-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phương pháp nghiên cứu khoa học đề tài: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở mầm non | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội
Phương pháp nghiên cứu khoa học đề tài: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở mầm non của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 30 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Giáo dục học (hn) 36 tài liệu
Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Phương pháp nghiên cứu khoa học đề tài: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở mầm non | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội
Phương pháp nghiên cứu khoa học đề tài: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở mầm non của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 30 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Giáo dục học (hn) 36 tài liệu
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
UBND THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
-----🙞🙞🙞🙞🙞-----
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH MẦM NON
Đề Tài: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non
Nhóm sinh viên thực hiện:
- Tô Thị Thùy Linh - GDMN D2021C - 221000743
- Nguyễn Thị Hải Yến - GDMN D2021C - 221000842
- Đặng Hải Vân - GDMN D2021C - 221000829
- Nguyễn Minh Thu - GDMN D2021C - 221000807
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Hà Nội, năm 2022
MỤC LỤC
- Lý do chọn đề tài 4
- Mục đích nghiên cứu 4
- Đốối tượng và khách thể 4
- Nhiệm vụ 4
- Phạm vi và giới hạn 5
- Giả thuyết khoa học 5
- Phương pháp nghiên cứu 5
- Cấu trúc luận án 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP Ở TRẺ 3 – 4 TUỔI 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TẠI ĐỊA BÀN PHƯỜNG LONG BIÊN 15
2
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP ĐỂ GIÚP TRẺ RÈN LUYỆN TỐT KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO TRẺ MẦM NON 23
3
Giao tiếp là một hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Dù là ở hình thức nào đi chăng nữa thì nhờ giao tiếp mà tâm lý con người được hình thành và phát triển. Đặc biệt, kỹ năng giao tiếp còn được coi là chìa khóa để mở ra cánh cửa thành công của mỗi người. Để có thể phát triển toàn diện và nắm bắt được thành công thì việc tìm hiểu, học hỏi và rèn luyện kỹ năng giao tiếp là vô cùng cần thiết.
Đối với trẻ mầm non cũng vậy, giao tiếp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. Khi biết cách giao tiếp, trẻ sẽ biết lắng nghe và truyền tải thông điệp tới người khác, biết bày tỏ mong muốn với cha mẹ, ông bà, thầy cô… Khi biết cách giao tiếp, trẻ sẽ dễ dàng kết bạn, có mối quan hệ tốt với mọi người. Khi đó, trẻ cũng dần phát triển các kỹ năng khác làm việc nhóm, tư duy phản hồi. Nếu được rèn luyện kỹ năng giao tiếp tốt, trẻ cũng tự tin hơn, nhìn nhận cuộc sống tốt hơn…
Kỹ năng còn là một hành trang quan trọng của mỗi con người cần có trong quá trình lớn lên. Chúng quan trọng và thật sự rất cần thiết, đặc biệt với sự phát triển không ngừng của thế giới. Giao tiếp cũng là một loại hình, kĩ năng mà ta cần phải biết và đặc biệt chú trọng bởi nó gần gũi với đời sống hàng ngày, giao tiếp giúp ta biểu đạt được những mong muốn, sắc thái biểu cảm của mình. Chúng được hình thành và phát triển sớm ngay từ khi trẻ ở độ tuổi mầm non.
Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp linh hoạt nhằm rèn luyện và nâng cao khả năng giao tiếp cho trẻ đặc biệt là cho trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp được ví như chìa khóa giúp trẻ làm chủ, phát huy các kỹ năng còn lại.
Đối tượng và khách thể:
- Đối tượng: Quá trình giáo dục kỹ năng giao tiếp nhằm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo.
- Khách thể: 35 trẻ mẫu giáo tại trường mầm non Long Biên.
Nhiệm vụ:
4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận: Về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo.
- Nghiên cứu thực trạng: Kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo.
- Đề xuất biện pháp: Rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ mầm non.
Phạm vi và giới hạn:
Nghiên cứu đưa ra một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp trẻ 3 - 5 tuổi ở trường mầm non tại quận Long Biên.
Giả thuyết khoa học:
- Khó khăn: trẻ ngại giao tiếp, thường ở một mình do nhiều lý do khách quan như: nhút nhát, chơi điện thoại, phụ huynh ít dành thời gian cho con con, xem TV nhiều, không thích tiếp xúc với các bạn đồng trang lứa…; một số trẻ hay nói từ cộc lốc, trống không, vốn từ còn hạn chế, tự phát dẫn đến khó khăn khi tiếp xúc với người khác; môi trường rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ đã có nhưng chưa phong phú và hấp dẫn.
- Biện pháp: giao tiếp, tiếp xúc với trẻ nhiều hơn, trao đổi với phụ huynh về trẻ, tạo môi trường phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ nhiều hơn thông qua hoạt động vui chơi, rèn luyện kỹ năng giao tiếp mọi lúc mọi nơi, dùng khả năng của mình giúp trẻ không còn ngại hay sợ việc giao tiếp.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết: là phương pháp sắp xếp những thông tin đa dạng thu thập được từ các nguồn, các tài liệu khác nhau thành một hệ thống với một kết cấu chặt chẽ (theo quan điểm hệ thống – cấu trúc của việc xây dựng một mô hình lý thuyết trong nghiên cứu khoa học) để từ đó mà xây dựng một hệ thống khái niệm làm cơ sở lý luận, khái quát hóa vấn đề của việc rèn luyện kỹ năng giáo tiếp ở trẻ 3 – 5 tuổi để hiểu biết đối tượng được đầy đủ và sâu sắc hơn.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra là phương pháp dùng hệ thống câu hỏi theo những nội dung xác định nhắm thu thập những thông tin khách quan nói lên nhận thức, thái độ của người được điều tra.
5
- Phương pháp điều tra Anket:
Là phương pháp dùng một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn trên giấy theo những nội dung đã xác định, người được hỏi sẽ viết câu trả lời trong một thời gian nhất định
Chúng ta lập ra một bản kế hoạch cùng các phương pháp giúp trẻ có kĩ năng giao tiếp tốt, hoàn thiện bản thân hơn. Điều tra từ phía phụ huynh việc giao tiếp ở nhà của trẻ bằng việc sử dụng anket mở và đóng
- Phương pháp phỏng vấn:
Là phương pháp dùng 1 hệ thống câu hỏi miệng để người được phỏng vấn trả lời bằng miệng nhằm thu được những thông tin nói lên nhận thức hoặc thái độ của cá nhân đối với 1 sự kiện hoặc vấn đề được hỏi.
Dùng phương pháp này chúng ta cần có một buổi trao đổi trực tiếp với phụ huynh và trẻ để hiểu thêm tình trạng của trẻ, tình hình giao tiếp của trẻ tại nhà và với mọi người xung quanh. Từ đó chúng ta biết được trẻ của mình đang trong tình trạng nào, để có thể đưa ra những biện pháp phù hợp, sâu sắc đối với trẻ.
