt động.
- Về hình thức, phương pháp có tính chủ quan, bởi vì phương pháp chỉ tồn tại trong
đầu óc con người, nghĩa là trong hoạt động có ý thức, chứ không tồn tại ở bên
ngoài và độc lập với con người.
Khái niệm học tập:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về học tập:
Học tập là hoạt động học và luyện tập để hiểu biết, để có kỹ năng.
Học tập là quá trình tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng dưới sự dạy bảo,
hướng dẫn của thầy cô. Việc lĩnh hội kiến thức cũng có thể diễn ra dưới sự độc lập, tự chủ của người học.
Học tập là hoạt động nhận thức có hai chức năng xã hội cơ bản: 1) Giúp con người
tiếp thu những nội dung và phương thức nhận thức được khái quát hóa dưới dạng các tri
thức, phương pháp, kĩ năng, kĩ xảo... tạo ra và phát triển phẩm chất, năng lực của con
người kết tinh trong đó, làm cho tâm lí và nhân cách của họ hình thành và phát triển; 2)
Giúp cho thế hệ đang lớn lên gia nhập vào xã hội, lĩnh hội được những chuẩn mực giá trị của nó.
Như vậy, học tập là quá trình tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo dưới
sự hướng dẫn của nhà trường, thầy cô hoặc cá nhân độc lập, tự chủ học tập nhằm phát
triển phẩm chất, năng lực của bản thân và thích ứng, gia nhập vào các hoạt động xã hội.
Từ khái niệm về phương pháp, học tập; Phương pháp học tập được hiểu là các
cách thức, đường lối mang tính lý luận được hệ thống thành các nguyên tắc hướng dẫn
việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo giúp người học phát triển phẩm chất,
năng lực và thích ứng, gia nhập các hoạt động xã hội.
2.1.2. Phương pháp học tập đại học
Phương pháp học tập đại học là các cách thức, đường lối mang tính lý luận được hệ
thống thành các nguyên tắc hướng dẫn sinh viên tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo nhằm phát triển năng lực, phẩm chất và thích ứng với một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể.
Phương pháp học tập đại học có tính chất:
- Tự do, sinh viên được tự do lựa chọn cách thức học tập phù hợp với bản thân
- Phương pháp học tập đại học có tính nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi
sinh viên luôn luôn phải tìm tòi, khám phá kiến thức bằng nhiều cách thức khác
nhau vừa thông qua tài liệu, sách vở nhưng lại phải có cả sự thực hành, kiểm
nghiệm ngoài thực tiễn.
- Tính đa dạng, phức hợp; để đạt được hiệu quả cao trong học tập, sinh viên cần áp
dụng tổng hợp, kết hợp nhiều phương pháp, cách thức học tập
- Sinh viên luôn luôn phải chủ động tìm kiếm phương pháp học tập phù hợp với bản
thân, phù hợp với học phần, chuyên ngành học tập của mình.
- Sinh viên có thể sáng tạo các kỹ thuật, phương pháp học tập mới
2.2. Phương pháp học tập của sinh viên đại học
2.2.1. Phương pháp xây dựng kế hoạch học tập
2.2.1.1. Những vấn đề chung về kế hoạch học tập trong đào tạo tín chỉ. a) Định nghĩa
Trong hình học cơ bản, khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng.
Trong quá trình học tập cũng vậy, vị trí hiện tại là một điểm, vị trí tương lai của SV muốn
đạt được là một điểm khác và làm sao đi từ điểm này tới điểm kia càng nhanh, càng hiệu
quả càng tốt. Kế hoạch học tập (KHHT) cá nhân sẽ là “bản vẽ cho tư duy” là bản hướng
dẫn rõ ràng, hướng tới mục tiêu học tập và giúp người đó thực hiện mục tiêu một cách
hiệu quả. Để đạt được mục tiêu học tập cần thiết phải có những hành động nhất định.
L. Pasteur có nói “May mắn chỉ đến với những đầu óc đã sẵn sàng”. Khi dạy trẻ
cách lập kế hoạch (KH) là ta dạy chúng suy nghĩ về những gì chúng đã làm, dạy chúng
chuẩn bị tốt nhất để đạt được thành công trong học tập.
Như vậy, từ cách hiểu về kế hoạch nói chung, có thể xác định: Kế hoạch học tập là
một tập hợp những hành động học của người học được sắp xếp theo lịch trình, có thời
hạn, thể hiện các nguồn lực, ấn định các mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp phù hợp
nhất để thực hiện hiệu quả mục tiêu hoạt động học tập đã đề ra.
Trong đào tạo tín chỉ, bắt buộc sinh viên (SV) phải có KHHT của cá nhân. Tuy
nhiên, tính chất và ý nghĩa của khái niệm “KHHT trong đào tạo tín chỉ (ĐTTC) ”được
hiểu khác nhau và trên thực tế càng khác xa nhau về hình thức biểu hiện, về mức độ chủ
động của người học và từ đó, dĩ nhiên là rất khác nhau về hiệu quả của nó đối với kết quả học tập.
Theo đúng nghĩa của khái niệm kế hoạch và kế hoạch học tập, khi nhận thức được
vị trí hiện tại và mục đích muốn đạt tới, KHHT là con đường sẽ đi và là bản thiết kế tối
ưu nhằm thực hiện hóa các mục tiêu học tập, tạo nên “bộ khung làm việc” cho hành
động, giúp tránh sai sót, đồng thời tận dụng những yếu tố nội lực chủ chốt, cũng như sự
giúp đỡ từ bên ngoài để người học đạt được kết quả học tập mong đợi, góp phần phát
triển phẩm chất và năng lực của bản thân.
Tuy nhiên, cả trong lý luận và trên thực tế đào tạo có thể và cần thiết phả bên biệt
về mức độ và cũng là sự khác việt về tính chất đặc thù của KHHT trong đào tạo tín chỉ và
KHHT trong đào tạo theo nhiên chế.
