Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay | Tiểu luận môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Môn ” Triết học Mác - LêNin ” có thể nói là một môn học rất khó để có thể hiểu được cặn kẽ, rõ ràng về nó. Do vậy việc làm bài ” Tiểu luận Triết học ” cũng hẳn không nằm ngoài mục đích giúp cho sinh viên có thể hiểu sâu, rộng hơn về môn học này. Muốn vậy mỗi người phải tự tìm tòi, tra khảo các tài liệu, sách báo để phục vụ cho công việc của mình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TIỂU LUẬN:
Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường
phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Lời giới thiệu
ôn Triết học Mác - LêNin thể nói một môn học rất khó để
có thể hiểu được cặn kẽ, rõ ràng về nó. Do vậy việc làm bài ” Tiểu luận Triết học
cũng hẳn không nằm ngoài mục đích giúp cho sinh viên thể hiểu sâu, rộng
hơn về môn học này. Muốn vậy mỗi người phải tự m tòi, tra khảo các tài liệu,
sách báo để phục vụ cho công việc của mình.Và vì thế bề dầy kiến thức của mỗi
người sẽ được tăng lên.Về đề tài "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế -
hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” hẳn rất bổ ích
cần thiết từ xưa con người đã muốn m hiểu về chính mình, về thế giới xung
quanh vấn đề đặt ra hết sức bức xúc Kinh tế - hội bao trùm lên tất
cả, nó gắn liền với mỗi người mà ở đây hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác là một
bước đột phá, là nền tảng lý luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu
như thế nào để vận dụng vào thực tiễn nước ta, quá độ lên Chủ nghĩa hội
là hết sức cần thiết.
Bố cục của bài tiểu luận gồm ba phần chính như sau:
PhầN A: Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về hình thái kinh tế
II. Tính cấp thiết của đề tài.
III. Mục đích,ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
PHầN B: Nội dung
I. Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội
II. Quá độ lên Chủ nghĩa hội,con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
PHầN C: Kết luận
phần a
Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về Hình thái kinh tế Xã hội.
ình thái Kinh tế - Xã hội một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ hội từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu Quan hệ
sản xuất đặc trưng cho hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của Lực
lượng sản xuất với một Kiến trúc thượng tầng phù hợp được xây dựng trên
những quan hệ ấy.
Ngoài những mối quan hệ bản trên đây Hình thái Kinh tế - Xã hội còn
những quan hệ về dân tộc, giai đoạn lịch scác quan hệ khác. Các quan hệ
trên đây tuy vai trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bởi những điều
kiện vật chất kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội.
II. Tính cấp thiết của đề tài.
Học thuyết của Mác về Hình thái Kinh tế - hội ra đời một cuộc cách
mạnh trong toàn bộ quan niệm về lịch sử hội, sở phương pháp luận của
sự phát triển khoa học về quá trình vận động và phát triển xã hội. Nhờ có lý luận
Hình thái Kinh tế - Xã hội này lần đầu tiên trong lịch sử Mác đã chỉ được bản
chất của từng chế độ hội. Như vậy, luận hình thái Kinh tế - hội giúp
chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn khoa học về svận hành của hội
trong giai đoạn phát triển nhất định.
Do đặc điểm về lịch sử về những quan hệ thời gian, không phải quốc gia
nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái Kinh tế - hội theo một đồ
chung.Lịch sử cho thấy những nước đã bỏ qua một hình thái Kinh tế - hội
nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Vận dụng điều này vào hoàn cảnh c
thể nước ta hiện nay chúng ta sở khoa học để chứng minh rằng con
đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa ở nước ta - cả trong
điều kiện hiện nay - vẫn là tất yếu và hoàn toàn có khả năng thực hiện được.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài : "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế
- hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” rất thực
tiễn và cấp bách cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
III. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài "Vận dụng luận về Hình thái kinh tế - hội giải
thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” giúp chúng ta thêm phần
hiểu về hình thái Kinh tế - hội của Mác áp dụng luận này vào thực
tiễn ở nước ta hiện nay.
2. ý nghĩa
Việc nắm vững bản chất khoa học của lý luận về hình thái Kinh tế Xã hội sẽ
thể hiện được chính xác những vấn đề còn yếu nhất của đời sống Kinh tế Xã hội.
Mà muốn thực hiện tốt một điều gì thì phải hiểu được bản chất của nó, do vậy đối
với cách mạng Chủ nghĩa hội đây ta nói đến nước ta quá độ lên Chủ
nghĩa hội bỏ qua chế độ bản thì việc nghiên cứu về Hình thái Kinh tế
hội để áp dụng thật linh động vào thực tiễn nước ta một việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết.
phần b
nội dung
I. Học thuyết về nh thái Kinh tế - hội. Nền tảng luận của ch
nghĩa duy vật lịch sử.
1. Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội
hi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử Mác F.Ăngen đã xuất
phát từ những tiêu đề sau đây :
" Tiên đè đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì nhiên là sự tồn tại
của những nhân, con người sống ”. hội dưới bất một hình thức o
cũng sự liên hệ tác động qua lại giữa người với người. Ngay từ khi mới ra
đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu về chính mình và về Thế giới xung quanh.
Các nhà tưởng đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều hình thức, nhiều
góc đkhác nhau nhiều đóng góp quý báu : Phát hiện ra nhiều thuộc tính,
phẩm chất, năng lực phong phú, diệu của con người về mọi mặt sinh học,
hội cũng như tâm lý, ý thức. Trên cơ sở đó, họ có đề xuất những con đường, biện
pháp hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp. Nhưng do những hạn chế lịch sử,
nên những nhà tưởng trước đây chưa cái nhìn đầy đủ về tồn tại của con
người cũng như về lịch sử hội loài người, do vậy, họ đã mắc một sai lầm lớn.
Để khắc phục điều này triết học Mác đã những phát hiện mới, những đóng
góp mới. Lần đầu tiên Mác vạch ra phương thức tồn tại của con người, xuất phát
từ cuộc sống của con người hiện thực. Mác đưa ra một trong những luận điểm
được coi là quan trọng nhất trong quan điểm duy vật về lịch sử của ông : ”Trong
tính hiện thực của nó, bản chất của con người tổng hoà các mối quan hệ
xã hội ”. Theo C.Mác con người tồn tại trong xã hội với tư cách là sản phẩm của
hội, hơn nữa con người không phải sản phẩm của hội nói chung mà bao
giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất định.
