Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận cuối kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới bản thân con người nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vậy nên, giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề chiến lược quyết định sự ổn định hay khủng hoảng, tan rã hay bền lâu của một quốc gia, một đất nước. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc rất chi tiết, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
Nhóm 12
Chủ đề tiểu luận : Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
và ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay
GVHD: TS. Nguyễn Thị Quyết
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
Nhóm 12
Nhóm sinh viên thực hiện :
1. Bùi Thị Thùy Dung - 20119206
2. Trương Anh Thy - 19149043
3. Nguyễn Anh Hào - 20119222
4. Nguyễn Xuân Hải - 20119221(Lớp 95CLC)
5. Đỗ Trần Long Quân - 20132227
6. Phạm Hữu Nghĩa - 20119256
7. Phạm Quốc Việt - 20119307
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................9
1. Lý do chọn đề tài:........................................................................................9
2. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................9
KIẾN THỨC CƠ BẢN.........................................................................................10
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC.............................................................................................................10
1. Một số vấn đề chung..................................................................................10
1.1. Khái niệm dân tộc.............................................................................10
1.2. Chủ nghĩa dân tộc:............................................................................10
1.3. Hai xu hướng phát triển của dân tộc...............................................11
1.4. Vấn đề dân tộc trong xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.........................12
2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác-lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc............................................................................................13
3. Tình hình dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0..........................................................................................14
3.1. Tình hình dân tộc trên thế giới........................................................15
3.2. Quan hệ dân tộc trên thế giới...........................................................15
3.3. Nguồn gốc xung đột dân tộc trên thế giới hiện nay........................15
3.4. Vấn đề Dân tộc trong thời đại 4.0:...................................................15
3.4.1. Cách mạng Công nghiệp 4.0.............................................................15
3.4.2. Chủ nghĩa Dân tộc trong thời đại 4.0..............................................16
KIẾN THỨC VẬN DỤNG...................................................................................18
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................18
9
1. Hiến pháp và pháp luật đảm bảo quyền con người, mọi công dân Việt
Nam...........................................................................................................18
2. Những biểu hiện cụ thể về việc bình đẳng dân tộc và quyền con người ở
Việt Nam....................................................................................................20
3. Sự vận dụng của Việt Nam và những vấn đề cần tiếp tục, bổ sung về
thực hiện bình đẳng dân tộc trong xã hội hiện nay:.............................22
4. Một số kết quả thực hiện việc đảm bảo các quyền của dân tộc thiểu số
hiện nay......................................................................................................24
4.1. Chính trị.............................................................................................24
4.2. Kinh tế:...............................................................................................24
4.3. Giáo dục:............................................................................................24
4.4. Y tế:.....................................................................................................25
4.5. Văn hóa:.............................................................................................25
5. Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
hiện nay:....................................................................................................25
6. Một số giải pháp để đảm bảo các quyền của các dân tộc thiểu số hiện
nay:............................................................................................................26
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................29
9
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ và trực
tiếp tới bản thân con người nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vậy nên, giải
quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề chiến lược quyết định sự ổn định
hay khủng hoảng, tan rã hay bền lâu của một quốc gia, một đất nước. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc rất chi tiết, khoa học, có hệ thống và
được ứng dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài học đó thật sự là bổ ích,
cần được ghi nhận và vận dụng vào việc xem xét vấn đề dân tộc trong tình hình
hiện nay và trong giai đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ khi nền kinh tế nước nhà phát
triển mạnh mẽ theo hướng thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ
đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng kéo theo không ít những thách thức,
nguy cơ và rất nhiều khó khăn.
Từ vấn đề đó, để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề dân
tộc, những xu hướng phát triển dân tộc, vấn đề dân tộc theo quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin và những thuận lợi, khó khăn và thử thách trong các chính sách của
Đảng và nhà nước ta, nhất là khi nước ta phải hội nhập với nền kinh tế thị trường,
nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề dân tộc và vận dụng làm rõ đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc trong thời đại
4.0” là vấn đề nghuên cứu cho chuyên đề triết học hội. thời gian khả
năng tổng hợp tài liệu còn hạn chế nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi
những sai sót, kính mong cô có những ý kiến đóng góp và chỉnh sửa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài: “Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và vận dụng
làm rõ đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc trong thời đại 4.0”, nhóm chúng em đã
tổng hợp và tìm hiểu từ nhiều nguồn nhằm giúp người đọc có hiểu kĩ và sâu hơn về
tầm quan trọng của dân tộc và sức mạnh từ việc đoàn kết dân tộc để vượt qua những
khó khăn thử thách trong thời đại hội nhập và phát triển như hiện nay. Hơn nữa,
nhóm chúng em còn hướng đến mục tiêu chung, nắm bắt và phân tích rõ ràng
đường lối chính sách của Đảng, nhất là trong tình hình thực tại của đất nước đang
chuyển mình cho thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0).