Phương pháp thống kê toán học:
Thông qua các số liệu, dữ kiện, thông tin thu thập được để chúng ta tiến hành xử lý số liệu qua đó rút ra những kinh nghiệm, kết luận để đánh giá các giả thuyết, nhận định về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ 3 – 4 tuổi và khẳng định độ tin cậy cùng tính thuyết phục của bài.
Cấu trúc luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến khích, luận án gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ở trẻ 3 – 5 tuổi Chương II: Thực trạng và vấn đề nghiên cứu tại địa bàn phường Long Biên Chương III: Biện pháp để giúp trẻ 3 – 5 tuổi rèn luyện tốt kỹ năng giao tiếp
6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP Ở TRẺ 3 – 4 TUỔI
Từ nhiêu thế kỷ trước, vấn dề giao tiếp đã được nhiều triết gia đề cập tới. Nhưng phải tới những năm 70 của thế kỷ XX, giao tiếp mới nổi lên và trở thành vấn đề lớn được các nhà tâm lý học nghiên cứu, bàn luận sôi nổi. Dù quan điểm có khác nhau, nhưng tất cả các nhà nghiên cứu đều có chung một điểm: coi giao tiếp là một phương thức tồn tại và phát triển của con người.
Vấn đề giao tiếp của trẻ em được nghiên cứu nhiều từ những năm 70, có thể kể ra những công trình như: về giao tiếp giữa trẻ em và người lớn của A.N Leonchiev, về giao tiếp giữa trẻ em với nhau” của D.B Econin…
Vào giữa thế kỉ XIX trong bản thảo Kinh tế - Triết học 1884, Các Mác ( 1818- 1883) đã viết: “Cảm giác và sự hưởng thụ của những người khác cũng trở thành sở hữu của bản thân tôi. Cho nên ngoài vũ khí quan trực tiếp ấy hình thành những khí quan xã hội, dưới hình thức xã hội. Chẳng hạn như giao tiếp với người khác đã trở thành khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong những phương thức chiếm hữu sinh hoạt của con người. Hơn thế nữa thông qua giao tiếp với người khác mà có thái độ với chính bản thân mình, mỗi người tự soi mình”. Ông đã chỉ ra rằng con người sẽ buộc phải giao tiếp với nhau, chỉ khi trở thành như vậy thì con người mới có sự xuất hiện của các mối quan hệ.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về vấn đề giao tiếp mới được nghiên cứu từ cuối những năm 1970 đến những năm 1980.
Một số công trình nghiên cứu về giao tiếp cho trẻ mầm non mà chúng ta có thể thấy và tham khảo đó chính là: “Nghiên cứu về hành vi giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi” của TS Hoàng Thị Phương, “Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ” của Trần Trọng Thủy, “Những vấn đề giao tiếp của trẻ ở trường mầm non” của Vũ Thị Ngân – Lê Xuân Hồng (biên dịch),…
7
Khái niệm về giao tiếp
Giao tiếp là đối tượng nghiên cứu của khoa học Tâm lý. Nhưng hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định nghĩa được dựa trên một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lý của nó. Có thể khái quát các hướng nghiên cứu giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lí học.
Tư tưởng về giao tiếp được đề cập từ thời cổ đại qua thời kỳ phục hưng về đến giữa thế kỷ XX thì hình thành nên một ngành Tâm lí học giao tiếp thì khái niệm giao tiếp chưa bao giờ thống nhất hoàn toàn. Có rất nhiều khái niệm về giao tiếp.
- Theo Từ điển tiếng việt định nghĩa: “giao tiếp là sự tiếp xúc trao đổi với nhau giữa con người với con người bằng ngôn ngữ”.
- Theo Bách khoa toàn thư: “giao tiếp là một quá trinh hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe nhằm đặt được mục đích nào đó”. Thông thường, giao tiếp trải qua 3 trạng thái:
+ Trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lí.
+ Hiểu biết lẫn nhau
+ Tác động ảnh hưởng lẫn nhau.
- Theo Tâm lí học đại cương của Trần Thị Minh Đức (chủ biên). Giao tiếp là quá trinh tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức, thông qua trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi tác giả tùy theo phương diện nghiên cứu của mình đã rút ra một định nghĩa giao tiếp theo cách riêng và làm nổi bật khía cạnh nào đó. Tuy vậy, số đông tác giả đều hiểu giap tiếp là tiếp xúc, trao đổi thông tin tác động lẫn nhau giữa người với người, qua đó sự tiếp xúc tâm lý được thực hiện, bộc lộ, hình thành. Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người.
Trong đề tài này tôi hiểu khái niệm giao tiếp của tác giả Trần Trọng Thùy và Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin cảm xúc, tri giác lẫn
8
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Hay nói cách khác, giao tiếp xác lập các quan hệ xã hội giữa các chủ thể này với các chủ thể khác”.
- Đặc điểm của giao tiếp
- Giao tiếp là một hiện tượng phức tạp, là đối tượng của nhiều ngành khoa học. Giao tiếp là đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý.
- Giao tiếp thể hiện sự tác động qua lại với nhau để thực hiện mối quan hệ của con người với con người. Nhờ có giao tiếp như là một công cụ, phương tiện mà các mối quan hệ của con người được thiết lập và phát triển.
- Giao tiếp được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự hiêu biết lẫn nhau, rung cảm ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau.
- Giao tiếp tạo điều kiện phát triển không chỉ nhân cách cá nhân mà con là tiền đề cho sự phát triển xã hội, cộng đồng, dân tộc hòa quyện vào nền văn minh nhân loại.
- Vai trò của giao tiếp
- Đặc điểm của giao tiếp
“Học ăn, học nói, học gói, học mở” là câu châm ngôn của ông bà ta để nói về tầm quan trọng của giao tiếp (học nói). Ngay từ xa xưa, những người có khả năng giao tiếp tốt đã nhận được đánh giá tích cực từ mọi người.
Kỹ năng giao tiếp đối với trẻ là tốt khiến người nghe hiểu được rõ ý của trẻ muốn truyền đạt, không gây ra sự hiểu lầm. Giao tiếp tốt còn giúp cho trẻ có thêm nhiều mối quan hệ cần thiết cho cuộc sống, công việc sau này. Việc cho trẻ học ngay từ nhỏ giúp não bộ giao tiếp của trẻ được mở rộng và phát triển.
Đây cũng được ví như chìa khóa giúp trẻ làm chủ, phát huy các kỹ năng còn lại. Là nền tảng giúp các bé nhận biết giá trị sống và dần hình thành các kỹ năng sống.
Thông qua giao tiếp trẻ còn có thể đối chiếu, so sánh hành vi, thái độ của bản thân từ đó có những phương pháp điều chỉnh phù hợp.