Mặt khác, Mác nhận thấy phương thức tồn tại của con người chính hoạt
động của họ. Các quy định hành vi lịch sử đầu tiên cũng là động lực thúc đẩy
con người hoạt động trong suốt lịch sử của mình nhu cầu lợi ích. F.Ăngen
đã viết: ”... đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người nghĩa là
tìm ra sự thực đơn giản... trước hết con người cần phải ăn mặc, uống
trước khi thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo... . Như vậy, nhu cầu tồn tại của con người hình thành một cách khách
quan và có nhiều thang bậc mà trước đó là nhu cầu sống (ăn, uống, mặc, ở...) sau
đó mới đến nhu cầu khác như giao tiếp và tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng,
nhu cầu phát triển tâm hồn và trí tuệ,... vậy mà hoạt động lịch sử đầu tiên của
con người sản xuất ra những liệu cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của
mình. Với quan niệm đó C.Mác đã đi dến kết luận rằng : Phương thức sản xuất là
cái quyết định toàn bộ đời sống hội nhưng mặt bản của hoạt động
hội thể hiện ra với tư cách là những hình thức khác của sản xuất vật chất.Sản xuất
vật chất chính yếu tố nền tảng vì nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội
tồn tại, động lực phát triển của hội, chi phối những yếu tố khác trong cấu
trúc hội, sở của lịch sử loài người, tạo ra những liệu sinh hoạt,
những tư liệu sinh hoạt này đáp ứng nhu cầu sống của con người, tạo ra những tư
liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này tạo ra những thời đại lịch sử của loài
người. Cũng như trong quá trình sản xuất vật chất thì con người tự tạo ra
hoàn thiện chính bản thân mình.
Như vậy, sản xuất vật chất điều kiện không thể thiếu trong bất một
hội nào. Tuy nhiên sản xuất chỉ yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất. Trên
cơ sở vật chất sản xuất vật chất hay trên cơ sở tồn tại hội thì con người đã
sản sinh ra ý thức đặc trưng hệ tưởng đạo đức, tôn giáo. Các nhà sáng
lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ra giải quyết đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại hội và ý thức hội này. C.Mác xác lập nguyên lý có
tính chất phương pháp luận để giải quyết vấn đề này : không phải ý thức
con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại hội của họ
quyết định ý thức của họ ”.
hội bộ phận đặc thù của thế giới vật chất,vận động phát triển theo
quy luật khách quan. Quy luật hội những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lắp
đi lắp lại của các quá trình,hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trưng cho khuynh
hướng cơ bản phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
2. Hình thái Kinh tế - Xã hội
a) Hình thái Kinh tế - hội một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ hội từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Hình thái Kinh tế - hội đặt nguyên tắc phương pháp luận khoa học đ
nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó đã đưa ra bản chất của một
hội cụ thể, phân biệt chế đọ hội này với chế độ hội khác, còn thấy
được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất sinh hoạt những hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù
Hình thái Kinh tế -hội cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình về
mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định,
coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định đang vận động trong khuôn
khổ của chính hình thái ấy.
b) Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành Hình thái Kinh tế - Xã hội.
hội không phải tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cái
nhìn riêng lẻ, hội một chỉnh thể toàn diện cấu phức tạp. Trong đó
những mặt bản nhất Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất Kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động lên những mặt khác tạo
nên sự vận động của thể hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng
khái niệm Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất, kỹ thuật mà mỗi Hình thái Kinh tế -
hội. Sự hình thành phát triển của mỗi Hình thái Kinh tế - hội xét đến
cùng là do Lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các
Hình thái Kinh tế - hội nối tiếp nhau tthấp đến cao thể hiện tính liên tục
trong sự phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm :
Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết
sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
liệu sản xuất do hội tạo ra bao gồm Tư liệu lao động Đối tượng
lao động. Đối tượng lao động bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
trong sản xuất như đất canh tác, nước...ngoài ra, còn đối tượng
không có sẵn trong tự nhiên mà con người sáng tạo ra. Tư liệu lao động là
những vật thể con người dùng để tác động vào đối tượng lao động
nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt nhằm phục vụ cho nhu cầu của con
người. liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối
tượng lao động khi chúng kết hợp vơí lao động sống. Chính con người
với trí tuệ kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra liệu lao động sử
dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến
đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được
tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của hội. LêNin viết :
” Lực lượng sản xuất hp dẫn của toàn thể nhân loại là công nhân,
người lao động”. Giữa các yếu tố của Lực lượng sản xuất sự tác động
biện chứng. Sự tác động của tư liêu lao động phụ thuộc vào trí thông
minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những
phẩm chất của con người, những kinh nghiệm thói quen của họ đều
phụ thuộc vào Tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng
những tư liệu lao động nào.
Quan hệ sản xuất .
Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất những quan hệ
bản ban đầu quyết định mọi quan hệ hội khác, không những mối quan
hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Mỗi hình thái Kinh tế -
hội lại một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đó tiêu chuẩn khách quan để
nhận biết hội cụ thể này với hội cụ thể khác đồng thời tiêu biểu cho một
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây :
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ tổ chức quản lý.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên quan hệ hữu với nhau, trong đó Quan hệ sở hữu về
liệu sản xuất ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất
của bất kỳ mối quan hệ sản xuất nào cũng phụ thuộc vào vấn đề những liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
hai hình thức sở hữu bản về liệu sản xuất : Sở hữu nhân Sở
hữu hội. Những hình thức sở hữu đó những quan hệ kinh tế thực hiện giữa
người với người trong xã hội.
Kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng toàn bộ những tưởng hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của Kiến trúc thượng tầng có đặc thù riêng, quy luật riêng
nhưng không tồn tại tách rời nhau liên hệ tác động qua lại lẫn nhau đều
nảy sinh trên shạ tầng, phản ánh sở hạ tầng. Song không phải tất cả các
yếu tố của Kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau trên cơ sở hạ tầng của nó.