Theo quan điểm của Noman G.R. và Schidmit, KHHT của Sv có thể có nhiều hình
thức và mức độ khác nhau, có thể là bản KH chuẩn, hoặc có thể đơn giản chỉ là việc ghi
chép vào một tờ giấy, tấm thẻ, hay hoạch định trong đầu những công việc sẽ làm trong
ngày, trong tuần hay trong tháng tới; Hay theo Robert Fisher, thông thường các cấp độ
của KHHT của SV chủ yếu và phổ biến ở mức “ Lập kế hoạch một cách mô thức”, hoặc
không có KH; Một số ít hơn có thể biết KHHT ở mức “KH cụ thể” và có rất ít SV biết về
“Lập kế hoạch chiến lược cho học tập”.
Xem xét thực tế, qua nhiều ý kiến trên các diễn đàn và qua một số nghiên cứu
cũng cho thấy: Đa số SV “Lập KHHT” trong ĐTTC cho học kỳ của mình toàn dựa trên
lịch học của nhà trường (khoa, lớp) song thực chất đó mới chỉ là các dạng khác nhau của
“Thời khóa biểu”, hoặc một “Thời gian biểu” hoặc khá hơn, thì đó mới chỉ là một thời
gian biểu cho công việc học tập trong một thời gian cụ thể, tức là một phần của KHHT
trong ĐTTC, chứ chưa phải là KHHT trong ĐTTC đúng nghĩa. Bởi hầu hết trong đó,
SVS chưa hề gắn việc xác định rõ các mục tiêu học tập, xác định rõ các nguồn lực,,, với
việc định ra “KHHT” của họ.
Theo chúng tôi, KHHT của SV ngoài những yêu cầu chung của KHHT, phải đảm
bảo một số yêu cầu sau đây:
- Là loại kế hoạch HT được sinh viên chủ động thiết lập, gắn liền với (Và thể hiện
trong KH) các mục tiêu học tập của bản thân, xác định được các nguồn lực và điều kiện
thực hiện… được tính toán và điều tiết phù hợp nhất với bản thân trong một quá trình học
tập xác định trong thời gian của một khóa học hoặc ít nhất cũng là một kỳ học hoặc 1 quá trình học 1 môn học.
- Là một “Chương trình hành động” cá nhân gồm các giai đoạn triển khai cụ thể,
cũng như các mối quan hệ, các công việc phải xử lý … để đảm bảo tính khả thi của các
mục tiêu và phương án được lựa chọn.
- Không chỉ là một “bản KH” duy nhất, KHHT thực chất là một “tập hợp” của
nhiều bản KH cụ thể cho từng giai đoạn, cho từng công việc. Mặt khác, KHHT thực sự
không chỉ lập ra, viết ra một lần là cho xong mà còn được bổ sung, điều chỉnh… gắn liền
với quá trình triển khai thực hiện nó trong thực tế.
b) Đặc điểm của kế hoạch học tập
- Quá trình lập kế hoạch học tập chính là quá trình cá nhân SV thu thập và xử lý
thông tin liên quan về mục tiêu, các nguồn lực, các phương án thực hiện và sự lựa chọn
để có được một chương trình hành động tối ưu cho mình. Vì thế, nội dung của KHHT là
sự chắt lọc thông tin từ thực tế, từ các yêu cầu đặc trưng của chương trình môn học, của
giới hạn thời gian đào tạo… mà không chỉ phán ánh thuần túy nguyện vọng của người học.
- Các KHHT khi đã được thông qua luôn đòi hỏi các chủ thể có liên quan có nghĩa
vụ thực hiện tối đa và tối ưu các mục tiêu và nội dung của KH.
- KHHT trong ĐTTC là một loại KH mở, linh hoạt, sáng tạo bởi nó phụ thuộc vào
NL học tập của SV, phụ thuộc vào nhu cầu học tập và nguồn lực đáp ứng nhu cầu học tập
của SV, nó dựa vào những điều đang xảy ra và những điều dự đoán sẽ xảy ra trong tương
lai. Ví dụ khi SV thấy nguy cơ bị cảnh báo hoặc dừng tiến độ học tập, nếu không điều
chỉnh KHHT thì buộc SV phải có chiến lược cá nhân để thay đổi. Bởi vậy, một mặt, SV
cố gắng định hình Chương trình hành động của mình; đồng thời, luôn sẵn sàng để thay
đổi và cập nhật thường xuyên các sự kiện mới, hoặc hoàn cảnh mới đã thay đổi…KHHT
phải được sử dụng như một bản hướng dẫn chính xác trong bất kỳ hoàn cảnh hiện tại nào,
chứ không phải như bản cam kết cứng nhắc không thể thay đổi. Một khi KHHT không
hiệu quả như mong đợi, SV có thể điều chỉnh nó để thích ứng với những thay đổi tron
quá trình đào tạo và sự thay đổi của các điều kiện thực hiện (thời gian, nguồn lực).
KHHT theo học chế TC của SV đa dạng, phong phú bao gồm KHHT trên lớp, KH
tham gia các nhiệm vụ của nhóm, KH tự học của cá nhân để hoàn thành những nhiệm vụ
tự học, chuẩn bị bài tập thực hành, seminar…. KH bài học, KH theo chủ đề, KH theo
chương trình môn học, KH theo chương trình đào tạo, KH học vượt, học cải thiện nâng
điểm, học lại, học liên thông để nhận hai bằng.
Kế hoạch học tập là một lịch trình có tổ chức, phác thảo thời gian học và mục tiêu
học tập. Cũng giống như lịch trình đi làm hoặc đi học, sinh viên đại học nên xây dựng
một lịch trình dành thời gian dành riêng cho việc học mỗi tuần. Lịch trình này nên bao
gồm ngày của các câu đố, bài kiểm tra và kỳ thi, cũng như thời hạn cho các bài báo và dự án.
c) Vai trò của KHHT đối với hoạt động của SV
Không có KH, nhà quản lý và nhân viên của họ sẽ rất khó đạt đươc mục tiêu của
mình, họ không biết khi nào và ở đâu cần phải làm gì.