Khái niệm trẻ mẫu giáo
Trẻ mẫu giáo là trẻ trong giai đoạn từ 3 - 6 tuổi. Là giai đoạn trẻ đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển về mọi mặt tâm lý, sinh lý. Trẻ trong giai đoạn này
9
bắt đầu đến trường và hòa mình vào các hoạt động vui chơi học tập để phát triển toàn diện trở thành người có ích cho xã hội
Trẻ mẫu giáo bé phát triển chủ yếu là tư duy trực quan hành động. Tư duy của trẻ mẫu giáo bé đã đạt tới ranh giới của tư duy trực quan hình tượng. Nhưng các hình tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với hành động, tư duy của trẻ mẫu giáo bé còn gắn liền với xúc cảm và ý muốn chủ quan, cảm xúc còn chi phối mạnh mẽ quá trình tư duy của trẻ.
- Đặc điểm ngôn ngữ – giao tiếp
Từ 4 – 5 tuổi là thời điểm quan trọng để dạy trẻ nói cho nên ở trường mầm non các cô giáo cần tranh thủ lúc này để dạy trẻ nói không chỉ dạy trẻ nói rõ ràng, nói đúng câu mà phải dạy trẻ cả những lời nói đẹp, những cách ứng xử đẹp với mọi người xung quanh.
Trong giao tiếp hằng ngày cô nên thường xuyên nói chuyện với trẻ, đặt câu hỏi để gợi ý trẻ về các sự kiện diễn ra trong hàng ngày, hay tổ chức các trò chơi đóng vai theo chủ đề mà trẻ đang được học.
Vốn từ của trẻ mẫu giáo tăng nhanh, trẻ hiểu được nghĩa và dùng từ đã chính xác hơn trẻ độ tuổi mẫu giáo bé, sử dụng nhiều mẫu câu đơn giản, đúng ngữ pháp, có thể kể một số truyện ngắn một cách tuần tự, có thể kể chuyện tranh, đóng vai mô phỏng công việc của người lớn…
Mặt âm thanh của lời nói cũng phát triển nhanh chóng. Trẻ lĩnh hội và phát âm đúng được nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ bắt đầu biết điều chỉnh tốc độ, cường độ giọng nói.
Ở tuổi mẫu giáo, trẻ phải nắm được vốn từ cần thiết đủ để cho chúng giao tiếp với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức trong trường mầm non, xem các chương trình truyền hình… Vì thế, giáo dục học mầm non coi việc hình thành vốn từ cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ.
- Đặc điểm tình cảm – xã hội
Trong lứa tuổi mẫu giáo thì tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hành động tâm lý của trẻ nhưng đặc biệt ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ thì đời sống tình cảm của
10
trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ vừa phong phú vừa sâu sắc hơn so với lứa tuổi trước đó.
Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối tượng và bản thân của chủ thể giao tiếp, là khả năng sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp ở trẻ mầm non là khả năng trẻ sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ là sự thể hiện các thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi, thông qua nó.
Theo tâm lý học, tâm lý người có bản chất là hoạt động nói cách khác chính là tâm lý và ý thức (trong đó có kỹ năng) được nảy sinh, hình thành và phát triển trong quá trình chủ thể hoạt động. Việc hình thành kỹ năng giao tiếp cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố sau: đặc điểm khí chất với chức năng của hệ thần kinh não bộ, sự hoạt động tích cực của cá nhân và môi trường. Những yếu tố trên tác động qua lại khiến việc hình thành kỹ năng trở nên tốt hơn.
Ở lứa tuổi mầm non, tại nhà và tại trường khi trẻ được hướng dẫn, rèn luyện kỹ năng này thường xuyên sẽ giúp trẻ tự tin trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè và người thân. Khi giao tiếp tốt, trẻ chủ động hơn trong cách trao đổi thông tin, biết cách bày tỏ nguyện vọng cùng quan điểm cá nhân. Giao tiếp tốt còn mở ra nhiều cơ hội để trẻ kết nối với các mối quan hệ mới, giúp trẻ mở rộng mạng lưới quan hệ của mình
Kỹ năng giao tiếp còn là chìa khóa quan trọng để trẻ mở ra cơ hội học tập và rèn luyện các kỹ năng khác như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm…
Kể từ khi sinh ra, một đứa trẻ sẽ dần lĩnh hội kinh nghiệm trong xã hội thông qua giao tiếp cảm xúc của người lớn, qua đồ vật và đồ chơi xung quanh. Theo các nhà khoa học và nghiên cứu của M I Lixina chứng minh: Đặc điểm giao tiếp của trẻ với người lớn sẽ thay đổi và phức tạp theo suốt thời kỳ thơ ấu.
11
Sự phát triển giao tiếp của trẻ sẽ tạo nên khả năng tiếp thu kiến thức và kỹ năng sống từ môi trường xung quanh. Điều này rất quan trọng đến sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách cho trẻ.
Nhờ giao tiếp mà trẻ biết yêu thương, chia sẻ và quan tâm mọi người. Sự yêu thương trong giao tiếp với mọi người sẽ xuất hiện ở đứa trẻ 2 tháng tuổi. Khi đứa trẻ mới sinh ra chưa có nhu cầu giao tiếp, nhưng người lớn cần tạo bầu không khí giao tiếp đầy tình thương và ấm áp với trẻ. Dần dần bé sẽ hình thành nên khả năng giao tiếp và phát triển nó. Giai đoạn này trẻ vừa hiếu động vừa tò mò và háo hứng khám phá, nhạy cảm với thái độ của người lớn.
Lúc này trẻ chưa hoàn toàn phát triển ngôn ngữ của mình đầy đủ nên việc diễn đạt suy nghĩ đôi khi là khó khăn. Nhiều lúc cha mẹ sẽ hiểu sai ý của bé do cách diễn đạt chưa đúng. Vì thế mà trong quá trình giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ giáo viên cần định hướng cách thức giao tiếp và sử dụng phương tiện giao tiếp với trẻ sao cho phù hợp nhất.
Đặc biệt ở tuổi này trẻ sẽ có giai đoạn “Khủng hoảng tuổi lên 3” nếu phụ huynh, giáo viên không có những phương pháp đúng cách thì sẽ dễ gây ra hiện tượng con trẻ hay cáu gắt, không vừa ý hay trở nên ít nói, trầm tính khi bị mắng quá nhiều.
Bố mẹ có khả năng biểu đạt giao tiếp tốt thì khả năng giao tiếp của con cũng không tồi. Môi trường gia đình ảnh hưởng tương đối lớn đối với việc phát triển khả năng này của trẻ. Sự ảnh hưởng của các yếu tố gia đình đối với kỹ năng giao tiếp được phân thành 2 loại:
+ Thứ nhất là ảnh hưởng tích cực khi trong gia đình thường xuyên có sự giao lưu, trao đổi giữa bố - mẹ, bố mẹ - con cái tạo nên sự kích thích phát triển ngôn ngữ dẫn đến nhu cầu giao tiếp.