Trái lại, mỗi bộ phận như một tổ chức chính trị, pháp luật liên hệ trực tiếp với
sở hạ tầng con các yếu tố khác như Triết học, nghệ thuật, tôn giáo... thì xa
cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
sở hạ tầng toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của Hình thái Kinh tế - Xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao
gồm những Quan hệ sản xuất thống trị, Quan hệ sản xuất tàn dư của hội trước
mầm mống của hội sau. Trong hội giai cấp đối kháng, tính chất giai
cấp của sở hạ tầng do kiểu Quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất
đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Trong hội đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối
kháng thì Kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng phản ánh tính đối
kháng của sở hạ tầng, biểu hiện sự xung đột, quan hệ tưởng đấu
tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của
Kiến trúc thượng tầng hội quyền lực mạnh nhất Nhà nước, công cụ của
giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị pháp lý. Chính nhờ
nhà nước tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bđời
sống của xã hội. Giai cấp thống trị nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cung những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa
vị thống trị. quy định tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời
sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đặc trưng cơ bản của toàn bộ
Kiến trúc thượng tầng xã hội.
Phạm trù Hình thái Kinh tế - Xã hội là mô hình lý luận về xã hội và như mọi
hình, không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng đời sống
hội. vậy, hiện thực hội sơ đồ thuyết vầ hội không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế các sự kiện lịch sử mang tính chất không lặp lại, hết sức
phong phú, các yếu tố tinh thần vật chất, kinh tế và chính trị thường xuyên tác
động qua lại, m phạm,chuyển hoá lẫn nhau. Hình thái Kinh tế - hội chỉ
phản ánh mặt bản chất những mối liên hệ bên trong, tất yếu, lặp lại của các hiện
tượng ấy; Từ tính đa dạng cụ thể, lịch sử bỏ qua nhũng chi tiết biệt, dựng lại
cấu trúc ổn định gic phát triển của qúa trình lịch sử. Bất trong giới t
nhiên hay trong hội đều không không thể hiện tượng thuần t
”.Đó chính là điều mà phép biện chứng của C.Mác đã nêu lên.
Hình thái Kinh tế - hôị đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất
phát để nghiên cứu hôị, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào
cái chi tiết, vượt qua khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc hội học tả, đi sâu
vạch ra cái bản chất ổn định tcái phong pcủa hiện tượng, vạch ra cai gic
bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.
3. Sự phát triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn một hình thái Kinh tế - hội. Sự vận
động thay thế nối tiếp nhau của các Hình thái Kinh tế - hội trong lịch sử đều
do tác động của các quy luật khách quan. Đó quá trình lịch sử tự nhiên của
hội. C.Mác viết : Tôi coi sự phát triển của những Hình thái Kinh tế - Xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên ”. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của
hội nguồn gốc sâu xa sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Chính tính chất
và trình độ của Lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan của Quan
hệ sản xuất, và như vậy quyết định qúa trình vận động và phát triển của Hình thái
Kinh tế - hội như một quá trình nhiên. Trong các quy luật khách quan chi
phối sự vận động, phát triển của các Hình thái kinh tế - hội thì quy luật về sự
phù hợp về Quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của Lực lượng sản xuất
đóng vai trò quyết định. Một mặt của những Phương thức sản xuất, Lực lượng
sản xuất yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, tiến lên của hội,
quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao.
Mặt khác của Phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất
phát triển của lich sử. Những Quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá bỏ thay
thế bằng những kiểu Quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến Hình thái Kinh tế
- Xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của Hình
thái Kinh tế được giải thích trước hết bằng sự tác động của các quy luật. Trong
quá trình tiến triển của các Hình thái Kinh tế - hội, hình thái mới không xoá
bỏ mọi yếu tố của hình thái trong khi pvỡ cấu trúc của hệ thống lại
bảo tồn kế thừa đổi mới những yếu tố của vừa đảm bảo tính liên tục,
vừa tạo ra bước phát triển. Do đó tạo ra tình trạng chồng chất đan xen những yếu
tố của Hình thái Kinh tế -hội khác, của nhiều thời kỳ lịch sử khác. LêNin đã
chỉ rõ : ”Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ Chủ nghĩa Tư bản
nào thuần tuý cả Chủ nghĩa bản luôn luôn lẫn những yếu t
phong kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa ”.
Tuy nhiên, vạch ra con đương tổng quát của sự phát triển lịch sđiều đó
không nghĩa đã giải thích đựơc ràng sự phát triển hội trong mọi thời
điểm lịch sử ở mỗi nước của quá trình lịch sử cụ thể vô cùng phong phú hàng
loạt những yếu tố làm cho tiến trình chung trong sự phát triển trong sự phát triển
của hội loài người có những biểu hiện đa dạng phong phú những nước, dân
tộc khác nhau. Không thể xem xét quá trình lịch sử như một con đường thẳng,
nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng nền sản xuất đời sống
hiện thực. Những nhân tố kinh tế không phải nhân tố duy nhất quyết định
những nhân tố khác của Kiến trúc thượng tâng đếu ảnh hưởng đến quá trình
lịch sử. Vì vậy để hiểu được lịch sử thì cần thiết phải tính đến các nhân tố cơ bản
có tham gia trong sự tác động lẫn nhau của chúng.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc của một quốc gia cụ thể thường xuyên bị
yếu tố bên trong bên ngoài khác chi phối nhoàn cảnh địa lý, truyền thống
văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố
đó đều có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất
định. Tính trọng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc ng thể làm gián
đoạn,phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển của lịch s
một dân tộc.
II. Quá độ lên Chủ nghĩa hội - Con đường phát triển tất yếu của cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1. Hình thái Kinh tế - hội của Mác trong cuộc cách mạng hội Chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa hội không qua giai đoạn phát triển
bản Chủ nghĩa không nghĩa gạt bỏ tất cnhững quan hệ sở hữu thể, tư
nhân, chỉ còn lại chế độ công hữu tập thể, trái lại, tất cả những gì thuộc về sở
hữu tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận
tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng Chủ nghĩa hội, khuyến khích mọi
hình thức kinh tế để phát triển sản xuất nâng cao cuộc sống của nhân dân.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành Quan hệ sản xuất, quan h
tổ chức quản quan hệ phân phối vai tquan trọng. Những quan hệ y
thể góp phần củng cố Quan hệ sản xuất , cũng thể làm biến dạng Quan hệ
sở hữu. Trong cải tạo Xã hội Chủ nghĩa những năm qua do không hạn chế đầy đủ
vấn đề này chúng ta đã mắc phải khuyết điểm tuyệt đối hoá quan hệ sở hữu,
coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo Quan hệ sản xuất không đồng bộ
nên quan hệ sản xuất ”mới” chỉ là hình thức.