Theo đó, KHHT của SV giúp CVHT theo dõi và quản lý được quá trình học tập
của SV, nhằm kịp thời điều chỉnh và hỗ trợ cho SV; Giúp PĐT thống kê được nhu cầu
học tập của SV trên từng học phần, phục vụ cho công tác mở lớp, nhóm học phần; cung
cấp thông tin để xét tốt nghiệp cho SV.
Đối với SV, nếu SV không có KHHT cho bản thân mình thì họ không thể xác định
rõ được mối quan hệ giữa các mục tiêu cần phải đạt được các mục tiêu học tập. KHông
có KHHT, việc đạt mục tiêu học tập (và kết quả học tập) của mỗi SV sẽ không cao, thậm
chí không thể đạt được kết quả và hiệu quả mong muốn.
Vì vậy, KHHT đối với SV trong ĐTTC có vai trò:
- Dẫn đường cho những quyết định và hành động của SV
Học tập là công việc quan trọng nhất đối với SV nhưng không phải là tất cả SV có
ý thức được điêu đó, hoặc có ý thức song không thể thực hiện với hiệu quả mong muốn.
KHHT giúp SV xác định được các mục tiêu học tập chính yếu và giúp họ tập trung sự
chút ý và sức lực vào các mục tiêu đó. Lập KHHT giúp SV tự xác lập một con đường tối
ưu cho những lựa chọn và hành động phù hợp. Như vậy, việc có KHHT đối với người
học cũng giống như việc có bản đồ trong tay, giúp SV có được cái nhìn tổng quan về
khung chương trình đào tạo của ngành học, giúp SV chủ động và tự tin với các quyết
định đã lựa chọn trong quá trình học tập để đạt được mục tiêu học tập đã đặt ra.
Trên thực tế, đa số SV chưa có thói quen làm việc theo KH, thực hiện nhiệm vụ
học tập còn mang tính tùy tiện, thụ động theo thời khóa biểu chung. SV thường có
khuynh hướng chỉ tập trung học khi nhận thấy đã đến hạn nộp bài, hoặc khi có lịch thi…
Bởi, có thể trong tiềm thức, SV này sẽ tự tạo ra những “mục tiêu” ngụy biện, thậm chí là
nguy hại. Ví dụ như khi bước vào một kỳ thi, do không đủ thời gian ôn tập, nhiều SV xác
định “chỉ cần qua là được”.
Chỉ bằng rèn luyện thói quen lập KH và kiên trì tập là, việc theo KHHT thì SV
mới có được các KN lập KHHT và ngược lại, chỉ bằng rèn luyện thói quen KHHT mới có
“tư duy KH hóa”, mới quản lý được bản thân và chủ động trong học tập.
* Thúc đẩy SV hành động và quản lý bản thân
KHHT là một cam kết học tập. Khi SV xác định được những mục tiêu, viết ra
được KHHT của mình và dán KH ở những nơi buộc mình phải nhìn thấy hàng ngày, thì
họ sẽ được nhắc nhở một cách vô thức hàng ngày về mục tiêu và những việc phải thực
hiện của mình. Từ đó, KHHT thúc đẩy SV và giúp họ tạo được thói quen làm việc theo
KH, thưc hiện các hành động học tập tích cực, vượt qua được các trở ngại, khó khăn để
đạt được mục tiêu xác định.
* Giúp sinh viên chủ động quản lý thời gian của bản thân
Việc xây dựng một KHHT hợp lý sẽ giúp SV chủ động được thời gian của bản
thân. Thời gian mỗi SV có là như nhau (24h mỗi ngày), nhưng có người sử dụng quỹ thời
gian hiệu quả, có người lài không làm được gì nhiều với khoảng thời gian đó. KH nói
chung và cụ thể KHHT sẽ giúp SV biết được những việc cần ưu tiên làm trong một ngày,
môt tuần hay một tháng… từ đó có thể tập trung vào các công việc học tập và những thứ khác cần ưu tiên.
Trên thực tế, ngoài việc học ra. SV còn có thể và cần có những khoảng thời gian
để tham gia nhiều các hoạt động có ích khác, như hoạt động xã hội và đoàn thể, làm
thêm, giao tiếp bạn bẻ… Do đó, hầu hết SV luôn cảm thấy “thiếu thời gian” và thời gian
học tập thường bị co kéo, cắt xén. Với việc lập KHHT, bằng cách chú trọng lựa chọn, sắp
xếp và bắt đầu thực hiện những nhiệm vụ quan trọng nhất, theo từng năm học, học kỳ,
cho đến mỗi tuần, sẽ tránh được những lúc căng thẳng vì nhiều công việc “chồng chéo”,
từ đó thời gian của SV sẽ được sử dụng một cách hiệu quả.
* Là căn cứ cho việc theo dõi và đánh giá sự tiến bộ của người học.
Bản thân một KHHT khi được thiết lập, đã chứa đựng những tiêu chuẩn, những
quy định, các chỉ dẫn cần thực hiện… Nhờ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SV tự kiểm
tra và tự đánh giá bản thân về tiến độ, về kết quả và hiệu quả các hoạt động cá nhân, rèn
luyện ý chí, nghị lực. Mặt khác, căn cứ vào KHHT, các CVHT, giáo viên chủ nhiệm…
cũng có thể kiểm tra và tư vấn, trợ giúp SV một cách hiệu quả.
* Kế hoạch học tập giúp đem lại kết quả cao trong học tập.
Phần lớn SV có thói quen xấu là chỉ tập trung học và ôn tập khi sắp đến ngày thi.