9
KIẾN THỨC CƠ BẢN
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC
1. Một số vấn đề chung
1.1. Khái niệm dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó co
những mối liên hệ chặc chẽ, bền vững, có bốn đặc trưng: cộng đồng về ngôn ngữ; cộng
đồng về lãnh thổ; cộng đồng về kinh tế; cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách. Dân tộc
còn được hiểu theo nghĩa một quốc gia trong đó tổng hợp nhiều cộng đồng người (tộc
người) được hình thành do nhu cầu tồn tại trong quá trình phát triển lịch sử. Theo nghĩa này,
những cộng đồng người được gọi là “dân tộc” là kết quả của sự phát triển lâu dài của cộng
đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và
phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được gọi là dân tộc.
- Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cụ thể nào đó
có mối liên hệ ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung,
nền kinh tế thống nhất, có tiếng nói chung của cộng đồng, có truyền thống trong sinh hoạt
văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng dân tộc khác; có truyền thống đấu
tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước; xuất hiện cộng đồng bộ lạc, có sự thừa
kế và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự
giác trong cộng đồng đó.
Trong lịch sử, các dân tộc hình thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy
mô, sức sống lẫn trình độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau,
hòa nhập với nhau hoặc đồng hóa thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc là cần có
nhà nước bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ quyền lãnh thổ phát triển thành ý thức
quốc gia dân tộc tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa dân tộc. Bản thân nhà nước, đến lượt nó,
lại có tác động trở lại củng cố sự đoàn kết dân tộc, sự thống nhất nhiều dân tộc trong biên
giới của mình.
1.2. Ch nghĩa dân t c :
Chủ nghĩa dân tộc hay còn gọi là ý thức dân tộc, là tinh thần dân tộc. Ý thức dân tộc trước
hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con người, quyền làm chủ lãnh thổ (đất nước),
làm chủ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình. Đó là tinh thần độc lập tự chủ của
mỗi dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi thành viên của dân tộc đều thấy có nghĩa vụ thiêng
10
liêng phải giữ gìn bảo vệ chủ nghĩa dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn
tại và phát triển là thành quả sức lao động và đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ tiền bối.
Nhận định về sự ra đời và phát triền của chủ nghĩa dân tộc có 2 khuynh hướng:
- Theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nhà dân tộc học người Mỹ Louis Snyder cho
rằng chủ nghĩa dân tộc là trào lưu chính trị bắt nguồn từ Cách mạng tư sản Pháp vào nửa thế
kỉ XVIII. Sau cách mạng tư sản Anh , Pháp và cuộc chiến tranh giành độc lập ở 13 bang
thuộc địa Bắc Mỹ, các "quốc gia dân tộc" (nation-state) lần lượt ra đời ở khu vực này.
Phong trào trào giải phóng dân tộc vì vậy đã phát triển mạng mẽ trong thế kỷ XX, điển hình
là hai cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng chủ nghĩa dân tộc là hệ
tư tưởng tư sản được thể hiện trong quan hệ dân tộc, là xu hướng chính trị tư sản trong việc
giải quyết các vấn đề dân tộc. Đó cũng chính là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là
đặc trưng cơ bản của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống thực dân đế quốc,
giành độc lập dân tộc.
Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ngày nay rất phức tạp, do đa số quốc gia là đa sắc tộc
hoặc có nhiều nhóm nhận vị thế quốc gia. Ở nhiều nơi, chủ nghĩa dân tộc đã biến tướng
thành chủ nghĩa ly khai, gây ra hàng loạt xung đột sắc tộc và trong những trường hợp cực
đoan là diện chủng. Các thế lực chủ nghĩa dân tộc cũng ngày càng lớn mạnh ở mức độ khác
nhau, hình thành nên các thế lực chính trị và lực lượng quân sự, thông qua cơ chế dân chủ
phương Tây hoặc hoạt động khùng bố thông qua bạo lực nhằm mở rộng chủ nghĩa ly khai,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước độc lập. Tất cả các nhân tố đó kết hợp
với nhau đang tạo nên một cục diện phức tạp và không ổn định không chỉ trong nội bộ
nhiều nước mà còn đe dọa nghiêm trọng nền an ninh và ổn định thế giới.
1.3. Hai xu h ng phát tri n c a dân t cướ
Nghiên cứu về đân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lenin đã phân tích
và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:
- Xu hướng thứ nhất do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống
của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. -
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn
hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc,
xóa bỏ sự biệt lập, khéo kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
11
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.L.Leenin phát hiện đã và đang phát
huy tác dụng trong thời đại ngày nay với nhưng biểu hện phong phú và đa dạng:
- Xét trong phạm vi các Quốc gia Xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Trong điều kiện
xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng này phát triền cùng chiều, bổ sung và hỗ trợ nhau. Sự tự
chủ, phồn vinh của mỗi dân tộc sẽ tạo nên điều kiện vật chất - tinh thần để hợp tác với các
dân tộc anh em.