Đảng ta khẳng định lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin kim chỉ nam cho hành
động nêu cao tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của Chủ nghĩa Mac-
LêNin tưởng giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê, khỏi chế độ tư
hữu dựa trên sở người bóc lột người. vậy, trong sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội của nhân dân ta đương nhiên lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin là kim ch
nam cho hành động. tưởng Hồ Chí Minh sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mac - LêNin vào hoàn cảnh nước ta cốt lõi skết hợp Chủ nghĩa Mac -
LêNin với phong trào công nhân phong trào yêu nước của nhân dân ta.
tưởng đó đã trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng, của nhân dân ta.
Xây dựng hệ thống chính trị hội Chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân
do đội tiên phong của Đảng Cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là
người chủ thực scủa hội.toàn bộ quyền lực hội thuộc về nhân dân, thực
hiện nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa,đmả bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo tích
cực, chủ động của mọi các nhân,mọi tầng lớp hội trong công cuộc phát triển
kinh tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của nhân dân.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị hội không tồn tại như
một ục đích tự thân mà vì phục vụ con người thực hiện cho được lợi ích và quyền
lực của nhân dân lao động.
1. Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội và thời kỳ quá độ.
a) Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội
”Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải một ý tưởng hiện thực phải tuôn theo. Chúng ta gọi Chủ
nghĩa Cộng sản một phong trào hiện thực, xoá bỏ trạng thái hiện nay,
những điều kiện của phong trào ấy kết quả của những tiền đề hiện đang
tồn tại. Dựa vào sự phát triển những mâu thuẫn của hội Tư sản trong giai
đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng của phong trào công nhân, C.Mác
và F.Ăngen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương
lai tất yếu phải tiến đến Hình thái Kinh tế - Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa Chủ
nghĩa Xã hôi là giai đoạn đầu của hình thái ấy.
LêNin cũng chỉ : ”Chúng ta không hề coi luận của Mác như một
cái đó xong xuôi hẳn bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học những người hội Chủ
nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc
hậu với cuộc sống”. Cũng như các Hình thái Kinh tế - hội khác, Hình thái
Kinh tế - Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trải qua giai đoạn phát triển từ thấp đến
cao, trong đó có hai giai đoạn cơ bản: Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản.
Đó hai giai đoạn kế tiếp nhau trong cùng một Hình thái Kinh tế - hội; S
khác nhau cơ bản của hai giai đoạn nói trên là trình độ phát triển Kinh tế - Xã hội
trước hết trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. C.Mác coi hai giai
đoạn đó những nấc thang trưởng thành về Kinh tế của Hình thái Kinh tế - Xã
hội Cộng sản chủ nghĩa.
Đặc trưng của Chủ nghĩa Xã hội một chế độ hội được xây dựng trên cơ
sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu hội Chủ nghĩa về liệu sản xuất bao
gồm sở hữu toàn dân sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được
củng cố, hoàn thiện bảo đảm luôn luôn thích ứng với tính chất trình độ của
Lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền sản xuất hội với tốc độ cao ngày ng hiện đại nhằm
tạo ra ngày càng nhiều của cải cho hội, bảo đảm thoả mãn ngày càng đầy đ
những nhu cầu vật chất và văn hoá cho nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi
xã hội cho toàn dân.
- Bảo đảm cho mọi người quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo
được hưởng thù lao theo nguyên tắc: ”Làm theo năng lực,hưởng theo lao
động”.
Khối liên minh công - nông - tri thức ngày càng được củng cố, tăng
cường, quyền bình đẳng nam - nữ được thực hiện, những người già được
xã hội quan tâm chăm sóc, tương lai của tuổi trẻ được bảo đảm.
Nhà nước hội Chủ nghĩa ngày càng được củng cố hoàn thiện, nền
dân chủ Xã hội Chủ nghĩa ngày càng được phát huy.
Bảo đảm sự phát triển toàn diện của con người làm cho mọi người
ngày càng được phát huy đầy đủ tính tích cực của mình trong công cuộc
xây dựng xã hội mới,lối sống mới.
Hệ tưởng Mac - LêNin giữ vị trí chủ đạo trong đời sông tinh thần
trong toàn hội, đời sống văn hoá tinh thần trong hội ngày càng
phong phú lành mạnh.
quan hhữu nghị hợp tác với nhân dân các nước, kiên quyết
ủng hộ nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội.
Những đặc trưng bản nói trên phản ánh bản chất của Chủ nghĩa hội.
Mặc dù trong những năm qua tình hình thế giới nhiều diễn biến phức tạp, chế
độ Xã hội Chủ nghĩa ở Liên và Đông Âu sụp đổ khiến Chủ nghĩa Xã hội tạm
thời lâm vào thoái trào nhưng bản chất thời đại không hthay đổi. Loài người
vốn ở trong quá trình quá độ tư Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội mở đầu
bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga đại. Con đường nhân loại đang đi
chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ nghĩa
Xã hội.
Lịch sử đã chứng minh, không phải bất nước nào cũng phải tuần tự trải
qua các hình thái Kinh tế - Xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một Hình
thái Kinh tế - hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, xong đồng
thời còn tuỳ thuộc sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. nước ta cũng đã
có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường Xã hội Chủ
nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên Chủ nghĩa
hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu làm cho đất nước ngày càng
phồn vinh.
b) Về thời kỳ quá độ.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của nước ta
những nhân tố của hội mới tân tiến của hội đan xen lẫn nhau và đấu
tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, hội,
tưởng... trong hội. Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ sự quá độ về
chính trị. đó nhà nước chuyên chính sản được thiết lập, củng cố ngày
càng hoàn thiện.
Về nền kinh tế : nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những
thành phần kinh tế của hội Chủ nghĩa còn những thành phần kinh
tế khác, trong đó có cả thành phần kinh tế Tư bản.
Về mặt hội : trong thời kỳ này còn sở khác biệt bản, giữa
thành thị nông thôn, giữa các miền của đất nước, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay.
Về văn hoá, tưởng : bên cạnh nền văn hoá mới và hệ tưởng mới
còn tồn tại tàn tích của nền văn hoá cũ, hệ tưởng cũ, lạc hậu (thậm
chí còn phản động), lối sống cũ...