+ Thứ hai là gia đình ít có sự trao đổi giao lưu bằng ngôn từ giữa trẻ nhỏ và người lớn. Những người trong kiểu gia đình này thường trầm mặc, ít nói dùng câu từ đơn giản. Một cách tự nhiên, trẻ em sẽ không có được sự kích thích ngôn
12
ngữ vốn từ vựng không phong phú, sử dụng câu không linh hoạt, dẫn đến trẻ không có nhu cầu giao tiếp.
Ngoài ra, trẻ không có được sự quan tâm đầy đủ của bố mẹ trẻ không ai nói chuyện với trẻ, dễ bị trầm cảm và không có nhu cầu giao tiếp. Mặt khác, thời buổi công nghệ thông tin bố mẹ trẻ thường đưa điện thọai cho con cầm, con ngồi im là được. vì thế trẻ chỉ ngồi cái điện thoại nghịch không nói chuyện với ai nên nhu cầu giao tiếp là không có.
- Yếu tố môi trường
Trẻ sống trong môi trường hạn chế về giao tiếp, vốn từ của trẻ không phát triển, trẻ không có nhu cầu giao tiếp.
Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của trẻ.
- Bệnh lý thực thể
Hở hàm ếch là một ví dụ điển hình của bệnh lý miệng ảnh hưởng tới lời nói. Thắng lưỡi (phanh lưỡi) ngắn bất thường, làm hạn chế cử động của đầu lưỡi, cũng có thể ảnh hưởng tới khả năng phát âm của trẻ. Làm cho trẻ khó nói không có nhu cầu giao tiếp.
- Bệnh lý vận động miệng
Nhiều trẻ không nói được do trẻ gặp rắc rối tại các vùng não chịu trách nhiệm về nói, ví dụ bệnh loạn vận ngôn (mất phối hợp động tác trong việc nói). Lúc này, trẻ không kiểm soát được các cơ và phần cơ thể dùng để nói. Chẳng hạn môi, lưỡi hoặc hàm không thực hiện công việc bình thường để tạo một số từ nhất định.
- Khuyết tật trí tuệ, bệnh khó học, bệnh tự kỉ
Khuyết tật trí tuệ là nguyên nhân thường gặp gây chậm phát triển lời nói và ngôn ngữ. Trong bệnh khó học, do não hoạt động không hiệu quả, trẻ có thể gặp khó khăn trong: phát ra âm thanh lời nói, sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp, hiểu điều người khác nói. Rối loại lời nói và ngôn ngữ thường là dấu hiệu sớm nhất của trẻ khó học. Bệnh tự kỷ làm ảnh hưởng tới khả năng giao tiếp. Rối loạn lời nói và ngôn ngữ thường là biểu hiện sớm của bệnh tự kỷ. Tất cả những
13
khuyết tật đó đều ảnh hưởng đến ngôn ngữ của trẻ làm cho trẻ không có nhu cầu giao tiếp…
- Bệnh lý về thính giác, nhiễm trùng tai
Bệnh lý về thính giác cũng khá phổ biến ở trẻ ít nói, vì vậy trẻ cần được kiểm tra thính lực khi có lo ngại về khả năng nói. Trẻ mất thính lực gặp khó khăn trong hiểu ngôn ngữ của người xung quanh cũng như giọng nói của chính mình. Khả năng hiểu và nắm bắt các từ của trẻ thường thấp, trẻ không thể bắt chước các từ và nói đúng hoặc nói trôi chảy. Không ít trẻ mắc nhiều đợt viêm tai trước khi được 3 tuổi. Bệnh nhiễm trùng tai nếu được điều trị kịp thời và không gây rắc rối sẽ không làm tăng nguy cơ chậm nói. Tuy nhiên, viêm tai giữa mạn tính có thể ảnh hưởng tới ngôn ngữ. Nếu bệnh tồn tại dai dẳng, không đáp ứng với điều trị và thường xuyên tái phát thì cần đưa trẻ đi khám chuyên khoa tai mũi họng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Ở độ tuổi 3 – 4 tuổi trẻ đang hình thành và phát triển về mặt ngôn ngữ khá lớn nên trẻ thường xuyên biểu đạt nguyện vọng, ý kiến của bản thân mình thông qua những câu nói tuy ngắn nhưng cũng rất nỗ lực. Vì vậy giáo viên mầm non chúng ta cần phải có những hành động, hoạt động kích thích trẻ nói, bộc lộ thứ mà bản thân mong muốn để tạo sự tự tin, can đảm dám nói ra trước mọi người. Chương I đã trình bày về những vấn đề chung về kỹ năng giao tiếp nói chung. Tiếp đó, chương 1 đã nói lên một số lí luận về kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo. Đó là cơ sở ban đầu đặt nền móng cho việc tìm hiểu các biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo.
14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TẠI ĐỊA BÀN PHƯỜNG LONG BIÊN
Địa bàn và khách thể nghiên cứu:
Phường Long Biên nằm ở phía Đông Bắc Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 5km. Phía Bắc và Đông Bắc giáp sân bay Gia Lâm, phường Phúc Đồng; phía Tây và Tây Bắc giáp phường Bồ Đề; phía Nam và Tây Nam giáp sông Hồng, bên kia là quận Hai Bà Trưng và quận Hoàng Mai; phía Đông và Đông Nam giáp phường Cự Khối, phường Thạch Bàn. Địa hình khá phức tạp, chạy dài từ phường Bồ Đề theo dọc đê Sông Hồng đến phường Thạch Bàn, xen kẽ với nhiều cơ quan xí nghiệp và các khu tập thể, là đầu mối của một số đường giao thông quan trọng như đường bộ, đường không, đường sông, có cầu Vĩnh Tuy nối liền sự giao lưu phát triển kinh tế trong phạm vi quận, thành phố và khu vực. Phường được thành lập theo Nghị định số 132/2003/NĐ/CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ và đi vào hoạt động từ 01/01/2004 trên cơ sở xã Long Biên, phường có diện tích đất tự nhiên là 748 ha, trải dài ở 12 tổ dân phố
Long Biên là vùng đất có truyền thống văn hóa - lịch sử - cách mạng lâu đời, trên địa bàn phường có nhiều di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng như: đình - chùa Thạch Cầu, đình - chùa - nghè Tư Đình, đình - chùa Trạm, đình - chùa Nha. Khi mới thành lập, Long Biên là phường có hạ tầng cơ sở yếu kém, kinh tế chậm phát triển, thu nhập của nhân dân chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp.