- Xét trên phạm vi thế giới: Sự tác động của hai xu hướng thể hện: Thời đại hiện nay là
thời đại mà các dân tộc thuộc địa đã đứng lên xóa bỏ chế độ nô dịch, áp bức, dành quyền tự
chủ quyết định vận mệnh của dân tộc mình như lưa chọn nền chính trị, con đường phát triển
dân tộc mình, quyền bình đẳng với các dân tộc khác... Đây là mục tiêu vì độc lập dân tộc và
thực chất là chống chủ nghĩa đế quốc, chống kì thị dân tộc, chống nạn phân biệt chủng tộc.
1.4. Vâấn đềề dân t c trong xây d ng Ch nghĩa Xã h i
Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga, một thời mới đã xuất hiện - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là sự quá độ lên một xã hội trong đó các
quyền tự do, bình đẳng và mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa người với người được thực
hiện. Giai cấp công nhân hiện đại với sứ mệnh lịch sử của mình, cùng với nhân dân lao
động có sáng tạo ra xã hội đó.
Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và nhưng xu hướng phát triển của nó, chủ nghĩa
Mác Lê-nin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tinh trạng áp bức
giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng bị xóa
bỏ.
Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền tạo
tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành
và phát triển của dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi sự cải tạo, xây dụng từng bước cộng
đồng dân tộc và các mỗi quan hệ xã hội , quan hệ dân tọc theo các nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khao học . Đồng thời dân tộc xã hội chủ nghĩa cũng chỉ có
thể ra đời từ kết quả toàn diện trên mọi linh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ kinh tế, chính trị, xã hội văn hóa - tư tưởng.
Dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hỗi có sự vaanh động mới theo hướng ngày
càng tiến bộ, văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc sẽ phát
huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả
12
cộng đồng quốc gia. Quan hệ dân tộc sẽ là biểu hiện sinh động của hai xu hướng đó trong
điều kiện của công cuộc xây dựng xã hội mới
- xã hội chủ nghĩa.
Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra nhưng điều kiện thuận lợi để xây dựng quan
hệ dân tộc bình đẳng, hợp tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Sự xích lại cho
gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng sẽ là nhân tố quan trọng cho từng dân tộc nhanh
chóng đi tới phồn vinh hạnh phúc. Mỗi dân tộc không nhưng có điều kiện khai thác tối đa
tiềm năng của dân tộc mình để phát triển mà còn nhận được sự giúp đỡ, dựa vào tiềm năng
của dân tộc anh em để phát triển nhanh chóng. Sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc trong
tiến trình xây dựng chủ nghĩa trong một quốc gia sẽ làm ho nhưng giá trị, tinh hoa của các
dân tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong phú thêm giá trị chung của quốc
gia - dân tộc. Nhưng giá trị chung đó sẽ trở thành cơ sở liên kết các dân tộc chặt chẽ, bền
vững hơn. Tóm lại dân tộc và quan hệ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội mới. Xã hội
mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự
phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự
tăng cường tính thống nhất các dân tộc trờ thành một quá trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính
cộng đồng chung, tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng
dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác-lênin trong việc giải quyết vấn đề
dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến
lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia
dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là bộ phận của những
vấn đề chung về cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa
Mác-lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đáp ứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải
quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc. Giải quyết vấn
đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng bình đẳng giữa các dân tộc trong một
quốc gia, giữa các dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự
phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc V.I.Lênin đã nêu " cường lĩnh dân tộc " với ba
nội dung cơ bản : các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết , liên
13
hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-
lênin. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong
cương lĩnh cách mạng của giagi cấp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của đảng
cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phòng giai cấp và quyết đúng
đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối
và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng : quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng
liêng của dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao
hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc,
quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong
thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển, văn hóa giữa các dân
tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền
bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ
nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ
quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi
dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc
mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân
tộc độc lập ( vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm
người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Khi
xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhận: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những
mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài udder can thiệp vào công việc nội
bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong “ Cương lĩnh
dân tộc” của V.I.Leenin, Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo
14
đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc.
3. Tình hình dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0
3.1. Tình hình dân t c trền thềấ gi i
Hiện nay, người ta chưa thống kê được chính xác trên thế giới có bao nhiêu dân tộc ( tộc
người), nhưng theo một số nhà khoa học, con số đó khoảng vài ngàn. Về quốc gia dân tộc,
trên thế giới ngày nay có hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có dân số và diện tích, trình độ
phát triển kinh tế rất khác nhau.
3.2. Quan h dân t c trền thềấ gi i
Các dân tộc trên thế giới không sống biệt lập mà có quan hệ qua lại nhiều chiều với nhau.
Cùng với tiến trình lịch sử, mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng trở nên phong phú và
đa dạng. Quan hệ dân tộc chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ và các yếu tố như sau:
- Quan hệ dân tộc xuất phát và chịu ảnh hưởng của quan hệ lợi ích.
- Vấn đề dân tộc trên thế giới có quan hệ chặt chẽ với vấn đề tôn giáo.
- Vấn đề dân tộc luôn gắn rất chặt với vấn đề giai cấp, đặc biệt quan hệ lợi ích.