Thực chất của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa hội thời kỳ đấu tranh
quyết liệt về chính trị, tưởng, kinh tế, văn hoá, hội, giữa một bên liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân với các tầng lớp nhân dân lao
động khác đã giành được chính quyền, nhà nước ra sức phát động đưa đất
nước quá độ lên hội Chủ nghĩa, với một bên các giai cấp bóc lột, các thế
lực phản động mới bị lật đổ nhưng chưa hoàn toàn bị xoá bỏ, vẫn còn nuôi hy
vọng quay lại cái ” đã mất. ”Thiên đàng
c) Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đảng ta chỉ rõ : Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ
bản, từ một hội vẫn thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất
thấp”.
Lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu Kinh tế - hội của xã hội
ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó;
Tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ tư tưởng, ý thức xã hội, tâm lý do xã hội thực
dân, phong kiến cũ để lại.
Đây những khó khăn, trở ngại lớn trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một
xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực
giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần chú ý có thể bỏ qua chế độ bản quá độ lên hội Chủ nghĩa,
nhưng không thể bỏ qua những việc chuẩn bị những tiêu đề cần thiết, nhất là tiêu
đề kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, thể bỏ qua chế độ bản Chủ
nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tính
lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định, coi nhân
tố Tư bản Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Đáng tiếc trong nhiều m qua chúng ta đã áp dụng một cách máy móc,
những quan niệm sai lầm về Chủ nghã xã hội, chúng ta đã bỏ qua tất cả những gì
thuộc về Chủ nghĩa bản. Điều này vi phạm nghiêm trọng về luận sự phát
triển của Mác.Chúng ta đã phủ nhận Chủ nghĩa bản một cách sạch trơn,
không tiếp thu những yếu tố tích cực của vào sự phát triển của đất nước.
| 1/29

Preview text:

TIỂU LUẬN:
Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường
phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Lời giới thiệu
ôn ” Triết học Mác - LêNin ” có thể nói là một môn học rất khó để
có thể hiểu được cặn kẽ, rõ ràng về nó. Do vậy việc làm bài ” Tiểu luận Triết học
” cũng hẳn không nằm ngoài mục đích giúp cho sinh viên có thể hiểu sâu, rộng
hơn về môn học này. Muốn vậy mỗi người phải tự tìm tòi, tra khảo các tài liệu,
sách báo để phục vụ cho công việc của mình.Và vì thế bề dầy kiến thức của mỗi
người sẽ được tăng lên.Về đề tài "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế - xã
hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” hẳn rất bổ ích và
cần thiết vì từ xưa con người đã muốn tìm hiểu về chính mình, về thế giới xung
quanh mà vấn đề đặt ra hết sức bức xúc là Kinh tế - Xã hội nó bao trùm lên tất
cả, nó gắn liền với mỗi người mà ở đây hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác là một
bước đột phá, là nền tảng lý luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Việc nghiên cứu
nó như thế nào để vận dụng vào thực tiễn nước ta, quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
là hết sức cần thiết.
Bố cục của bài tiểu luận gồm ba phần chính như sau:
PhầN A: Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về hình thái kinh tế
II. Tính cấp thiết của đề tài.
III. Mục đích,ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài PHầN B: Nội dung
I. Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay PHầN C: Kết luận phần a Giới thiệu đề tài
I. Khái niệm về Hình thái kinh tế Xã hội.
ình thái Kinh tế - Xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu Quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của Lực
lượng sản xuất và với một Kiến trúc thượng tầng phù hợp được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Ngoài những mối quan hệ cơ bản trên đây Hình thái Kinh tế - Xã hội còn có
những quan hệ về dân tộc, giai đoạn lịch sử và các quan hệ khác. Các quan hệ
trên đây tuy có vai trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bởi những điều
kiện vật chất kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã hội.
II. Tính cấp thiết của đề tài.
Học thuyết của Mác về Hình thái Kinh tế - Xã hội ra đời là một cuộc cách
mạnh trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội, là cơ sở phương pháp luận của
sự phát triển khoa học về quá trình vận động và phát triển xã hội. Nhờ có lý luận
Hình thái Kinh tế - Xã hội này lần đầu tiên trong lịch sử Mác đã chỉ rõ được bản
chất của từng chế độ xã hội. Như vậy, lý luận hình thái Kinh tế - Xã hội giúp
chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học về sự vận hành của xã hội
trong giai đoạn phát triển nhất định.
Do đặc điểm về lịch sử về những quan hệ và thời gian, không phải quốc gia
nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái Kinh tế - Xã hội theo một sơ đồ
chung.Lịch sử cho thấy có những nước đã bỏ qua một hình thái Kinh tế - Xã hội
nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Vận dụng điều này vào hoàn cảnh cụ
thể ở nước ta hiện nay chúng ta có cơ sở khoa học để chứng minh rằng con
đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa ở nước ta - cả trong
điều kiện hiện nay - vẫn là tất yếu và hoàn toàn có khả năng thực hiện được.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài : "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế
- xã hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” là rất thực
tiễn và cấp bách cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
III. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài. 1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài "Vận dụng Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội giải
thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay” giúp chúng ta thêm phần
hiểu rõ về hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác và áp dụng lý luận này vào thực
tiễn ở nước ta hiện nay. 2. ý nghĩa
Việc nắm vững bản chất khoa học của lý luận về hình thái Kinh tế Xã hội sẽ
thể hiện được chính xác những vấn đề còn yếu nhất của đời sống Kinh tế Xã hội.
Mà muốn thực hiện tốt một điều gì thì phải hiểu được bản chất của nó, do vậy đối
với cách mạng Chủ nghĩa Xã hội mà ở đây ta nói đến là nước ta quá độ lên Chủ
nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản thì việc nghiên cứu kĩ về Hình thái Kinh tế
Xã hội để áp dụng nó thật linh động vào thực tiễn ở nước ta là một việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết. phần b nội dung
I. Học thuyết về Hình thái Kinh tế - Xã hội. Nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1. Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội
hi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử Mác và F.Ăngen đã xuất
phát từ những tiêu đề sau đây :
" Tiên đè đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại
của những cá nhân, con người sống ”. Xã hội dưới bất kì một hình thức nào
cũng là sự liên hệ và tác động qua lại giữa người với người. Ngay từ khi mới ra
đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu về chính mình và về Thế giới xung quanh.