Được sự quan tâm lãnh đạo của Quận ủy, UBND quận, với ý chí và quyết tâm cao Đảng bộ, Chính quyền tập trung thực hiện những nhiệm vụ mới, trọng tâm là phát triển kinh tế gắn với tăng cường công tác quản lý đất đai, khai thác có hiệu quả các nguồn thu, đầu tư hạ tầng xã hội, giao thông, đô thị,...Từ những nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, hệ thống chính trị và nhân dân trên địa bàn, sau hơn 10 năm phường Long biên đã thu được nhiều kết quả và thành tựu đáng tự hào.
Trường mầm non Long Biên nằm ở phía Bắc sông Hồng, chạy dọc theo triền đê thuộc địa phận Phường Long Biên - Quận Long Biên - Thành Phố Hà Nội. Trường được thành lập trước năm 1974. Từ năm 1974 đến năm 2003 trường Mầm non Long Biên thực hiện chương trình giáo dục cải cách. Tháng 01 năm 2004 trường được chuyển từ trường mầm non nông thôn thành mầm non bán công Long Biên và thực hiện chương trình đổi mới hình thức giáo dục. Năm
15
2008 Trường Mần non Bán công Long Biên lại đổi tên thành trường Mầm non Long Biên và giữ tên Mầm non Long Biên cho đến nay.
Trường có 3 khu với tổng diện tích mặt bằng là 4.887 m2 với 21 phòng học, sân trường rộng 3.133 m2 đảm bảo tốt cho trẻ được tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động học tập. Sân chơi có 07 loại đồ chơi ngoài trời, đảm bảo 50% là sân cỏ, vườn rau và các bồn cây trồng hoa, cây xanh và cây bóng mát tạo quang cảnh sáng- xanh- sạch- đẹp và thân thiện đảm bảo môi trường và phong cảnh sự phạm.
Trường có đầy đủ các phòng chức năng, khu hiệu bộ được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi dạy và học hiện đại. Hệ thống bếp được xây dựng theo quy chuẩn bếp một chiều, được trang bị đầy đủ đồ dùng phục vụ công tác bán trú của trẻ hiện đại như: Tủ cơm, tủ hấp khăn, máy xay thịt, tủ lạnh, máy sấy bát, tủ đựng xoong nồi, bát có lưới chắn côn trùng… 100% nồi xoong, bát thìa của trẻ được đầu tư bằng Inox, hệ thống bếp ga được đảm bảo an toàn và đúng theo qui định, nhằm phục vụ tốt cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường.
Đội ngũ CBGVNV của nhà trường ngày càng hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay nhà trường có tổng số CB-GV-NV là 80 người đều đã qua các lớp đào tạo bồi dưỡng và được phân công công việc theo đúng chuyên môn và năng lực theo vị trí việc làm. Hiện tại trường có 01 đ/c cán bộ đang bồi dưỡng trình độ Thạc sĩ; 100% giáo viên đạt chuẩn trong đó có 50% giáo viên nhân viên trên chuẩn, hiện tại đang có 25 giáo viên đang theo học Đại học để nâng cao trình độ chuyên môn. 95% giáo viên biết sử dụng vi tính để soạn bài và phục vụ cho công tác giảng dạy, 95% giáo viên có chứng chỉ tin học, 92% giáo viên có chứng chỉ ngoại ngữ và 70% giáo viên biết thiết kế, xây dựng giáo án điện tử, kho học liệu điện tử theo các chủ đề của từng độ tuổi, để đưa vào phục vụ trong các hoạt động giảng dạy chương trình giáo dục mầm non mới. Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, ham học hỏi, sáng tạo, linh hoạt trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ nên đã tạo được niềm tin yêu, quý trọng trong phụ huynh.
Nhà trường luôn bồi dưỡng, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Chỉ đạo giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường sử dụng thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng CNTT vào soạn giảng. Tạo điều kiện cho giáo viên trong nhà trường bồi dưỡng và nâng cao trình độ năng lực chuyên môn gắn với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, thực hiện "Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo".
16
Nhà trường thực hiện đổi mới quản lý giáo dục, nâng cao năng lực quản lý bằng cách tự học, tự bồi dưỡng, tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ. Đổi mới tư duy quản lý giáo dục, công tác thanh kiểm tra đi vào đánh giá thực chất. Thực hiện đổi mới toàn diện về nội dung và phương pháp giáo dục, chỉ đạo việc ứng dụng CNTT trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ. Tăng cường khai thác thông tin trên mạng Internet để phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Quan tâm tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho trẻ, đưa giáo dục kỹ năng sống, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, lễ giáo, vệ sinh tự phục vụ vào dạy trẻ. Tổ chức tốt các hoạt động văn nghệ, TDTT, hội chợ quê, triển lãm sản phẩm của trẻ… Nhà trường đã chỉ đạo tốt giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục ATGT, tiết kiệm năng lượng, tìm hiểu về biển và hải đảo…để đưa vào các hoạt động hàng ngày dạy trẻ phù hợp với từng độ tuổi. Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học luôn xanh - sạch - đẹp, khung cảnh sư phạm phù hợp.
Tiến hành quan sát 35 trẻ trong lứa tuổi 3-5 tuổi tại trường Mầm non Long Biên – TP Hà Nội.
Do đặc điểm tâm lý của mỗi trẻ là khác nhau nên nhu cầu cũng như kỹ năng giao tiếp là khác nhau. Chính vì vậy cần phải quan sát kĩ rồi đưa ra giải pháp hợp lý để giáo dục trẻ.
Giới thiệu quá trình khảo sát thực trạng:
Tìm hiểu, khảo sát và nằm bắt được tình trạng về kỹ năng giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi) tại trường Mầm non Long Biên, xem qua những phương pháp, đề xuất mà các giáo viên tại trường đã áp dụng đối với trẻ mẫu giáo. Từ đó xem xét và kết luận ra được những ưu điểm và nhược điểm của những biện pháp trên rồi đề xuất ra những phương án mới và đưa lên cho phía nhà trường tham khảo.
Khảo sát số lượng trẻ mẫu giáo bé 3 – 5 tuổi có kỹ năng giao tiếp theo các mức độ sau đây: Tốt, Bình thường, Kém, Yếu tại trường mầm non.
Công tác giúp trẻ hình thành, phát triển kỹ năng giao tiếp của phía nhà trường, giáo viên mầm non
17
-Trẻ mẫu giáo bé 3 – 5 tuổi tại trường mầm non
-Cán bộ, giáo viên của trường
-Phía gia đình của trẻ
Soạn, thiết kế ra bộ câu hỏi để tìm hiểu nhận thức của giáo viên, phụ huynh về vấn đề giao tiếp của trẻ tại trường học và cả khi ở nhà.