Cách học này không đem lại kết quả cao. KHHT giúp mỗi SV tìm ra cách tốt nhất để đạt
được kết quả cao trong học tập mà không cần quá căng thẳng trong các kỳ thi.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng KHHT chính là biện pháp nhận thức quan trọng
nhất có thể dùng trong lớp học. KHHT giúp người học giải quyết thông tin về bất kỳ môn
học nào một cách có tổ chức và hệ thống. Lập KHHT có thể coi là quá trình hoạt động
then chốt của bộ não khi thực hiện những chức năng cao hơn và then chốt thành công
trong học tập của con người.
d) Các loại kế hoạch học tập trong ĐTTC
* Theo thời gian học tập, có thể xác định các loại KHHT
- KHHT phát triển nghề nghiệp bản thân - KHHT theo năm học - KHHT theo học kỳ - KHHT theo tháng tuần - KHHT theo chủ đề - KHHT theo môn học
* Theo tiến độ học tập cần đăng ký với nhà trường, có thể xác định các loại KHHT
- KHHT đăng ký học vượt
- KHHT đăng ký học bổ sung
- KHHT đăng ký học cải thiện điểm số
* Theo phương thức và hình thức của KHHT, có thể phân biệt các loại
- KHHT theo mẫu thiết kế của nhà trường
- KHHT theo mẫu của các phần mềm có sẵn
- KHHT theo thói quan và sự sáng tạo của cá nhân
* Trong thực tế, cần phân biệt:
Loại KHHT của mỗi SV thực hiện thường xuyên để đảm bảo thành công trong quá
trình học và tự học của bản thân
Loại KHHT dùng để đăng ký tiến độ học tập của mỗi SV nộp cho bộ phận quản lý
đào tạo (bản KHHT đăng ký tiến độ năm học)
2.2.1.2. Kỹ năng lập kế hoạch học tập cho sinh viên
a) Khái niệm lập kế hoạch và lập kế hoạch học tập
Kế hoạch là sản phẩm của công tác lập kế hoạch. Lập kế hoạch là quá trình xác
định các mục tiêu, huy động và sắp xếp các nguồn lực và lựa chọn các phương thức, biện
pháp để đạt được các mục tiêu đó.
Lập kế hoạch xác định mục tiêu cần phải đạt được là cái gì? Và phương tiện để đạt
được các mục tiêu đó như thế nào? Tức là, lập KH bao gồm việc xác định rõ các mục tiêu
cần đạt được, xây dựng một chiến lược tổng thể để đạt được các mục tiêu đã đặt ra và
việc triển khai một hệ thống các KH để thống nhất và phối hơp các hoạt động.
Lập kế hoạch HHT trong điều kiện học tập hiện nay của sinh viên là vấn đề liên
quan đến công việc của quản lý chiến lược và năng lực chủ động, năng lực tư duy và sáng tạo của cá nhân.
Từ đó, có thể xác định:
Lập kế hoạch học tập trong đào tạo tín chỉ là quá trình người học chủ động thiết
kế một kế hoạch học tập – với tư cách một chương trình hành động cá nhân trên cơ sở
phân tích, giải quyết vấn đề đa mục tiêu và ra quyết định, xác định, xác lập được các
mục tiêu học tập, nội dung các công việc học tập và các biện pháp thực hiện phù hợp các
nguồn lực, điều kiện của bản thân và các yêu cầu của quá trình học tập với hiệu quả khả dĩ nhất.
Đồng thời, đó cũng chính là quá trình học tập của SV, với các bước, khâu tập
luyện để hình thành từng KN thành tố của lập KHHT với tính tích cực, chủ động ở mức
cao (nhận diện bản thân/ xác định mục tiêu học tập/ phân tích mục tiêu, nội dung chương
trình đào tạo/thiết kế chương trình hành động…) để đạt được các mục tiêu học tập đáp
ứng yêu cầu của hệ thống TC.
Kỹ năng là một dạng hành động được thực hiện tự giác và có kết quả theo mục
đích và hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo “chuẩn” dựa trên tri thức về
công việc, khả năng vận động và những điều kiện sinh học – tâm lý khác nhau của cá nhân.
Là một dạng hành động, nên KN bao gồm hệ thống các thao tác (các thành tố kỹ
thuật cấu thành hành động), trật tự tổ chức và thực hiện các thao tác đó, các hành vi và
quá trình thực hiện hành vi, nhịp độ và cơ cấu thời gian thực hiện hành động. Tri thức
không nằm trong KN mà là điều kiện chu rtheer phải có để hình thành và kiểm soát KN
của mình. Kết quả hành động không nằm trong KN mà nằm trong hiệu quả của KN.
Như vậy, có thể hiểu cấu trúc của KN gồm: Hệ thống các thao tác được tổ chức
linh hoạt; trình tự logic của quá trình thực hiện các thao tác (thay đổi theo hoàn cảnh,
điều kiện sử dụng KN của cá nhân); các quá trình điều chỉnh hành động; nhịp độ thực
hiện và phân bổ thời gian.
Để đánh giá KN, hoặc chính xác hơn là đánh giá trình độ phát triển KN, cần phải
căn cứ vào những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nó như mức độ đầy đủ của các
nội dung và cấu trúc, tính hợp lý của trình tự logic, mức độ thành thạo của hành động,
tính linh hoạt và phạm vi di chuyển được của KN, và tiêu chí quan trọng nhất – tính hiệu quả KN.
Trong tâm lý học và giáo dục học, ở nhiều nghiên cứu của các tác giả đã khẳng
định học tập là một hoạt động phức hợp bao gồm nhiều hành động và để thực hiện các
hành động học tập, người học phải có những KNHT. Chẳng hạn, KNHT là sự thực hiện
có kết quả một số thao tác hay một loạt thao tác phức hợp của các hành đọng học tập
bằng cách lựa chọn và vận dụng tri thức, cách thức và quy trình đúng đắn.