Các nhà tư tưởng đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều hình thức, nhiều
góc độ khác nhau và có nhiều đóng góp quý báu : Phát hiện ra nhiều thuộc tính,
phẩm chất, năng lực phong phú, kì diệu của con người về mọi mặt sinh học, xã
hội cũng như tâm lý, ý thức. Trên cơ sở đó, họ có đề xuất những con đường, biện
pháp hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp. Nhưng do những hạn chế lịch sử,
nên những nhà tư tưởng trước đây chưa có cái nhìn đầy đủ về tồn tại của con
người cũng như về lịch sử xã hội loài người, do vậy, họ đã mắc một sai lầm lớn.
Để khắc phục điều này triết học Mác đã có những phát hiện mới, những đóng
góp mới. Lần đầu tiên Mác vạch ra phương thức tồn tại của con người, xuất phát
từ cuộc sống của con người hiện thực. Mác đưa ra một trong những luận điểm
được coi là quan trọng nhất trong quan điểm duy vật về lịch sử của ông : ”Trong
tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ
xã hội ”. Theo C.Mác con người tồn tại trong xã hội với tư cách là sản phẩm của
xã hội, hơn nữa con người không phải là sản phẩm của xã hội nói chung mà bao
giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất định.
Mặt khác, Mác nhận thấy phương thức tồn tại của con người chính là hoạt
động của họ. Các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy
con người hoạt động trong suốt lịch sử của mình là nhu cầu và lợi ích. F.Ăngen
đã viết: ”... đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người nghĩa là
tìm ra sự thực đơn giản... là trước hết con người cần phải ăn mặc, ở uống
trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo... ”. Như vậy, nhu cầu tồn tại của con người hình thành một cách khách
quan và có nhiều thang bậc mà trước đó là nhu cầu sống (ăn, uống, mặc, ở...) sau
đó mới đến nhu cầu khác như giao tiếp và tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng,
nhu cầu phát triển tâm hồn và trí tuệ,... Vì vậy mà hoạt động lịch sử đầu tiên của
con người là sản xuất ra những tư liệu cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của
mình. Với quan niệm đó C.Mác đã đi dến kết luận rằng : Phương thức sản xuất là
cái quyết định toàn bộ đời sống xã hội và nhưng mặt cơ bản của hoạt động xã
hội thể hiện ra với tư cách là những hình thức khác của sản xuất vật chất.Sản xuất
vật chất chính là yếu tố nền tảng vì nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội
tồn tại, là động lực phát triển của xã hội, chi phối những yếu tố khác trong cấu
trúc xã hội, là cơ sở của lịch sử loài người, tạo ra những tư liệu sinh hoạt, mà
những tư liệu sinh hoạt này đáp ứng nhu cầu sống của con người, tạo ra những tư
liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này tạo ra những thời đại lịch sử của loài
người. Cũng như trong quá trình sản xuất vật chất thì con người tự tạo ra và
hoàn thiện chính bản thân mình.
Như vậy, sản xuất vật chất là điều kiện không thể thiếu trong bất kì một xã
hội nào. Tuy nhiên sản xuất chỉ là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất. Trên
cơ sở vật chất và sản xuất vật chất hay trên cơ sở tồn tại xã hội thì con người đã
sản sinh ra ý thức mà đặc trưng là hệ tư tưởng đạo đức, tôn giáo. Các nhà sáng
lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội này. C.Mác xác lập nguyên lý có
tính chất phương pháp luận để giải quyết vấn đề này là : ” không phải ý thức
con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ ”.
Xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất,vận động và phát triển theo
quy luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lắp
đi lắp lại của các quá trình,hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trưng cho khuynh
hướng cơ bản phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
2. Hình thái Kinh tế - Xã hội
a) Hình thái Kinh tế - Xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Hình thái Kinh tế - Xã hội đặt nguyên tắc phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó đã đưa ra bản chất của một
xã hội cụ thể, phân biệt chế đọ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy
được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất và sinh hoạt ở những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù
Hình thái Kinh tế - Xã hội cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và về
mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định,
coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định đang vận động trong khuôn
khổ của chính hình thái ấy.
b) Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cái
nhìn riêng lẻ, xã hội là một chỉnh thể toàn diện có cơ cấu phức tạp. Trong đó có
những mặt cơ bản nhất là Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất và Kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động lên những mặt khác tạo
nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng
khái niệm Hình thái Kinh tế - Xã hội.
฀ Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất, kỹ thuật mà mỗi Hình thái Kinh tế -
Xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi Hình thái Kinh tế - Xã hội xét đến
cùng là do Lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các
Hình thái Kinh tế - Xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục
trong sự phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm :
฀ Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết
sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
฀ Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra bao gồm Tư liệu lao động và Đối tượng
lao động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
trong sản xuất như là đất canh tác, nước...ngoài ra, còn có đối tượng
không có sẵn trong tự nhiên mà con người sáng tạo ra. Tư liệu lao động là
những vật thể mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động
nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt nhằm phục vụ cho nhu cầu của con
người. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối
tượng lao động khi chúng kết hợp vơí lao động sống. Chính con người
với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử
dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến
đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được
tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. LêNin viết :
” Lực lượng sản xuất hấp dẫn của toàn thể nhân loại là công nhân, là
người lao động”. Giữa các yếu tố của Lực lượng sản xuất có sự tác động
biện chứng. Sự tác động của tư liêu lao động phụ thuộc vào trí thông
minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những
phẩm chất của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều
phụ thuộc vào Tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng
những tư liệu lao động nào. ฀ Quan hệ sản xuất .
Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất là những quan hệ cơ
bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ xã hội khác, không có những mối quan
hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Mỗi hình thái Kinh tế -
Xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để
nhận biết xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác đồng thời tiêu biểu cho một
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây :
฀ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
฀ Quan hệ tổ chức quản lý.
฀ Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó Quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất
của bất kỳ mối quan hệ sản xuất nào cũng phụ thuộc vào vấn đề những Tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về Tư liệu sản xuất : Sở hữu tư nhân và Sở
hữu xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế thực hiện giữa
người với người trong xã hội.
฀ Kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của Kiến trúc thượng tầng có đặc thù riêng, có quy luật riêng
nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều
nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các
yếu tố của Kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau trên cơ sở hạ tầng của nó.