Bộ câu hỏi phải chia ra nhiều chiều hướng khác nhau cả về tiêu cực lẫn tích cực để chúng ta có được những kết quả sát với thực tiễn nhất rồi mới đưa ra những đề xuất chính xác và có hiệu quả nhất
- Phương pháp quan sát
Trực tiếp và hàng ngày quan sát sự giao tiếp của trẻ với giáo viên, các bạn xung quanh
Các hoạt động kích thích sự giao tiếp dành cho trẻ đã hiệu quả chưa
- Phương pháp phỏng vấn
Trao đổi với phụ huynh về việc giao tiếp với con ở nhà, kỹ năng của con đã tốt chưa hay còn một số vướng mắc gì có thể chia sẻ cùng để việc khảo sát ngày một tiến triển tốt lên và có nhiều biện pháp cụ thể giúp đỡ cho phụ huynh và cả cho giáo viên
- Phương pháp thống kê toán học
Sau khi đã thu thập được những số liệu, dữ kiện trên thì chúng ta tiến hành bước xử lý nó. Lập bảng thống kê theo như tiêu chí đã xác định ban đầu là số lượng trẻ trong cuộc khảo sát ở mức độ: Tốt, Bình thường, Kém, Yếu.
Kết quả khảo sát:
Sau khi xử lý số liệu thì chúng ta thấy được như các biểu đồ thể hiện:
18
19
20
Ngoài các bảng số liệu thì chúng ta còn thu thập được những ý kiến của phụ huynh về câu hỏi: “Bạn nghĩ sao về vấn đề giao tiếp của bé?”
- Rất quan trọng đối với bé, cần phải có từ sớm để kịp thích nghi
- Vì bé đang trong giai đoạn tập nói rất nhiều,đa số bé nói những từ đơn giản như ba, ma, đôi khi cũng phát âm từ "anh, chị" nhưng vẫn còn bị ngọng và phát âm chưa sõi.
- Vấn đề giao tiếp của bé rất quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ
- Bé có tật xấu khi nói chuyện thường xuyến hét lên hoặc khóc lớn khi không đồng tình chuyện gì thay vì nói "không".
- Bé không thích nói chuyện với mọi người, không hay nói chuyện thường chỉ dùng hành động
- Bé nhà mình tính kì, hay bị các bạn xa lánh và trêu chọc. Mình và gia đình đã và đang cố gắng để giúp bé hòa nhập với các bạn cùng lớp.
- Ngại giao tiếp với người lạ, khép mình chưa cởi mở
- Bé nói tốt với bố mẹ, ông bà và mọi người xung quanh
Theo đánh giá chung có thể thấy được công tác giúp trẻ rèn luyện kỹ năng giao tiếp ở trẻ mẫu giáo tại trường Mầm non Long Biên khá tốt bởi tỷ lệ trẻ ở tình trạng Kém, Yếu chiếm mức % khá ít trong tổng số 100% ở các môi trường khác nhau, gia đình của các bé đều rất phối hợp với nhà trường để giúp trẻ tiến bộ từng ngày. Tuy vậy chúng ta vẫn nên cải cách và tiếp tục đổi mới những phương pháp dành cho các bé thuộc tình trạng Kém và Yếu để giúp những đứa trẻ ấy phát triển toàn diện về kỹ năng giao tiếp, tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với những người xung quanh.
Đồng thời có thể nêu ra những biện pháp rèn luyện đặc biệt chuyên sâu giành riêng cho những bé trong 2 tình trạng trên, góp phần làm giảm đi số lượng bé ở trong tình trạng này.
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Thông qua cuộc khảo sát chúng ta có thể thấy được thực trạng về giao tiếp ở trẻ mầm non hiện nay cụ thể là ở trường mầm non Long Biên. Tỷ lệ trẻ giao tiếp
21
Tốt, Bình thường chiếm khá cao cũng cho thấy được nhà trường đã rất quan tâm tới vấn đề này cũng như cả phụ huynh của các bé phối hợp cùng nhà trường để giúp cho trẻ. Tuy rằng không quá nghiêm trọng nhưng vẫn có tỷ lệ trẻ ở tình trạng giao tiếp Kém, Yếu chiếm % nhỏ, vì vậy chúng ta cần cố gắng tìm ra những phương pháp tốt, cụ thể để giúp cho những bé còn ở tình trạng trên ngày một tiến bộ.
22
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP ĐỂ GIÚP TRẺ RÈN LUYỆN TỐT KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO TRẺ MẦM NON
Thường xuyên lắng nghe, trò chuyện cùng trẻ
Nhu cầu được lắng nghe và chia sẻ ở trẻ mầm non là rất lớn. Trẻ thích thú với nhiều câu chuyện khác nhau về đồ chơi, bạn bè hay các sự vật hiện tượng xung quanh. Do đó, giao viên và phụ huynh nên dành thời gian lắng nghe trẻ, hướng dẫn trẻ thêm những thông tin cần thiết. Việc này sẽ giúp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mầm non.
Cha mẹ cũng có thể bắt đầu bằng việc đặt cho trẻ những câu hỏi về gia đình, trường lớp như “Ở nhà các con thích ăn gì”, “Hôm nay con đi học có vui không?”, “Con thấy các bạn ở lớp thế nào?”… và khuyến khích trẻ trả lời để giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp của bản thân, cụ thể là khả năng tư duy, bày tỏ cảm xúc, quan điểm của trẻ.
Ở lớp cũng sẽ có nhiều bé nhút nhát, không tự tin tham gia các hoạt động ở trong lớp nên để thu hút được sự chú ý của các bé trước tiên chúng ta cần tìm hiểu những mong muốn và sở thích của bé rồi đề ra các phương án cho những bé như vậy. Giáo viên có thể lập những quyển sổ nhỏ hay tấm giấy lớn có ảnh các bé, cuối tuần bé nào có sự tiến bộ, tham gia hoạt động tốt của lớp sẽ được dán sao và cuối tháng sẽ nhận được phần quà nho nhỏ.
Thông qua các giờ đón, trả trẻ, những lúc rảnh rỗi, giáo viên nên tìm cách trò chuyện, hỏi han các con, hay có thể tự kể về những kỷ niệm vui buồn của bản thân mình để trẻ gần gũi với các cô hơn. Từ đó dần dần gợi hỏi trẻ, kích thích trẻ kể về bản thân mình trước lớp, trước các bạn và các cô. Trẻ sẽ dần dần tự tin hơn trong giao tiếp.