Từ cách hiểu chung về kỹ năng, có thể hiểu, KNHT là sự thực hiện có kết quả một
hay một nhóm hành động học tập theo những mục đích đã được xác định trước bằng cách
dựa trên cơ sở của tri thức, của những điều kiện tâm sinh lý và điều kiện xã hội phù hợp
với nhiệm vụ học tập đã đặt ra.
Cũng nhiều nghiên cứu cho thấy, một trong những KNHT chính là KN lập KHHT,
tương tự là “KN tổ chức học tập”.
Kỹ năng lập kế hoạch học tập của sinh viên là một dạng hành động được thực hiện
có tự giác trên tri thức về lập kế hoạch, khả năng vận động và những điều kiện sinh học –
tâm lý khác của SV (Như nhu cầu, tình cảm, ý chí) vào thực hiện lập KHHT (nhận diện
bản thân, xác lập mục tiêu, nội dung các công việc học tập, các biện pháp thực hiện phù
hợp với nguồn lực, điều kiện của bản thân) trong ĐTTC có kết quả theo mục đích đã định.
- KN lập KHHT của SV cần phải có:
+ Có tri thức về lập KHHT và vận dụng những tri thức này vào lập KHHT và lập KHHT có kết quả.
+ Những tri thức này không có sẵn mà được hình thành trong cuộc sống và hoạt
động rèn luyện của SV. Càng nắm vững tri thức về bản thân hoạt động lập KHHT càng
tích cực rèn luyện lập KHHT thì quá trình hình thành, phát triển KN của họ càng diễn ra dễ dàng.
b) Các kỹ năng lập kế hoạch học tập trong ĐTTC
Lập kế hoạch HT là một trong những KN quan trọng giúp SV quản lý quá trình
học tập, quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ thời gian của mình, đem lại kết quả cao trong
học tập. Tuy nhiên, KN lập KHHT không phải là một KN giản đơn, mà là một KN phức
hợp gồm nhiều KN bộ phận cấu thành.
i) Kỹ năng nhận diện bản thân và các điều kiện học tập
Nhận diện bản thân và các điều kiện học tập là KN đầu tiên để lập KHHT. Cụ thể,
KN này gồm: nhận diện điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội
(Opportunities), thách thức (Threats) của mình – SWOT và các điều kiện của nhà trường.
Trên cơ sở đó, SV xác định mục tiêu học tập, xác định lộ trình, tiến độ học tập cho phù
hợp với NL và nhu cầu học tập của mình.
ii). Kỹ năng xác định mục tiêu học tập
mục tiêu học tập là kết quả dự kiến mà người học đặt ra để phấn đấu và có khả
năng đạt được nó trong quá trình học tập của mình. Nói cách khác, mục tiêu học tập là
một tuyên bố ngắn gọn về khả năng hay NL mà người học mong muốn đạt được.
mục tiêu học tập thường được chia làm hai loại chính: Mục tiêu ngắn hạn và mục
tiêu dài hạn. Mục tiêu ngắn hạn là mục tiêu mà người học muốn sớm đạt được, ví dụ là
việc hoàn thành bài tập về nhà hôm nay và làm tốt bài kiểm tra vào sáng hôm sau. Còn
mục tiêu dài hạn là những mục tiêu mà người học phải ước tính mất một khoảng thời gian
kha khá mới đạt được, ví dụ như việc hoàn thành bài tập lớn và đạt điểm cao trong kỳ thi cuối kỳ.
dù là mục tiêu dài hạn hay ngắn hạn, SV phải biết rõ điều quan trọng mà mình đề
ra, cần nêu rõ những điều sẽ làm, khi nào thực hiện và phải chú ý các phương diện sau đây:
- Thứ tự ưu tiên của các mục tiêu, xác định mức độ quan hệ giữa các mục tiêu với
nhau và thứ tự hoàn thành chúng
- Mỗi mục tiêu mà người học đề ra cần đáp ứng được những yêu cầu SMART: cụ
thể, đo lường được, có khả năng đạt được, thực tế, và có thời gian.
iii) Kỹ năng xác định nội dung công việ và lựa chọn biện pháp thực hiện
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn đăng ký khối lượng học phần gồm: Tìm hiểu các môn học sẽ đăng ký; đăng ký
số lượng tín chỉ phù hợp với NL của bản thân.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lực chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn quá trình học tập gồm: Cập nhật những môn học đã đăng ký và thời gian đến
lớp; cập nhật những việc cần làm (học thêm, làm thêm, sinh hoạt trong ngày…); Mục tiêu
mà bản thân muốn đạt được; Phân bổ cụ thể thời gian cho từng môn học; Sắp xếp công
việc vào thời gian hợp lý; xây dựng KHHT phù hợp với mục tiêu đã đề ra; xem xét kết
quả đạt được, bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh hợp lý.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn kiểm tra gồm: Cập nhật các môn phải kiểm tra; xác định nội dung cần học của
các môn đó; xác định thời gian sao cho phù hợp với khối lượng kiến thức cận phải học.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
Giai đoạn thi kết thúc học phần: xác định các môn phải thi; sắp xếp các môn theo thứ tự
thời gian thi và khối lượng bài học của môn học; Dự trù được khoảng thời gian cần thiết cho mỗi môn thi.