Trái lại, mỗi bộ phận như một tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với
cơ sở hạ tầng con các yếu tố khác như Triết học, nghệ thuật, tôn giáo... thì ở xa
cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của Hình thái Kinh tế - Xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao
gồm những Quan hệ sản xuất thống trị, Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước
là mầm mống của xã hội sau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai
cấp của Cơ sở hạ tầng là do kiểu Quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất
đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối
kháng thì Kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng phản ánh tính đối
kháng của Cơ sở hạ tầng, biểu hiện ở sự xung đột, quan hệ tư tưởng và ở đấu
tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của
Kiến trúc thượng tầng xã hội có quyền lực mạnh nhất là Nhà nước, công cụ của
giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị pháp lý. Chính nhờ
có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời
sống của xã hội. Giai cấp thống trị nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cung những thể chế của giai cấp ấy cũng giữ địa
vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời
sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đặc trưng cơ bản của toàn bộ
Kiến trúc thượng tầng xã hội.
Phạm trù Hình thái Kinh tế - Xã hội là mô hình lý luận về xã hội và như mọi
mô hình, nó không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng đời sống xã
hội. Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thuyết vầ xã hội không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế các sự kiện lịch sử mang tính chất không lặp lại, hết sức
phong phú, các yếu tố tinh thần và vật chất, kinh tế và chính trị thường xuyên tác
động qua lại, xâm phạm,chuyển hoá lẫn nhau. Hình thái Kinh tế - Xã hội chỉ
phản ánh mặt bản chất những mối liên hệ bên trong, tất yếu, lặp lại của các hiện
tượng ấy; Từ tính đa dạng cụ thể, lịch sử bỏ qua nhũng chi tiết cá biệt, dựng lại
cấu trúc ổn định và lôgic phát triển của qúa trình lịch sử. Bất kì trong giới tự
nhiên hay trong xã hội đều không có và không thể có hiện tượng ” thuần tuý
”.Đó chính là điều mà phép biện chứng của C.Mác đã nêu lên.
Hình thái Kinh tế - Xã hôị đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất
phát để nghiên cứu xã hôị, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào
cái chi tiết, vượt qua khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu
vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cai lôgic
bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.
3. Sự phát triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái Kinh tế - Xã hội. Sự vận
động thay thế nối tiếp nhau của các Hình thái Kinh tế - Xã hội trong lịch sử đều
do tác động của các quy luật khách quan. Đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã
hội. C.Mác viết : ” Tôi coi sự phát triển của những Hình thái Kinh tế - Xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên ”. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã
hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Chính tính chất
và trình độ của Lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan của Quan
hệ sản xuất, và như vậy quyết định qúa trình vận động và phát triển của Hình thái
Kinh tế - Xã hội như một quá trình tư nhiên. Trong các quy luật khách quan chi
phối sự vận động, phát triển của các Hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự
phù hợp về Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất
đóng vai trò quyết định. Một mặt của những Phương thức sản xuất, Lực lượng
sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, tiến lên của xã hội,
quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao.
Mặt khác của Phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất
phát triển của lich sử. Những Quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá bỏ và thay
thế bằng những kiểu Quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến Hình thái Kinh tế
- Xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của Hình
thái Kinh tế được giải thích trước hết bằng sự tác động của các quy luật. Trong
quá trình tiến triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội, hình thái mới không xoá
bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại
bảo tồn và kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục,
vừa tạo ra bước phát triển. Do đó tạo ra tình trạng chồng chất đan xen những yếu
tố của Hình thái Kinh tế - Xã hội khác, của nhiều thời kỳ lịch sử khác. LêNin đã
chỉ rõ : ”Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ Chủ nghĩa Tư bản
nào là thuần tuý cả vì Chủ nghĩa Tư bản luôn luôn có lẫn những yếu tố
phong kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa ”.
Tuy nhiên, vạch ra con đương tổng quát của sự phát triển lịch sử điều đó
không có nghĩa là đã giải thích đựơc rõ ràng sự phát triển xã hội trong mọi thời
điểm lịch sử ở mỗi nước của quá trình lịch sử cụ thể vô cùng phong phú có hàng
loạt những yếu tố làm cho tiến trình chung trong sự phát triển trong sự phát triển
của xã hội loài người có những biểu hiện đa dạng phong phú ở những nước, dân
tộc khác nhau. Không thể xem xét quá trình lịch sử như một con đường thẳng,
nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là nền sản xuất đời sống
hiện thực. Những nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định mà
những nhân tố khác của Kiến trúc thượng tâng đếu có ảnh hưởng đến quá trình
lịch sử. Vì vậy để hiểu được lịch sử thì cần thiết phải tính đến các nhân tố cơ bản
có tham gia trong sự tác động lẫn nhau của chúng.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc của một quốc gia cụ thể thường xuyên bị
yếu tố bên trong và bên ngoài khác chi phối như hoàn cảnh địa lý, truyền thống
văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố
đó đều có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất
định. Tính trọng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc cũng có thể làm gián
đoạn,phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển của lịch sử một dân tộc.
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội - Con đường phát triển tất yếu của cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1. Hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác trong cuộc cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội không qua giai đoạn phát triển Tư
bản Chủ nghĩa không có nghĩa là gạt bỏ tất cả những quan hệ sở hữu cá thể, tư
nhân, chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể, trái lại, tất cả những gì thuộc về sở
hữu tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận
tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, khuyến khích mọi
hình thức kinh tế để phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân.
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành Quan hệ sản xuất, quan hệ
tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan hệ này
có thể góp phần củng cố Quan hệ sản xuất , cũng có thể làm biến dạng Quan hệ
sở hữu. Trong cải tạo Xã hội Chủ nghĩa những năm qua do không hạn chế đầy đủ
vấn đề này chúng ta đã mắc phải khuyết điểm là tuyệt đối hoá quan hệ sở hữu,
coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo Quan hệ sản xuất không đồng bộ
nên quan hệ sản xuất ”mới” chỉ là hình thức.
Đảng ta khẳng định lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin là kim chỉ nam cho hành
động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của Chủ nghĩa Mac-
LêNin là ở tư tưởng giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê, khỏi chế độ tư
hữu dựa trên cơ sở người bóc lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội của nhân dân ta đương nhiên lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin là kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mac - LêNin vào hoàn cảnh nước ta mà cốt lõi là sự kết hợp Chủ nghĩa Mac -
LêNin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta. Tư
tưởng đó đã trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng, của nhân dân ta.