- Quan hệ giữa các dân tộc có liên quan đến quan hệ giữa các văn hóa.
3.3. Nguồền gồấc xung đ t dân t c trền thềấ gi i hi n nay
- Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
- Chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
- Vấn đề dân tộc chưa được giải quyết đúng đắn.
- Sự can thiệp của các nước tư bản đế quốc vì lợi ích của chúng.
Con đường để giải quyết vấn đề dân tộc trên thế giới chỉ có thể tìm thấy ở chủ nghĩa Mác –
Leenin, được V.I.Leenin nêu ra một cách rõ ràng là: các dân tộc bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.
3.4. Vâấn đềề Dân t c trong th i đ i 4.0 :
3.4.1. Cách m ng Cồng nghi p 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được đánh số 4.0 chính vì trước đây có 3 cuộc cách mạng
tương tự từng diễn ra: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ( từ 1784) xảy ra khi loài
người phát minh động cơ hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ( từ 1870) khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang
lại cuộc sống văn minh hơn, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 ( từ 1969) xuất hiện khi
con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại,
internet… là những công nghệ chúng ta có được nhờ cuộc cách mạng này.
15
Được nhen nhóm từ những năm 2000 và đến nay đã có những sự bùng nổ to lớn, cuộc cách
mạng thứ 4 là cuộc cách mạng nghiên về công nghệ số, Internet với mục đích biến thế giới
thực thành một thế giới số. Năm 2013, khái niệm Công nghệ 4.0 xuất hiện trong một báo
cáo của Đức nhằm đề cập trên chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa sản xuất mà không
còn cần đến sự tham gia của con người. Tính đến 2017, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi
khuôn khổ dự án Đức, lan rộng ra nhiều nước và trở thành một xu thế tất yếu của việc phát
triển kinh tế, xã hội…
Các lĩnh vực mà cuộc cách mạng công nghiệp tác đọng đến bao gồm:
- Lĩnh vực kỹ thuật soosL trí tuệ nhân tạo ( AI), vạn vật kết nối ( Internet of Things).
- Lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn ( Big Data).
- Lĩnh vực vật lý: In 3D, Vật liệu mới, Robot cao cấp, xe tự lái.
- Lĩnh vực công nghệ sinh học.
- Lĩnh vực năng lượng mới.
Thế giới toàn cầu hóa cũng thúc đẩy môi trường hợp tác, đồng thời là mặt trận đấu tranh
giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền và các lực lượng tiến bộ khác vì các mục tiêu hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển.
3.4.2. Ch nghĩa Dân t c trong th i đ i 4.0
Những vấn đề đặt ra cho dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại cách mạng Công
nghiệp lần thứ 4:
Quan hệ đa chiều bao gồm cả những tương tác tích cực và hạn chế giữa tộc người và tộc
người trong phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm cả những tiến bộ và hạn chế của tộc
người với tộc người trên phạm vi quốc tế.
Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở thành vấn đề lớn mà các quốc gia dân tộc phải
đối mặt và bắt buột phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn phải đối mặt
và bắt buộc phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn hóa và cũng là cơ sở
gắn kết tính cộng đồng trở nên mạnh mẽ hơn, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẽ lợi
ích có được. Trong khi yếu tố hiện đại phần lớn là những yếu tố ngoại lai, các giá trị văn
minh và lối sống công nghiệp. Điểm mấu chốt là giải quyết mối quan hệ đó như thế nào, giữ
lại cái gì, tiếp nhận cái gì, hòa trộn thế nào là những câu hỏi khó.
Sự đối diện giữa đời sống vật chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh ngày càng trở nên phức
tạp, đan xen và xuất hiện ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội. Toàn cầu hóa dẫn đến
sự xâm nhập, du nhập các dòng tư tưởng rõ ràng yếu tố này đang chi phối đời sống các
16
nhân và cộng đồng mạnh mẽ dẫn đến sự chệch dòng nếu không có sự định hướng, kiểm soát
phù hợp.
Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn đề lớn đặt ra. Bản sắc
khẳng định giá trị và sự tồn lại của một quốc gia dân tộc nhưng cũng không thể giữ bản sắc
theo nghĩa tuyệt đối, khép lín mà phải có yếu tối hòa nhập. Nhưng nếu không có sự độc lập,
tự chủ thì sẽ dẫn đến sự đồng hóa, cả theo nghĩa nhân chủng học, cả về văn hóa, theo cong
đường thôn tính tự nhiên hoặc đôi khi cả sự tư nguyện.
Vấn đề phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi quốc gia dân tộc phải lựa chọn theo
con đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt
và lâu dài. Rõ ràng, trong một tương lai xa phải bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây
giờ nhưng với nhiều quốc gia, điềuhóa là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại.
Vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội, Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển
hiện đại gắn với quá trình toàn cầu hóa, phân công lại lao động, phân chia lại các giá trị.
Dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển, giữa
khối một số nước giàu nhất với khối phần lớn các nước nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy
quá trình này đi nhanh hơn so với tiến trình lịch sử.
