Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về CNXH | Tài liệu môn Chủ nghĩa xã hội khoa học Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa xã hội khoa học là sự biểu hiện lý luận của phong trào công nhân Mác - Lênin theo nghĩa rộng, giải thích xu hướng tất yếu của quá trình chuyển đổi của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản từ các góc độ triết học, chính trị kinh tế và chính trị - xã hội. Với phát hiện thứ ba - sứ mệnh lịch sử thế; Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về CNXH
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng:
Chủ nghĩa xã hội khoa học là sự biểu hiện lý luận của phong trào công nhân Mác
- Lênin theo nghĩa rộng, giải thích xu hướng tất yếu của quá trình chuyển đổi của xã hội
loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản từ các góc độ
triết học, chính trị kinh tế và chính trị - xã hội. Với phát hiện thứ ba - sứ mệnh lịch sử thế
giới của giai cấp công nhân, chủ nghĩa xã hội khoa học đã ra đời như một thành tựu lý
luận phù hợp với logic Triết học. Kinh tế chính trị Mác-Lênin không chỉ bổ sung, hoàn
thiện, đào sâu và cân bằng lý luận Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là môn khoa
học nghiên cứu các quy luật, quy định chính trị, xã hội của quá trình quá độ từ xã hội tư
bản sang xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là chủ nghĩa tư bản. Theo nghĩa hẹp:
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là hệ thống
lý luận chính trị - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, trực tiếp làm rõ mục tiêu và con
đường cao nhất giải phóng xã hội, giải phóng con người, đồng thời luận giải một cách
khoa học về lực lượng chủ đạo. VI Lênin đã nhận định bộ “Tư bản” là tác phẩm chủ yếu,
cơ bản giới thiệu về chủ nghĩa xã hội khoa học…những yếu tố hình thành quyền lực
chính trị trong tương lai. Trong “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen viết ba phần: Triết học, ,
kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học . V.I.Lênin, khi viết Trong cuốn “Ba nguồn
gốc, ba thành phần của chủ nghĩa Mác”, Người khẳng định: “Nó là sự kế thừa hợp pháp
của tất cả những gì tốt đẹp nhất mà nhân loại đã tạo ra trong thế kỷ XIX, đó là triết học
Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”.
2. Sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất giữa lý luận khoa học với tư tưởng giai
cấp công nhân, nguyên tắc lãnh đạo chính trị và thực tiễn đấu tranh cách mạng.
Sự thống nhất hữu cơ của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ở các bộ phận cấu
thành: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Theo Ph.Ăng-ghen, C.Mác tin rằng đã có hai khám phá lớn: “quan điểm duy vật
về lịch sử và việc sử dụng giá trị thặng dư để vạch trần bí mật của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa” và “chủ nghĩa xã hội” đã trở thành ngành khoa học cần thiết nhất
hiện nay”. “Nghiên cứu sâu hơn mọi chi tiết, mối liên hệ. Dựa trên lập luận “sản
xuất, trao đổi sản phẩm sau sản xuất là cơ sở của mọi chế độ xã hội”, C.Mác và
Ph.Ăng-ghen giải thích rõ ràng tính tất yếu của sản xuất chứ không riêng gì sự ra
đời của chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh lịch sử, đó là tất yếu của một giai đoạn
lịch sử nhất định và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu. Những năm
1940, cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ, tạo ra nền công nghiệp
hiện đại. phương thức sản xuất phát triển đáng kể. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
ra trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”: “Trong vòng chưa đầy một thế kỷ,
giai cấp tư sản đã tạo ra một lực lượng lớn hơn và năng suất hơn trong quá trình
cai trị của giai cấp. Nó có năng suất cao hơn các thế hệ trước. Thậm chí còn mạnh
hơn”. Cùng với sự phát triển của công nghiệp hiện đại, xuất hiện hai giai cấp cơ
bản có lợi ích đối lập nhưng phụ thuộc lẫn nhau: giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân. Từ đây cũng nảy sinh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại ách
thống trị áp bức của giai cấp tư sản, là biểu hiện xã hội của mâu thuẫn ngày càng
gay gắt giữa lực lượng sản xuất xã hội và hệ thống sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhờ đó, nhiều cuộc khởi nghĩa,
phong trào đấu tranh bắt đầu diễn ra và dần dần được tổ chức và lan rộng. Phong
trào Hiến chương của Công nhân Anh kéo dài 10 năm (1836 đến 1848); Năm
1844, phong trào công nhân dệt may diễn ra ở thành phố Xi-lê-di của Đức. Đặc
biệt, phong trào công nhân dệt may ở Li-on, Pháp vào năm 1831 và 1834 đã đóng
một vai trò quan trọng. Điều trị dứt điểm. Nếu như năm 1831, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân ở Lion có khẩu hiệu thuần túy kinh tế: “Làm việc
hoặc chiến đấu và chết” thì đến năm 1834 khẩu hiệu của phong trào đã thay đổi.