Xây dựng hệ thống chính trị Xã hội Chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân
do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là
người chủ thực sự của xã hội.toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, thực
hiện nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa,đmả bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo tích
cực, chủ động của mọi các nhân,mọi tầng lớp xã hội trong công cuộc phát triển
kinh tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của nhân dân.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như
một ục đích tự thân mà vì phục vụ con người thực hiện cho được lợi ích và quyền
lực của nhân dân lao động.
1. Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội và thời kỳ quá độ.
a) Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội
”Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một ý tưởng mà hiện thực phải tuôn theo. Chúng ta gọi Chủ
nghĩa Cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay,
những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang
tồn tại”. Dựa vào sự phát triển những mâu thuẫn của xã hội Tư sản trong giai
đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng của phong trào công nhân, C.Mác
và F.Ăngen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương
lai tất yếu phải tiến đến Hình thái Kinh tế - Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa mà Chủ
nghĩa Xã hôi là giai đoạn đầu của hình thái ấy.
LêNin cũng chỉ rõ : ”Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một
cái gì đó xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người Xã hội Chủ
nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc
hậu với cuộc sống”. Cũng như các Hình thái Kinh tế - Xã hội khác, Hình thái
Kinh tế - Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trải qua giai đoạn phát triển từ thấp đến
cao, trong đó có hai giai đoạn cơ bản: Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản.
Đó là hai giai đoạn kế tiếp nhau trong cùng một Hình thái Kinh tế - Xã hội; Sự
khác nhau cơ bản của hai giai đoạn nói trên là trình độ phát triển Kinh tế - Xã hội
và trước hết là trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. C.Mác coi hai giai
đoạn đó là những nấc thang trưởng thành về Kinh tế của Hình thái Kinh tế - Xã
hội Cộng sản chủ nghĩa.
Đặc trưng của Chủ nghĩa Xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ
sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu Xã hội Chủ nghĩa về Tư liệu sản xuất bao
gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được
củng cố, hoàn thiện bảo đảm luôn luôn thích ứng với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ cao ngày càng hiện đại nhằm
tạo ra ngày càng nhiều của cải cho xã hội, bảo đảm thoả mãn ngày càng đầy đủ
những nhu cầu vật chất và văn hoá cho nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân.
- Bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và
được hưởng thù lao theo nguyên tắc: ”Làm theo năng lực,hưởng theo lao động”.
฀ Khối liên minh công - nông - tri thức ngày càng được củng cố, tăng
cường, quyền bình đẳng nam - nữ được thực hiện, những người già được
xã hội quan tâm chăm sóc, tương lai của tuổi trẻ được bảo đảm.
฀ Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa ngày càng được củng cố hoàn thiện, nền
dân chủ Xã hội Chủ nghĩa ngày càng được phát huy.
฀ Bảo đảm sự phát triển toàn diện của con người làm cho mọi người
ngày càng được phát huy đầy đủ tính tích cực của mình trong công cuộc
xây dựng xã hội mới,lối sống mới.
฀ Hệ tư tưởng Mac - LêNin giữ vị trí chủ đạo trong đời sông tinh thần
trong toàn xã hội, đời sống văn hoá tinh thần trong xã hội ngày càng phong phú lành mạnh.
฀ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, kiên quyết
ủng hộ nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội.
Những đặc trưng cơ bản nói trên phản ánh bản chất của Chủ nghĩa Xã hội.
Mặc dù trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế
độ Xã hội Chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến Chủ nghĩa Xã hội tạm
thời lâm vào thoái trào nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người
vốn ở trong quá trình quá độ tư Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội mở đầu
bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại. Con đường mà nhân loại đang đi
chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội.
Lịch sử đã chứng minh, không phải bất kì nước nào cũng phải tuần tự trải
qua các hình thái Kinh tế - Xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một Hình
thái Kinh tế - Xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, xong đồng
thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. ở nước ta cũng đã
có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường Xã hội Chủ
nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên Chủ nghĩa
Xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
b) Về thời kỳ quá độ.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
những nhân tố của xã hội mới và tân tiến của xã hội cũ đan xen lẫn nhau và đấu
tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, tư
tưởng... trong xã hội. Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ là sự quá độ về
chính trị. ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện.
฀ Về nền kinh tế : là nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những
thành phần kinh tế của Xã hội Chủ nghĩa còn có những thành phần kinh
tế khác, trong đó có cả thành phần kinh tế Tư bản.
฀ Về mặt xã hội : trong thời kỳ này còn cơ sở khác biệt cơ bản, giữa
thành thị và nông thôn, giữa các miền của đất nước, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
฀ Về văn hoá, tư tưởng : bên cạnh nền văn hoá mới và hệ tư tưởng mới
còn tồn tại rõ tàn tích của nền văn hoá cũ, hệ tư tưởng cũ, lạc hậu (thậm
chí còn phản động), lối sống cũ...
Thực chất của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là thời kỳ đấu tranh
quyết liệt về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, giữa một bên là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và với các tầng lớp nhân dân lao
động khác đã giành được chính quyền, nhà nước và ra sức phát động đưa đất
nước quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa, với một bên là các giai cấp bóc lột, các thế
lực phản động mới bị lật đổ nhưng chưa hoàn toàn bị xoá bỏ, vẫn còn nuôi hy
vọng quay lại cái ”Thiên đàng” đã mất.
c) Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đảng ta chỉ rõ : ” Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư
bản, từ một xã hội vẫn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”.
Lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu Kinh tế - Xã hội của xã hội
ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó;
Tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ tư tưởng, ý thức xã hội, tâm lý do xã hội thực
dân, phong kiến cũ để lại.
Đây là những khó khăn, trở ngại lớn trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một
xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực và
giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần chú ý là có thể bỏ qua chế độ Tư bản quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa,
nhưng không thể bỏ qua những việc chuẩn bị những tiêu đề cần thiết, nhất là tiêu
đề kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ Tư bản Chủ
nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tính
lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định, coi nhân
tố Tư bản Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Đáng tiếc trong nhiều năm qua chúng ta đã áp dụng một cách máy móc, có
những quan niệm sai lầm về Chủ nghã xã hội, chúng ta đã bỏ qua tất cả những gì
thuộc về Chủ nghĩa tư bản. Điều này vi phạm nghiêm trọng về lý luận sự phát
triển của Mác.Chúng ta đã phủ nhận Chủ nghĩa Tư bản một cách sạch trơn,
không tiếp thu những yếu tố tích cực của nó vào sự phát triển của đất nước.