Trong thời đại 4.0, khi các ứng dụng thông minh có khả năng xóa bỏ nhiều rào cản mang
tính chất biên giới lãnh thổ, có khả năng gắn kết nhiều con người lại với nhau không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, lý tưởng cùng chung chế độ xã hội sẽ không còn nhiều ý nghĩa, nguye
cơ bị các thế lực cường quyền toàn cầu hóa triển khai nhiều học thuyết và hành động bất
chấp chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của các nước trên thế giới.
17
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Hiến pháp và pháp luật đảm bảo quyền con người, mọi công dân Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với
nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn ở góc độ về khái niệm, “quyền con người” không loại trừ và không
thay thế được khái niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm
đặt vị trí của chương “Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
-Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp năm
1946.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí”
Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến
Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 –
Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười
lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980.
Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42,
Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20
đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều
(là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ
quan trọng cụ thể như sau:
- Điều 14 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận…, sức khỏe của cộng đồng”.
- Điều 15 ghi nhận bốn nguyên tắt hết sức cơ bản: Quyền công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Điều 16 ghi nhận một vấn đề hết sức cơ bản, bằng việc tiếp thu những giá trị của
18
nhân loại về quyền con người, đã nâng cao thêm tính công bằng công lý cho “mọi
người” (kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài và người không quốc tịch)
- Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) là sự sáng tạo, khẳng định sức mạnh của một
quốc gia độc lập ngang tầm, bình đẳng với các quốc gia khác, dân tộc khác trên thế
giới
- Điều 19 ghi nhận “Mọi người có quyền sống...” đây là một điều mới, ghi nhận một
quyền mới, đã thể chế một quyền hết sức cơ bản, quyền tự nhiên của con người vừa
phù hợp công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy của
quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan.
- Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà
nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án nhưng cũng khẳng
định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội,
nhằm đảm bảo tính công bằng công lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét
xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể sử
dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể “gỡ” tội cho chính mình:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự …sự đồng ý của người được thử nghiệm”; trong điều này ghi nhận
hai quyền cơ bản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ
thể người và hiến xác.
- Điều 29 ghi nhận: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Đây là sự phát triển Điều 53 của Hiến pháp
năm 1992, tiếp tục khẳng định quyền được trưng cầu ý kiến, cách thể hiện cô đọng
hơn và có sự giới hạn về độ tuổi của người dân được trưng cầu, phải là “công dân
đủ mười tám tuổi trở lên”, việc giới hạn độ tuổi như vậy cũng là cần thiết và phù
hợi với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
- Các Điều 30, Điều 31 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 tại các Điều 74, Điều
72 và có tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 49
- Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) đã ghi nhận hết sức cơ bản về quyền sở hữu tư
nhân, việc ghi nhận này đã giúp cho việc nhìn nhận của thế giới về tính công bằng
giữa chế độ sở hữu tư nhân và công hữu
- Các Điều 41, Điều 42, Điều 43 là các điều mới ghi nhận những quyền thuộc về
lĩnh vực đời sống tinh thần mà trước đây trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện,
19
đó cũng do những điều kiện khách quan đang cho phép, đồng thời cũng buộc chúng
ta phải ghi nhận, đặc biệt cần quan tâm “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”
(Điều 41); “công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ
đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); “mọi người có quyền được sống trong
môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43), sự thừa nhận
này có thể hiểu giá trị con người cần được đề cao, đáng được đề cao và xem trọng.
Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã làm rõ hai khái
niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Có thể nói,Hiến pháp năm 2013 như
một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có
chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đối với các qui định về
quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới
cụ thể, thể hế hóa nguyên tắc “công dân được làm những gì mà pháp luật không
cấm” trong lĩnh vực kinh doanh tại Điều 33 “mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng
bổ sung cơ bản cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền công dân và giữ nguyên
phần nghĩa vụ, tuy nhiên có sự thay đổi về cách bố trí vị trí của phần nghĩa vụ, theo
đó một phần nghĩa vụ được đặt lên trước (Điều 15) liên quan trực tiếp đến quyền
nghĩa vụ giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước. Cách bố trí này
có phần giống với cách bố trí của Hiến pháp năm 1946, phần còn lại bố trí phía sau
(Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47…). Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận lại
những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận bằng cánh ghi nhận
đổi mới theo hướng vĩ mô, tinh gọn, bao quát vấn đề hơn cách ghi nhận của các bản
Hiến pháp trước đó..
2. Những biểu hiện cụ thể về việc bình đẳng dân tộc và quyền con người ở Việt
Nam. (phần này thống kê):
Việt Nam là một quốc gia thống nhất với 54 dân tộc cùng chung sống. Với tỷ lệ dân số
không đồng đều (trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số
chỉ chiếm 14.3% với hơn 12.3 triệu người, thuộc 53 dân tộc); cư trú phân tán và xen k
nhau… cộng đồng các dân tộc Việt Nam có nhiều đặc điểm riêng so với các dân tộc khác
trên thế giới.