iv) Kỹ năng lập thời gian biểu học tập
thời gian biểu là quá trình sắp xếp và sử dụng thời gian hiệu quả để giảm thiểu
căng thẳng, tăng cường hiệu quả làm việc. Đó cũng là một tỏng những công cụ quản lý
thời gian hiệu quả nhất để quản lý thời gian của mình. Lập thời gian biểu là một quá trình gồm 5 bước:
Nhận diện tổng thời gian đang có
Xác định những công việc phải làm
Lập thời gian biểu theo ưu tiên gấp và các hoạt động thường nhật
Dự tính thời gian dư để dự trữ cho các hoạt động
Trong khoảng thời gian còn lại, lập KH cho những hành động gắn liền với việc đạt
được mục tiêu cá nhân và ưu tiên
v) Kỹ năng viết ra kế hoạch học tập
Ngoài viên vẽ biểu đồ cho KH, còn nên viết ra đầy đủ. Bản KH này không cần thật
tỉ mỉ nhưng nên liệt kê tất cả mọi điều dự định làm, theo dạng nào thuận tiện nhất. Ngoài
ra, bản KH được viết ra sẽ là vật nhắc nhở và có thể làm một bản liệt kê để kiểm tra sau này.
vi) Kỹ năng thực hiện kế hoạch học tập
động lực tự thân là một phần sống còn để thực hiện KH. Có nhiều nhân tố góp
phần thúc đẩy thực hiện những việc cần làm. Có thể chia nhỏ mọi điều cần làm thành
những nhiệm vụ đơn giản. Khi được phân tích thành những dạng đơn giản nhất, không có
nhiệm vụ nào là khó khăn cả.
vii) Kỹ năng theo dõi, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kế hoạch
Theo dõi, đánh giá nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện mục tiêu, phát hiện những vấn
đề có liên quan đến khả năng thực hiện mục tiêu đã đề ra để có những điều chỉnh cho phù
hợp. Việc theo dõi đánh giá ngày, sẽ giúp Sv tránh được những hạn chế của công tác phân
tích, dự báo và giúp bản KH trở nên linh hoạt trong một môi trường linh động.
Trong quá trình thực hiện mục tiêu, phải thường xuyên giám sát NL cá nhân của
mình, những nguồn lực mà mình có và tính hợp lý của mục tiêu. Chỉnh sửa KH khi hoàn
cảnh thay đổi. Viết lại những thay đổi trong bản KH của mình.
2.2.2. Phương pháp học tập cá nhân
2.2.2.1. Phương pháp ghi chép
Ghi chép là cách thức sinh viên lưu giữ lại các thông tin, kiến thức của bài học
trên lớp hoặc tổng hợp lại kiến thức từ việc đọc tài liệu, sách, giáo trình thông qua việc
ghi lại vào vở, sổ theo những kỹ thuật ghi chép cụ thể hoặc cách thức riêng của bản thân.
Việc ghi chép giúp người học giải phóng tình trạng quá tải thông tin, khắc phục
tình trạng nhanh quên, nâng cao kỹ năng tổng hợp, phân tích thông tin, cải thiện khả năng
tập trung chú ý, lắng nghe và kỹ năng đặt câu hỏi, nhanh chóng đạt được mục tiêu của bài học.
a. Chuẩn bị cho việc ghi chép:
- Bút viết, chuẩn bị nhiều loại bút ghi với các màu mực khác nhau, chuẩn bị bút nhớ dòng và bút dạ. - Thước kẻ
- Sử dụng loại vở khổ A4, không nên sử dụng các loại sổ sách nhỏ (sổ sách nhỏ chỉ phù
hợp cho việc liệt kê, ghi chú các công việc cần làm; không phù hợp cho ghi chép thông tin học tập)
- Chuẩn bị giấy note nhiều màu
b. Một số kỹ thuật ghi chép
- Phương pháp dàn ý (outline method/ skeleton prose)
Đây là cách thức cấu trúc lại thông tin thành các ý chính và ý phụ. Kiến thức được
ghi chép sẽ được ghi lại theo một cấu trúc nhất định, trong đó diễn tả theo các đề mục
chính được ghi ở ngoài cùng bên trái của trang giấy, các ý phụ lần lượt được thêm vào ở
bên dưới ý chính. Chú ý sử dụng các dấu gạch chân, gạch đầu dòng, viết hoa, bút nhớ
dòng, bút dạ … để phân biệt các ý chính và ý phụ.
- Phương pháp đóng hộp (the boxing method)
Phương pháp này giúp tiết kiệm thời gian cho việc tìm kiếm, chọn lọc các thông
tin đã ghi chép. Ghi chép theo phương pháp này, trước tiên cần xác định các thông tin ghi
chép, để tạo các bảng ô vuông hoặc chữ nhật theo kích thước phù hợp (đây chính là các
box ghi thông tin). Mỗi một box sẽ được coi là một hộp thông tin ghi lại những thông tin
quan trọng. Để đạt hiệu quả cao, các thông tin ghi lại trong các hộp, cần được tóm tắt, mang tính khái quát cao.
- Phương pháp tạo bảng (the charting method)
Phương pháp này phù hợp với việc ghi chép các dữ kiện, dữ liệu mang tính mô tả, diễn
giải, so sánh. Thông tin sẽ được sắp xếp trong một bảng theo các cột, mỗi cột sẽ đại diện cho một danh mục.
Dưới đây, là minh họa cho PP tạo bảng
Phương pháp học tập Nội dung Các lưu ý
của sinh viên đại học
PP xây dựng kế hoạch học tập
PP học tập cá PP ghi chép nhân PP tìm kiếm, tra cứu thông tin PP đọc sách PP viết bài luận PP học tập nhóm
- Phương pháp Sketchnote
Phương pháp ghi thông tin bằng việc tổng hợp, kết nối các hình vẽ, hình ảnh, ký tự, biểu
tượng … Đây là phương pháp mang tính sáng tạo, khái quát cao.
Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý:
- Chữ viết: Chỉ được mô tả ngắn ngọn thành các từ, cụm từ, không viết thành câu.
- Hình ảnh: trong Sketchnote, thông tin chủ yếu được minh họa bằng các hình ảnh, ký tự
- Màu sắc: Màu sắc là đặc trưng nổi bật của Sketchnote, các hình ảnh được tô vẽ với
những gam màu sặc sỡ, sinh động. Do vậy khi sử dụng phương pháp này cần có nhiều
bút ghi và kèm theo bút màu, bút dạ.