Xây dựng môi trường giao tiếp cho trẻ mầm non
Trẻ còn nhỏ đang trong quá trình học hỏi, tiếp thu kỹ năng giao tiếp nên rất cần môi trường để rèn luyện. Vì vậy, cô và phụ huynh cần tạo ra những môi trường giao tiếp lành mạnh và năng động cho trẻ. Cha mẹ và cô nên khuyến khích trẻ tham gia vào những hoạt động có sự tương tác giao tiếp giao tiếp giữa cô, cha mẹ và trẻ, giữa trẻ và bạn bè như các hoạt động học nhóm, đóng kịch, văn nghệ… Phụ huynh nên dành thời gian giao tiếp với trẻ, cho trẻ tiếp xúc với nhiều người, dạy trẻ về thế giới xung quanh như đưa trẻ đến siêu thị, trung tâm
23
mua sắm, công viên, sở thú, bờ sông… tạo cơ hội trẻ quan sát, học giao tiếp với nhiều tình huống sinh hoạt trong cuộc sống.
Khi có môi trường giao tiếp, trẻ sẽ cảm thấy vui vẻ, năng động, thích trò chuyện. Người lớn cần quan tâm, để ý tới cảm xúc của trẻ nhiều hơn. Nếu thấy trẻ có biểu hiện nhút nhát, ít nói, ngại giao tiếp thì cần động viên trẻ. Bên cạnh đó, trẻ cần được xếp vào những nhóm trẻ mạnh dạn để học cách tự tin, năng động. Nói chuyện với các em nhiều hơn đồng thời cũng để các em có thể chia sẻ những suy nghĩ của chính bản thân trẻ. Trong quá trình luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh các cô cần thay đổi ngữ điệu, giọng nói cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp. Trên lớp các cô giáo nên gọi tên trẻ, khuyến khích trẻ xưng tên và gọi tên người khác khi giao tiếp.
Giao tiếp không chỉ là nói mà còn là dùng ngôn ngữ cơ thể để diễn đạt. Trẻ có thể dùng cảm xúc, ánh mắt, nụ cười, các hoạt động tay chân để truyền tải thông điệp muốn giao tiếp của mình.
Lúc này, giáo viên và phụ huynh chính là tấm gương, là hình mẫu để trẻ học sử dụng những hình thức giao tiếp này chẳng hạn như cha mẹ nên niềm nở, tươi cười khi nói chuyện với trẻ và những người xung quanh, nhìn thẳng vào mắt người đối diện khi giao tiếp (giao tiếp bằng mắt), hướng người về phía người nói khi giao tiếp và có các biểu hiện thể hiện sự lắng nghe như gật đầu, mỉm cười… Học được năng lực biểu cảm cảm xúc giúp trẻ rèn luyện hiệu quả kỹ năng giao tiếp hơn.
Cho trẻ thực hành kỹ năng giao tiếp
Càng được thực hành nhiều, kỹ năng giao tiếp của trẻ càng được phát triển và hoàn thiện. Do đó, giáo viên và phụ huynh cần tạo nhiều cơ hội để trẻ được thực hành giao tiếp. Trong học tập, phụ huynh nên khuyến khích trẻ trao đổi, nhận xét, với bạn bè và cô giáo về quan điểm của mình.
Phụ huynh cũng nên khuyến khích trẻ học và rèn luyện kỹ năng giao tiếp thông quan hoạt động diễn kịch, đóng vai. Giáo viên cùng phụ huynh còn có thể đọc sách cùng trẻ rồi nhận xét về quyển sách đó hoặc đưa ra những câu hỏi về nội dung sách để trẻ trả lời…
Trong lớp học nên sử dụng các đồ dùng học tập, đồ chơi để làm phương tiện phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ: giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và phương tiện
24
giao tiếp phi ngôn ngữ (nét mặt, cử chỉ, các điệu bộ khi chơi,…) Cùng trẻ chơi những trò chơi dân gian, đọc các bài thơ,…
Tập cho trẻ giao tiếp với các bạn cùng trang lứa và mọi người xung quanh để rèn cho trẻ sự mạnh dạn, tính cởi mở khi giao tiếp. Các cô có thể cho các trẻ đóng vai những nhân vật mà các em yêu thích thông qua các vở kịch ý nghĩa. Vừa có thể giúp trẻ giao tiếp mạnh dạn hơn vừa có thể giúp trẻ học được những thông điệp ý nghĩa qua các vở kịch.
Trẻ em như trang giấy trắng vậy nên chúng sẽ học theo những gì người lớn chúng ta thể hiện ra bên ngoài. Luôn coi cô là tấm gương phản chiếu chính những cảm xúc của chúng. Nếu cô giáo đang lo lắng, buồn sầu chắc chắn sẽ không thể thể hiện được những điều tốt đẹp.
Nụ cười có thể đưa cô và trẻ đến gần nhau hơn. Mỗi khi trẻ làm sai một cái gì đó, nếu cô giáo nhẹ nhàng nở một nụ cười và trò chuyện giúp bé hiểu lỗi sai và khắc phục sẽ hiệu quả hơn là khi cô trừng mắt và la mắng trẻ, trẻ sẽ không biết trẻ sai chỗ nào, mà còn làm trẻ sợ, không dám kể với cô tại sao như vậy. Vì vậy khi ở bên trẻ cô giáo nên cố gắng tạo tâm lí vui vẻ để trẻ cảm thấy an toàn và vui. Khi đó chắc chắn trẻ sẽ tham gia hoạt động tích cực và nói ra nhu cầu của bản thân trẻ cùng cô.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động chơi đóng vai trò chủ đạo, chơi chính là cuộc sống của trẻ. Thông qua trò chơi, trẻ được lĩnh hội và rèn luyện những kỹ năng cho trẻ một cách tự nhiên và hứng thú, rèn cho trẻ mạnh dạn giao tiếp cùng bạn bè của mình. Tất cả những điều này tác động một cách tích cực lên trẻ. Làm cho trẻ mầm non cảm thấy hứng thú muốn đến trường, muốn giao tiếp với cô, bạn bè.
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là trò chơi đặc trưng tiêu biểu cho hoạt động nhóm, chính trò chơi đã thôi thúc trẻ đến với nhau, tập hợp thành nhóm chơi, cùng chơi, cùng hoạt động với nhau. Vì vậy, thông qua trò chơi hình thành cho trẻ kỹ năng hợp tác với các trẻ khác trong cùng độ tuổi hoặc với trẻ ở độ tuổi khác nhau.
25
Để trẻ trải nghiệm cảm xúc, tình cảm, hành vi xã hội cho trẻ mẫu giáo. Đặc biệt, khi trẻ tham gia chơi những vai giàu cảm xúc như vai mẹ, bác sĩ, cô giáo,…trẻ được trải nghiệm những cảm xúc phong phú. Nhờ vậy, trẻ có điều kiện phát triển đời sống xúc cảm, tình cảm đặc biệt là tấm lòng nhân hậu, cốt lõi của nhân cách con người.
Đây là một trò chơi vui nhộn cho trẻ luyện tập sức mạnh của diễn tả. Giáo viên sẽ cắt một cái lỗ trong một cái hộp vừa tay để trẻ cho tay vào. Sau đó đặt một đồ vật trong chiếc hộp và yêu cầu trẻ diễn tả cảm giác về đồ vật ấy. Cả lớp sẽ thay phiên nhau đoán đó là đồ vật gì.