20
Coi trọng bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Hiến pháp năm 2013, bản hiến pháp đã nâng tầm chế định về quyền con người, quyền công
dân, khi đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đã khẳng định: “Nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam…cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội” (Điều 16).
Nguyên tắc trên của Hiến pháp đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp
luật Việt Nam, được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản luật
Bên cạnh đó, các quy định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc còn được thể chế hóa bằng
chế định về Hội đồng Dân tộc, với nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công
tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trong
Chính phủ có một cơ quan cấp bộ là Uỷ ban Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc. Số
lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ dân số.
Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số
chiếm từ 15,6% đến 17,27%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân là
14,35%. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011-
2016 là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.
Dành nhiều ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế
- xã hội
Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, xã
hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2007
đến nay đã có 118.530 hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được vay vốn, 33.969
hộ được hỗ trợ phát triển sản xuất, 80.218 hộ được hỗ trợ mở rộng quy mô chăn nuôi, 4.343
hộ được hỗ trợ mở rộng sang ngành nghề dịch vụ. Tổng số hộ nghèo người dân tộc thiểu số
là 1.422.261 hộ, chiếm 5,97% tổng số hộ người dân tộc thiểu số trong cả nước.
Bảo đảm quyền và hỗ trợ đồng bào thiểu số gìn giữ, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc
Hiến pháp năm 2013 (Điều 5) ghi rõ: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
21
gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình”.
Trên thực tế, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong những năm qua
được cải thiện rõ rệt, mức thụ hưởng văn hóa được nâng cao.Từ năm 2012, 100% xã đã đạt
chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, 95% trẻ em dân tộc
thiểu số được đến trường.
Quyền của dân tộc thiểu số là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm
quyền dân sự - chính trị đã được luật pháp quốc tế công nhận. Tại Việt Nam, đồng bào dân
tộc thiểu số ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để vươn lên phát triển về mọi mặt, đóng
góp nhiều hơn vào sự nghiệp chung của đất nước. Những thành tựu đó là những minh chứng
cụ thể trong bảo đảm và thúc đẩy quyền của dân tộc thiểu số nói riêng và quyền con người
nói chung tại Việt Nam.
3. Sự vận dụng của Việt Nam và những vấn đề cần tiếp tục, bổ sung về thực hiện
bình đẳng dân tộc trong xã hội hiện nay:
Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là ở miền núi, gặp nhiều khó khăn
trong sản xuất và sinh hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc ở
nước ta. Đảng ta khẳng định vấn đề then chốt và quan trọng nhất trong thực hiện bình đẳng
dân tộc ở Việt Nam chính là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc hiện nay.
“Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các
dân tộc… Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(15). Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương: “Để thực hiện trên thực
tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng
đó… tốt đẹp của các dân tộc”(16). Đảng ta khẳng định xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, ghi nhận đầy đủ quyền của đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp quan trọng để
thúc đẩy bình đẳng dân tộc. Bên cạnh đó, việc quan tâm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội
miền núi, vùng dân tộc thiểu số cũng là giải pháp để thực hiện bình đẳng dân tộc: “Vấn đề
xây dựng kinh tế miền núi …lao động miền Bắc”(17). Khi miền núi còn kém phát triển thì
chỉ có sự ưu tiên, quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với miền núi, đồng bào dân tộc
thiểu số mới tạo ra sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc để đuổi kịp đồng bào dân tộc đa số,
thực hiện mục tiêu tất cả các dân tộc đều được ấm no, hạnh phúc. Tập trung, ưu tiên mọi
nguồn lực để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện
22
bình đẳng dân tộc, điều này tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong văn kiện Đại hội XII:
“tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền
Trung”(18).
Bình đẳng trong chính trị là tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số được tham gia
chính quyền và các cơ quan quyền lực nhà nước để họ có đại diện của mình. “Để thực hiện
đẩy đủ nguyên tắc các dân tộc bình đẳng …giác ngộ còn thấp kém quá”(19). Đảng ta cũng
chỉ ra những nội dung của bình đẳng dân tộc về mặt kinh tế được xác định là “Mở mang
kinh tế các vùng thiểu số, cải thiện đời sống cho họ, chú trọng tiếp tế những thứ cần thiết
cho đời sống hàng ngày của họ”(20). Bảo đảm những lợi ích kinh tế và nâng cao đời sống
vật chất cho đồng bào dân tộc thiểu số là nội dung cốt lõi của bình đẳng dân tộc về mặt kinh
tế. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc về mặt văn hóa là các dân tộc được tự do bảo tồn và
phát triển văn hóa truyền thống, chữ viết của mình, được hưởng các thành quả phát triển
văn hóa chung của đất nước “Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại,
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển tồn tại và được bảo đảm”(21); “Phát
triển bình dân học vụ và phát triển văn nghệ dân tộc ở các vùng thiểu số, phổ biến việc la
tinh hóa tiếng nói của các dân tộc chưa có chữ và bảo đảm việc dạy học bằng các thứ tiếng
đó trong các trường của dân tộc thiểu số (nhất là ở các lớp dưới)”(22).