- Phương pháp tạo sơ đồ tư duy
Phương pháp ghi chép này tạo ra một sơ đồ tư duy bằng việc từ 1 Central idea (ý
chính), ý chính thường được triển khai từ trung tâm của mặt giấy. Từ trung tâm tạo ra các
nhánh (bao gồm: nhánh chính và nhánh phụ, các nhánh được vẽ dưới dạng đường cong)
kèm theo các từ khóa, các chữ viết ngắn ngọn trên các nhánh và các icon, biểu tượng, hình vẽ đi kèm.
Giống với Sketchnote, phương pháp này có đặc điểm: mang tính sáng tạo, khái
quát, sinh động, được minh họa bằng nhiều hình ảnh, màu sắc nhưng các thông tin được
liên kết thành các nhánh, sơ đồ.
- Phương pháp “The Cornell notes”
Đây là là phương pháp ghi chép được giáo sư Walter Pauk thuộc Đại học Cornell phát minh vào năm 1950.
Để triển khai phương pháp này, cần chia trang giấy ra thành 3 phần theo minh họa
dưới đây, cột trái là cột tiêu đề ghi các ý chính, các câu hỏi quan trọng và các từ khóa; cột
phải chiếm diện tích nhiều hơn ghi các thông tin, nội dung được triển khai từ ý chính, câu
hỏi, từ khóa của cột trái. Phần dưới cùng của trang giấy, sẽ là phần tổng hợp, tóm tắt lại
những thông tin quan trọng của phần ghi chép bên trên.
- Kỹ thuật “hỏi, trả lới, dẫn chứng”
Cách thức ghi chép này đòi hỏi chúng ta phải phân tích thông tin thành các câu
hỏi, sau đó trả lời theo ý hiểu của bản thân và đưa ra các dẫn chứng, lập luận cần thiết
cho vấn đề. Đây là kỹ thuật ghi chép khó, đòi hỏi người học cần có khả năng tư duy tốt,
hiểu sâu sắc vấn đề. Việc ghi chép theo kỹ thuật này giúp sinh viên rèn luyện năng lực tư
duy, đặt câu hỏi và khả năng lập luận.
- Phương pháp ghi chép của Takashi Ishi
Đây là phương pháp ghi chép thông minh, có ưu điểm là có thể thêm bớt thông tin
trong quá trình ghi chép, đặc biệt có thể thực hiện các kỹ thuật ghi chép kế tiếp để tạo ra
các cuốn sổ ghi chép đa dạng.
Các bước triển khai phương pháp ghi chép của Takashi Ishi:
+ Viết chữ thoáng, kích thước chữ to; không viết nhỏ và dày, để thuận tiện cho việc đọc sau này
+ Viết cách dòng, giữa hai dòng, để cách lại 1 – 2 dòng, sau này trong quá trình đọc lại
bạn có thể viết thêm nếu cần thiết
+ Ghi chép theo ý hiểu của bản thân
+ Ghi chép vào trang bên phải của cuốn vở, không ghi vào trang bên trái. Để sau này,
thuận tiện cho quá trình đọc lại, đồng thời bạn có thể cắt dán những nội dung thông tin ở
các trang này, dán vào những cuốn sổ, vở khác khi cần thiết
+ Chia trang giấy thành ba cột, cột đầu tiên và cột cốt có độ rộng 3,5 cm, cột giữa tạo
khoảng chống nhiều nhất. Cột đầu ghi tiêu đề, cột giữa ghi nội dung, cột thứ 3 ghi kế
hoạch hành động, công việc cần thực hiện
+ Tạo ra những cuốn sổ ghi chép kế tiếp nhau, bằng việc cắt dán những nội dung quan
trọng, dán vào các cuốn sổ kế tiếp
2.2.2.2. Phương pháp tìm kiếm, tra cứu thông tin
Để chủ động trong hoạt động học tập của mình, ngoài việc dựa vào những chỉ dẫn
của thầy cô, những tài liệu thầy cô cung cấp; sinh viên còn cần mở rộng nguồn học liệu
của mình. Để làm được điều này; sinh viên cần học cách tìm kiếm, tra cứu thông tin.
Trước khi tìm kiếm, tra cứu thông tin; cần xác định: chính xác thông tin cần tìm
kiếm hoặc khoanh vùng thông tin tìm kiềm. Cụ thể các thông tin như: từ khóa, chủ đề,
chủ điểm, các thuật ngữ chuyên môn …
* Các hình thức tìm kiếm, tra cứu thông tin
a. Tra cứu, tìm kiếm thông tin trên mạng internet
- Đối với sinh viên Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, sử dụng thư viện số của trường,
bằng cách truy cập vào web: http://thuvienso.daihocthudo.edu.vn/; đăng nhập thông tin
để vào tìm kiếm, tải tài liệu miễn phí từ thư viện số.
- Tra cứu bằng các trang công cụ tìm kiếm: ngoài trang google, có thể truy cập vào một
số trang tìm kiếm khác như: bing, yahoo, baidu, yandex, WolframAlpha, … Hiện nay,
trên thế giới có khoảng 20 trang công cụ tìm kiếm, nếu thường xuyên tra cứu trên
internet, cần tìm hiểu các trang công cụ này.