Ví dụ như sau: Với chủ đề đồ vật cá nhân, em sẽ để các dụng cụ của cá nhân trẻ cần như bàn chải, khăn, ca, kem đánh răng, lược, nón, bàn chải đánh răng, …. Rồi cho tất cả đồ vật vào trong chiếc hộp. Sau đó mời lần lượt từng trẻ lên sờ và đoán một đồ vật trong hộp như thế nào khi trẻ sờ vào nó, nó là đồ vật gì, dùng để làm gì. Sẽ có nhiều trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn chia sẻ cùng cô và các bạn, lúc này tôi sẽ gợi ý để trẻ tự tin nói và kể về đồ vật trẻ sờ được.
Giáo viên cần chuẩn bị: 1 bảng nam châm, lô tô các con vật. Tranh vẽ một khu rừng với đủ các con vật.
Cách chơi: Cô giơ tranh lên và yêu cầu trẻ chú ý quan sát bức tranh trong vòng 1-2 phút xem trong bức tranh có hình ảnh những con vật gì? Sau đó các cô sẽ che bức tranh đi. Cô sẽ yêu cầu trẻ nhớ lại và kể tên các con vật có trong tranh. Trẻ kể đến con vật nào thì cô sẽ gắn hình ảnh của con vật đó lên. Cuối cùng giáo viên lật tranh và cho trẻ kiểm tra lại bằng cách gọi tên các con vật trong bức tranh…
Tác dụng: Trò chơi thông minh nhanh trí giúp trẻ tăng khả năng ghi nhớ tốt hơn, phát âm chuẩn hơn. Trẻ nhớ lâu hơn các kiến thức đã học về thế giới động vật. Đồng thời trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non này sẽ tạo cho trẻ hứng thú, vui vẻ hơn.
26
TIỂU KẾT CHƯƠNG III
Dựa trên cơ sở lý luận và kết quả khảo sát thực trạng, đã đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Môi trường ở nhà cxung như ở lớp học gây ảnh hưởng không kém đến kỹ năng giao tiếp của trẻ, do đó phụ huynh và giáo viên cần chú ý đến môi trường xung quanh trẻ. Trong giờ học thì giao tiếp giữa cô và trẻ là chủ yếu vậy nên giáo viên cần phải chú ý tới ca phương pháp, biện pháp để thúc đẩy kỹ năng giao tiếp của trẻ. Ở mỗi trẻ, thì ở nhà, trong giờ học, giờ chơi, trẻ giao tiếp với mọi người, đây cũng là điều kiện tốt để trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp.
27
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, rút ra một số kết luận sau:
Giao tiếp là hoạt động đặc thù của con người, là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ mầm non. Trong đề tài này đã nói về kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo.
- Kỹ năng giao tiếp của trẻ được biểu hiện qua cảm xúc và hành vi ứng xử của trẻ mẫu giáo.
- Mức độ biểu hiện của cảm xúc và hành vi ứng xử của mỗi trẻ là không giống nhau, có sự khác biệt giữa trẻ nam và nữ tuy nhiên là không lớn.
- Bên cạnh một số trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt thì một số trẻ không có hoặc kỹ năng giao tiếp kém.
- Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan gây ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của trẻ. Sự ảnh hưởng của các nguyên nhân đó có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới kỹ năng giao tiếp của trẻ. Trong đó cũng không thể xem nhẹ nguyên nhân nào. Nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng lớn nhất là do trẻ sinh ra bị khuyết tật trí tuệ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của ngôn ngữ làm cho trẻ không cung cấp đủ vốn từ giao tiếp dẫn đến kỹ năng giao tiếp kém hoặc không có kỹ năng giao tiếp. Nguyên nhân khách quan lớn nhất là do yếu tố gia đình.
Bố mẹ ít nói chuyện với trẻ làm cho kỹ năng giao tiếp của trẻ kém.
Kiến nghị
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng tôi đa ra một số kiến nghị sau:
Về phía gia đình
Cần quan tâm đến trẻ, thường xuyên trò chuyện với trẻ bằng lời lẽ đẹp, hay đảm bảo trẻ được phát triển trong môi trường giao tiếp tốt để phát triển được hết kỹ năng giao tiếp của trẻ.
Đối với gia đình có trẻ mắc bệnh ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp thì phải kết hợp với nhà trường cùng trung tâm y tế để đưa ra được biện pháp phù hợp cho trẻ phát triển tốt nhất có thể.
28
Về phía nhà trường
Ở trường mầm non cần có đủ về cơ sở vật chất tạo điều kiện cho kỹ năng giao tiếp của trẻ được phát triển.
Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoại khóa: lễ hội, vui chơi, tham quan… qua đó trẻ học hỏi được nhiều thứ, các trẻ dễ tiếp thu được nhiều vốn từ tăng kỹ năng giao tiếp của trẻ.
Tổ chức các buổi họp giữa phụ huynh với nhà trường để đưa ra các lời khuyên, biện pháp về kỹ năng giao tiếp cho trẻ để có thể phát triển tốt nhất cho con em của họ.
Về phía giáo viên
- Giáo viên cần phải kết hợp giữa gia đình và nhà trường để có những biện phấp tốt nhất phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ.
- Cần phải thúc đẩy kỹ năng giao tiếp của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trần Thị Minh Đức (1995), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học QGHN.
- Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lý học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Uẩn – Trần Trọng Thủy, Tâm lý học đại cương, NXB ĐHSP.
- Lê Xuân Hồng – Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo
- Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, NXB ĐHSP.
- Nguyễn Ngọc Bích, Tâm lí học nhân cách, NXB ĐHQG, Hà Nội.
- http://longbien.longbien.hanoi.gov.vn/gioithieu1? p_p_id=101&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_ id=column1&p_p_col_count=1&_101_struts_action=%2Fasset_publisher
%2Fview_content&_101_assetEntryId=256290&_101_type=content&_101_url Title=bai-gioi-thieu-ve-phuong-long-bi-1
- https://consosukien.vn/nganh-giao-duc-va-dao-tao-quan-long-bien-khong- ngung-nang-cao-chat-luong-giao-duc-toan-dien.htm
- https://monkey.edu.vn/ba-me-can-biet/nuoi-day-con/ky-nang-song/tro-choi- phat-trien-ky-nang-giao-tiep-cho-tre
- https://butmaithayanh.com.vn/2019/01/17/nhung-tro-choi-giup-be-phat-trien- ky-nang-giao-tiep-cuc-ky-hieu-qua/
- https://dochoihoangha.com/edu/mot-so-bien-phap-ren-ky-nang-giao-tiep- cho-tre-mam-non-3-4-tuoi.html
30