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thực hiện tự trị dân tộc, Đảng ta
cũng đã chủ trương thực hiện tự trị dân tộc: “Cần quan niệm cho đúng vấn đề thành lập khu
tự trị là để làm cho các dân tộc được bình đẳng trong một quốc gia thống nhất”(23).
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bình đẳng dân tộc, trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước có nhiều chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình 134, 135, 30a... Kết cấu hạ tầng miền núi đã có
bước phát triển, đời sống của đồng bào ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Việc quan tâm quy
hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc thiểu số được các cấp ủy chú ý; số lượng,
chất lượng cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị các cấp ngày càng
tăng. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vùng miền núi được thực hiện thực chất hơn.
Qua đó, quyền bình đẳng về chính trị giữa các dân tộc được bảo đảm. Chúng ta cũng tạo
điều kiện và hỗ trợ vật chất, nguồn lực để giúp đồng bào bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của mình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát
triển giữa các dân tộc.
23
Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ của dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc kém phát
triển hơn.
Thứ ba, phát huy vai trò của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ lực, cố gắng
phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ty, ỷ lại trông chờ trong thực hiện bình đẳng dân tộc.
Thứ tư, cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước, chính quyền và cán bộ địa phương trong
thực hiện bình đẳng dân tộc.
4. Một số kết quả thực hiện việc đảm bảo các quyền của dân tộc thiểu số hiện nay.
4.1. Chính trị
Quyền tham gia bầu cử, ứng cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Số lượng đại
biểu Quốc hội người DTTS đã tăng theo các khóa: Khoá I (1946) chiếm 10,2%, Khóa XIII
chiếm 15,6%, cao hơn tỷ lệ dân số DTTS. Về đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là người
DTTS: Khoá XI (2002-2007): có 14% ở cấp tỉnh, thành phố; có 17% ở cấp huyện, có 19% ở
cấp xã, phường; Khóa XIII (2011-2016): đạt tỉ lệ 18,0% cấp tỉnh; 20,10% ở cấp huyện;
22,46% ở cấp xã
Đồng bào dân tộc với tư cách là người dân được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà
nước, quản lý xã hội thông qua đại diện và cả trực tiếp theo những quy định cụ thể, rõ ràng,
nhất là hành lang “Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Đây là kênh quan trọng để thúc đẩy quyền về
chính trị và tham gia các hoạt đô ¡ng quản lý nhà nước đối với đồng bào DTTS.
4.2. Kinh tế:
Cơ sở hạ tầng được xây dựng đáng kể đã cải thiện bộ mặt nông thôn miền núi, vùng đồng
bào dân tộc. Hiện đã có 92% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80%
số xã có thủy lợi nhỏ; 65% số xã có công trình nước sinh hoạt v.v.. là những cố gắng rất
đáng kể của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ công của đồng bào DTTS.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách giúp người dân bảo đảm và
tiếp cận nguồn lực đất đai, rừng, cải thiện các điều kiện sống như: Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg về hỗ trợ hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn về nhà ở, đất ở,
đất sản xuất và nước sinh hoạt; Quyết định số 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc
biệt khó khăn v.v.. Những chính sách này đã phần nào góp phần giải quyết tình trạng thiếu
24
| 1/26

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA Nhóm 12
Chủ đề tiểu luận : Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
và ý nghĩa trong quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay
GVHD: TS. Nguyễn Thị Quyết
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA Nhóm 12
Nhóm sinh viên thực hiện :
1. Bùi Thị Thùy Dung - 20119206
2. Trương Anh Thy - 19149043
3. Nguyễn Anh Hào - 20119222
4. Nguyễn Xuân Hải - 20119221(Lớp 95CLC)
5. Đỗ Trần Long Quân - 20132227
6. Phạm Hữu Nghĩa - 20119256
7. Phạm Quốc Việt - 20119307
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2021 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................9 1.
Lý do chọn đề tài:........................................................................................9 2.
Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................9
KIẾN THỨC CƠ BẢN.........................................................................................10
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC.............................................................................................................10 1.
Một số vấn đề chung..................................................................................10
1.1. Khái niệm dân tộc.............................................................................10
1.2. Chủ nghĩa dân tộc:............................................................................10
1.3. Hai xu hướng phát triển của dân tộc...............................................11
1.4. Vấn đề dân tộc trong xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.........................12 2.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác-lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc............................................................................................13 3.
Tình hình dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0..........................................................................................14
3.1. Tình hình dân tộc trên thế giới........................................................15
3.2. Quan hệ dân tộc trên thế giới...........................................................15
3.3. Nguồn gốc xung đột dân tộc trên thế giới hiện nay........................15
3.4. Vấn đề Dân tộc trong thời đại 4.0:...................................................15
3.4.1. Cách mạng Công nghiệp 4.0.............................................................15
3.4.2. Chủ nghĩa Dân tộc trong thời đại 4.0..............................................16
KIẾN THỨC VẬN DỤNG...................................................................................18
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................18 9 1.