- Google là trang tìm kiếm thông dụng, nổi bật nhất nhưng nền tảng này thường mang lại
quá nhiều kết quả để kiểm tra (phân tán, không tập trung), và trang công cụ này ưu tiên
quá nhiều thông tin quảng cáo. Những người sử dụng internet, không ai xa lạ với trang
tìm kiếm google, nhưng không phải ai cũng biết hết các kỹ thuật tra cứu trên google, có ít
nhất 10 cách tra cứu trên google mà đa số người dùng không biết. Để học các cách tra
cứu trên google, có thể vào google, tra cứu “Các cách tra cứu trên google” để tìm hiểu chi tiết.
b. Tra cứu, tìm kiếm thông tin từ sách, vở, tạp chí, tài liệu
Để có thể tra cứu thông tin từ sách, vở, tạp chí, tài liệu có những cách thức sau:
Tìm kiếm tại thư viện, nhà sách, thiết lập kho tài liệu cá nhân
Thư viện là nơi lý tưởng để tra cứu các tài liệu học thuật: sách chuyên khảo, tạp
chí, sách chuyên ngành, đồ án, khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án các chuyên ngành,
lĩnh vực. Bạn khó có thể tra cứu được trên internet toàn văn 1 số tạp chí chuyên ngành và
các luận văn, luận án. Do vậy, cách hiệu quả nhất là phải đến thư viện.
- Tìm kiếm tại thư viện, đối với sinh viên Đại học Thủ đô Hà Nội có thể tìm kiếm thông
tin và mượn tài liệu tại thư viện Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Thư viện là nơi lưu trữ
rất nhiều tài liệu nhưng cũng có thể có hạn, do vậy nếu thực sự cần tìm kiếm một cách đa
dạng, tìm kiếm đúng tài liệu mình cần; nên tham khảo tại nhiều thư viện. VD: thư viện
quốc gia Việt Nam hoặc đến bất kỳ một thư viện của các trường Đại học, Học viện. Các
bạn sinh viên và mọi người thường nghĩ rằng; các thư viện Trường thường chỉ phục vụ
giảng viên, sinh viên trong trường; kỳ thực thì các thư viện lớn như thư viện của Đại học
Bách khoa, thư viện của Đại học Sư phạm Hà Nội và hầu hết các trường Đại học đều
phục vụ tất cả mọi đối tượng có nhu cầu tra cứu, mượn tài liệu; tất nhiên vì không phải
người của Trường nên bạn phải đóng 1 khoản phí để có thể tìm kiếm, mượn tài liệu và
bạn cũng không có 1 số quyền lợi: không được mượn tài liệu về nhà, bạn chỉ có thể mượn
đọc tại chỗ, chỗ tài liệu nào bạn cần, bạn có thể nhờ thủ thư photo (phí photo tài liệu tại
thư viện thường sẽ rất đắt đỏ, nên nó thực sự phải là tài liệu bạn thấy thiết yếu). Nếu đến
thư viện các Trường Đại học, Học viện, không nên đến vào mùa thi – đó là các khoảng
thời gian tháng 5, tháng 6, tháng 10, tháng 11; vì vào mùa thi, thư viện các trường hay
quá tải, ngay cả sinh viên của Trường cũng không thể vào thư viện nếu không đến sớm,
còn người ngoài trường chắc chắn sẽ không được ưu tiên.
- Thiết lập kho tài liệu cá nhân
Có khi nào bạn cần viết một bài luận, làm một bài tập lớn và nhìn lên giá sách của
mình, thấy ngay tài liệu mình cần để sử dụng cho việc làm bài. Đó chính là lợi ích của
việc thiết lập cho bản thân một số tài liệu đại cương trong chuyên ngành của mình. Đồng
thời, khi đến các nhà sách, đến những nơi bán sách, tài liệu; nếu thấy có các sách, tài liệu
chuyên môn bạn thấy cần, hãy mua vì sẽ có lúc bạn dùng đến.
Các tài liệu dưới dạng bản mềm, ebook trên mạng cũng có rất nhiều; nếu thấy, bạn
hãy tải về và lưu vào một chỗ. Để đọc, nghiên cứu, sử dụng khi cần thiết.
Để thiết lập kho tài liệu cá nhân cho riêng mình, là việc cần làm thường xuyên vào
những lúc rảnh, tức là bạn phải có thói quen tìm mua sách báo; tìm kiếm tài liệu trên
mạng. Chứ không đợi đến lúc, cần một tài liệu đó mới đi tìm. - Nhà sách
Hãy đến một số nhà sách, mà chúng ta biết chắc là khi đến đó, bạn có thế được tra
cứu, xem thông tin tại đó miễn phí. Thường thì bạn sẽ không được cầm sổ sách vào để
ghi chép. Nhưng một số nhà sách, cho phép bạn có thể vào, ngồi đó và đọc hết cả một
cuốn sách (dài quá, bạn có thể quay trở lại đó vài lần). Tuy nhiên, nhà sách không phải
thư viện; nên nếu bạn chủ ý không mua gì cả, mà chỉ đọc, tra cứu, thì không nên vào quá 60 phút.
c. Tìm kiếm thông tin từ người quen
Trong việc tìm kiếm, tra cứu thông tin; chúng ta có thể nhờ sự trợ giúp của người
thân, bạn bè, thầy cô và những người mà mình quen biết. Họ có thể chỉ dẫn, tư vấn cho
chúng ta một cách nhanh nhất những nơi chúng ta cần tìm tài liệu hoặc kết nối chúng ta
đến một chuyên gia, tổ chức mà chúng ta có thể khai thác thông tin từ các cá nhân, tổ chức đó.
Muốn làm được điều này, chúng ta cần tạo một mạng lưới xã hội người thân, bạn
bè, thầy cô, chuyên gia. Và quan trọng, ngoài việc tạo mối quan hệ, cần phải nắm rõ các
thông tin công việc, chuyên môn của họ. Để biết chắc những việc mình có thể nhờ họ
giúp đỡ, tư vấn được hay không.
Nhìn chung, đây là phương pháp hữu ích, gián tiếp giúp chúng ta tìm được những
thông tin, những hỗ trợ cần thiết trong học tập, cuộc sống đồng thời mở rộng các mối
quan hệ xã hội của chúng ta.
2.2.2.3. Phương pháp đọc sách hiệu quả