Chuyển sang mục đích chính trị: "Cộng hòa hay cái chết."
Sự phát triển chính trị nhanh chóng và công khai của phong trào lao động cho
thấy giai cấp công nhân lần đầu tiên nổi lên như một lực lượng chính trị độc lập
với những yêu cầu kinh tế và chính trị riêng. Và bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chính của mình là giai cấp tư sản. Sự phát triển của phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân rất cần một hệ thống lý luận chỉ đường và một cương
lĩnh chính trị để chỉ đạo hành động.
Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận:
3. Vai trò của C.Mác và Ph.Ăng-ghen:
3.1 Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen
C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) lớn lên ở Đức, một đất nước có nền triết
học phát triển và rực rỡ, với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
của L.Phoigbắc, tiến sĩ triết học V.Ph.Hêghen. C.Mác và Ph.Ăngghen, với trí tuệ uyên
bác và hoạt động lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn, đã tiếp thu những giá trị của
triết học cổ điển và kho tàng tư tưởng lý luận được các thế hệ đi trước học hỏi. Sự cam
kết với giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của nhân dân lao động... tất cả những
điều này đã tạo cơ hội để họ gắn kết với nhau và trở thành những nhà khoa học và nhà
cách mạng thiên tài vĩ đại nhất mọi thời đại. Trên cơ sở kế thừa những giá trị khoa học
trong kho tàng tư tưởng, lý luận của nhân loại, việc quan sát, phân tích các sự kiện đang
diễn ra trên tinh thần khoa học… giúp họ từng bước phát triển học thuyết của mình, mang
lại những giá trị lý luận, tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa xã hội khoa học. Hệ tư tưởng,
lên một tầm cao mới về chất lượng _chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị:
Ba phát kiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Trên cơ sở kế thừa “cái hạt nhân hợp lý” của
phép biện chứng, sàng lọc những quan điểm duy tâm, thần bí trong triết học
Hegel, kế thừa những giá trị duy vật và loại bỏ những quan điểm siêu hình
trong triết học Feuerbach. “Thuyết duy vật biện chứng”, là phương pháp luận
phổ biến nhất để nghiên cứu xã hội tư bản, từ đó tạo nên một trong những học
thuyết khoa học vĩ đại nhất, đánh dấu sự phát triển của khoa học xã hội trong
thời đại lên một tầm cao mới. “Học thuyết về duy vật lịch sử" với nội dung cơ
bản là lý thuyết " hình thái kinh tế - xã hội " chỉ ra bản chất của sự vận động
và phát triển. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là phát hiện vĩ đại đầu tiên của C.Mác
và Ph.Ăngghen, là nền tảng triết học cho sự phát triển của xã hội loài người.
Nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, ta có thể khẳng định sự sụp đổ của chủ
nghĩa tư bản là tất yếu không kém gì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Học thuyết về giá trị thặng dư: Từ việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch
sử C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về sản xuất
công nghiệp và kinh tế tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ănghen đã sáng tạo ra
“Tư bản” trong quá trình nghiên cứu khoa học kết hợp với hoạt động thực tiễn
của phong trào công nhân, và giá trị lớn nhất của nó là “Học thuyết giá trị
thặng dư”. Học thuyết này bộc lộ rõ ràng bản chất của hệ thống lao động làm
thuê trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và chứng minh một cách khoa học loại
“hàng hóa đặc biệt”, tức là những loại hàng hóa lao động của công nhân mà
nhà tư bản và giai cấp tư sản mua và sử dụng những phương tiện tinh vi để
chiếm đoạt ngày càng nhiều và nhiều hơn nữa “giá trị thặng dư” được tạo ra
bằng cách bóc lột sức lao động của công nhân, đây là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân; Sự trỗi dậy của giai cấp tư sản và giai
cấp tư sản không thể dung hòa được trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản. Học
thuyết giá trị thặng dư là phát hiện vĩ đại thứ hai của C.Mác và Ph.Ănghen, là
một luận cứ khoa học kinh tế khẳng định đấu tranh giai cấp. Cuộc nổi dậy của
công nhân chống giai cấp tư sản đã diễn ra ngay từ đầu, sự tiêu diệt của chủ
nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau.
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: Trên
cơ sở hai khám phá vĩ đại về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị
thặng dư, C.Mác và Ph.Angghen đã có khám phá vĩ đại thứ ba, đó là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp trên thế giới. Phát hiện này khắc phục hoàn toàn những
hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở chỗ không chỉ ra được
những lực lượng xã hội có thể trở thành chủ thể tạo ra xã hội mới. Như vậy,
khám phá trí tuệ thứ ba của C.Mác và Ph.Angghen .Học thuyết về sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp công nhân đã chứng minh sự hủy diệt không thể
tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và bản chất chính trị xã hội sâu sắc từ sự ra
đời của nó cũng như sự cần thiết của chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
3.1 C.Mác và Ph.Ăng-ghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học:
4. Sự vận dụng và phát triển của V.I.Lênin đối với chủ nghĩa xã hội khoa học.
a. Chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện mới:
VI.Lênin (1870-1924) là người kế thừa xuất sắc các chủ trương cách mạng và
khoa học của Mác và Ăng-ghen, tiếp tục bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo
lý luận xã hội chủ nghĩa khoa học trong thời đại mới, thời đại của chủ nghĩa đế
quốc và cách mạng vô sản; về vai trò của chủ nghĩa Mác trong phong trào công
nhân quốc tế; từ lý luận đến thực tiễn trong điều kiện xã hội chủ nghĩa.
Khi định nghĩa chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin cho rằng học thuyết của C.Mác “là học
thuyết lần đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ một điều không tưởng thành một khoa học”;
nó đặt nền móng vững chắc cho môn khoa học này và vạch ra rõ ràng con đường chúng
ta cần đi theo, để phát triển hơn nữa con đường này”. khoa học và phát huy nó một cách
đầy đủ... Lý thuyết này thể hiện rõ ràng toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản có xu hướng loại trừ sản xuất nhỏ dẫn đến sản xuất lớn, tạo khả năng tổ chức xã hội
theo con đường xã hội chủ nghĩa và điều kiện cần thiết chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
V.I.Lênin vẫn khẳng định “Chúng tôi không coi lý luận của Mác là một thứ gì đã hoàn
thiện và không thể tiếp cận được; Về mặt tiêu cực, chúng tôi cho rằng đề xuất đó chỉ đặt
nền tảng cho môn khoa học mà người xã hội chủ nghĩa cần phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu họ không muốn thụt lùi trong cuộc sống. Chúng tôi cho rằng những người xã
hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa mệnh đề của Mác, bởi
vì mệnh đề này chỉ đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo chung, nhưng việc vận dụng những
nguyên tắc đó rất tế nhị, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp , ở Pháp không
giống như ở Đức, ở Đức. Tuy nhiên, nếu như công lao của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát
triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, thì đóng góp của V.I.Lênin là biến
chủ nghĩa phi tự do từ trí tuệ thành hiện thực, được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước
xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - Nhà nước Xô Viết vào năm 1917. Những lợi ích
to lớn của ông đối với hoạt động sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa phi tự do khoa học
có thể được chia thành hai thời kỳ đầu là thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười Nga và
thời kỳ kể từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến năm 1924.
b. Chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V.I.Lênin qua đời đến nay:
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về khả năng ra đời của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở tìm hiểu, phân tích chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã
phát hiện ra quy luật phát triển vô hạn. về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong
thời kỳ chủ nghĩa đế quốc và đi đến kết luận rằng cuộc cách mạng bình dân có thể giành
chiến thắng ở một số quốc gia hoặc thậm chí ở một quốc gia duy nhất, nơi chủ nghĩa tư
bản Chủ nghĩa tư bản không phải là quốc gia tiên tiến nhất nhưng là mắt xích yếu nhất trong chuỗi thương mại.
Một trong những phát triển sáng tạo của V.I. Lênin trong việc vận dụng đề xuất
giá trị béo bở vào việc xây dựng chủ nghĩa phi tự do là dũng cảm khôi phục và phát triển
các quan hệ hàng hóa, tài chính, coi trao đổi hàng hóa như một công tắc. Mục đích chính
của chính sách lợi nhuận mới là giải quyết các mối quan hệ có lợi giữa trợ giúp và chăn
nuôi, giữa giai cấp hạ lưu và người trồng trọt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Để bảo đảm khôi phục và hình thành bộ phận luân chuyển hàng hóa, V.I.
Lênin cho rằng, phần vàng phải được ước tính hợp lý và đồng rúp phải được ổn định,
không chỉ dựa vào mệnh đề mà phải có ý nghĩa đặc biệt. Trong thực tế, xét về mặt hiểu
biết các điều kiện để ổn định đồng rúp, "thực tiễn quan trọng hơn tất cả các cuộc tranh
luận lý thuyết trên thế giới".
Tóm lại, các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin đã có những lý giải khoa học về tính
tất yếu của chủ nghĩa phi tự do và con đường dẫn đến chủ nghĩa phi tự do, chỉ ra quy luật
chung cần phải trung thành, đồng thời nhấn mạnh tính đặc thù của việc xây dựng chủ
nghĩa phi tự do trong từng hoàn cảnh cụ thể, điều kiện văn học cụ thể ở mỗi dân tộc, từ
đó tạo cơ sở khoa học cho sự bổ sung, phát triển và hoạt động sáng tạo không ngừng nghỉ
cho các thế hệ tương lai.
5. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối với Cách mạng Việt Nam.
Lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội là sự nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên
chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.
Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chủ
nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng hoảng trầm trọng, sụp đổ ở Liên
Xô và một số nước Đông Âu; nhưng, với bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”(1).
Đến Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(2).
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác đã cho rằng: “Tôi coi sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(3). Theo chiều tiệm
tiến thì việc phát triển tuần tự hay bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời lạc hậu,
xây dựng hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn là hợp quy luật phát triển của xã hội loài
người. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang
phát triển cao nhất của xã hội loài người. Trong thời đại hiện nay, các dân tộc chỉ có hai lựa
chọn là, theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, hay cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn con đường nào phụ thuộc vào nhận thức và hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể của mỗi dân tộc. Nhưng, xu hướng phát triển chung là các dân tộc đều
đi lên chủ nghĩa xã hội, dù cho con đường đó diễn ra lâu dài, gian khổ và cách thức tiến
hành sẽ không giống nhau.
Điều ấy được kiểm chứng rõ trong tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, là từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sau khi giành được độc lập đã bỏ qua sự
phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta phải trải qua một quá
trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh với quyết tâm chống lại
ách đô hộ và xâm lược của đế quốc, thực dân, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền
thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Việt Nam là một tấm gương
mẫu mực trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là cơ sở bảo đảm vững chắc cho nền độc lập, tự do của dân
tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, là đường lối cơ bản, xuyên suốt và nhất quán của cách mạng Việt Nam.