Hiến pháp và pháp luật đảm bảo quyền con người, mọi công dân Việt
Nam...........................................................................................................18 2.
Những biểu hiện cụ thể về việc bình đẳng dân tộc và quyền con người ở
Việt Nam....................................................................................................20 3.
Sự vận dụng của Việt Nam và những vấn đề cần tiếp tục, bổ sung về
thực hiện bình đẳng dân tộc trong xã hội hiện nay:
.............................22 4.
Một số kết quả thực hiện việc đảm bảo các quyền của dân tộc thiểu số
hiện nay......................................................................................................24
4.1. Chính trị.............................................................................................24
4.2. Kinh tế:...............................................................................................24
4.3. Giáo dục:............................................................................................24
4.4. Y tế:.....................................................................................................25
4.5. Văn hóa:.............................................................................................25 5.
Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
hiện nay:....................................................................................................25 6.
Một số giải pháp để đảm bảo các quyền của các dân tộc thiểu số hiện
nay:
............................................................................................................26
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................29 9 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ và trực
tiếp tới bản thân con người nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vậy nên, giải
quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề chiến lược quyết định sự ổn định
hay khủng hoảng, tan rã hay bền lâu của một quốc gia, một đất nước. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc rất chi tiết, khoa học, có hệ thống và
được ứng dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài học đó thật sự là bổ ích,
cần được ghi nhận và vận dụng vào việc xem xét vấn đề dân tộc trong tình hình
hiện nay và trong giai đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ khi nền kinh tế nước nhà phát
triển mạnh mẽ theo hướng thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ
đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng kéo theo không ít những thách thức,
nguy cơ và rất nhiều khó khăn.
Từ vấn đề đó, để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của vấn đề dân
tộc, những xu hướng phát triển dân tộc, vấn đề dân tộc theo quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin và những thuận lợi, khó khăn và thử thách trong các chính sách của
Đảng và nhà nước ta, nhất là khi nước ta phải hội nhập với nền kinh tế thị trường,
nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề dân tộc và vận dụng làm rõ đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc trong thời đại
4.0” là vấn đề nghuên cứu cho chuyên đề triết học xã hội. Vì thời gian và khả
năng tổng hợp tài liệu còn hạn chế nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi
những sai sót, kính mong cô có những ý kiến đóng góp và chỉnh sửa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài: “Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và vận dụng
làm rõ đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc trong thời đại 4.0”, nhóm chúng em đã
tổng hợp và tìm hiểu từ nhiều nguồn nhằm giúp người đọc có hiểu kĩ và sâu hơn về
tầm quan trọng của dân tộc và sức mạnh từ việc đoàn kết dân tộc để vượt qua những
khó khăn thử thách trong thời đại hội nhập và phát triển như hiện nay. Hơn nữa,
nhóm chúng em còn hướng đến mục tiêu chung, nắm bắt và phân tích rõ ràng
đường lối chính sách của Đảng, nhất là trong tình hình thực tại của đất nước đang
chuyển mình cho thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0). 9 KIẾN THỨC CƠ BẢN
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1.
Một số vấn đề chung 1.1. Khái niệm dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa: -
Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó co
những mối liên hệ chặc chẽ, bền vững, có bốn đặc trưng: cộng đồng về ngôn ngữ; cộng
đồng về lãnh thổ; cộng đồng về kinh tế; cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách. Dân tộc
còn được hiểu theo nghĩa một quốc gia trong đó tổng hợp nhiều cộng đồng người (tộc
người) được hình thành do nhu cầu tồn tại trong quá trình phát triển lịch sử. Theo nghĩa này,
những cộng đồng người được gọi là “dân tộc” là kết quả của sự phát triển lâu dài của cộng
đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và
phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được gọi là dân tộc. -
Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cụ thể nào đó
có mối liên hệ ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung,
nền kinh tế thống nhất, có tiếng nói chung của cộng đồng, có truyền thống trong sinh hoạt
văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng dân tộc khác; có truyền thống đấu
tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước; xuất hiện cộng đồng bộ lạc, có sự thừa
kế và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự
giác trong cộng đồng đó.
Trong lịch sử, các dân tộc hình thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy
mô, sức sống lẫn trình độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau,
hòa nhập với nhau hoặc đồng hóa thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc là cần có
nhà nước bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ quyền lãnh thổ phát triển thành ý thức
quốc gia dân tộc tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa dân tộc. Bản thân nhà nước, đến lượt nó,
lại có tác động trở lại củng cố sự đoàn kết dân tộc, sự thống nhất nhiều dân tộc trong biên giới của mình. 1.2. Ch nghĩa dân t c ộ :
Chủ nghĩa dân tộc hay còn gọi là ý thức dân tộc, là tinh thần dân tộc. Ý thức dân tộc trước
hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con người, quyền làm chủ lãnh thổ (đất nước),
làm chủ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình. Đó là tinh thần độc lập tự chủ của
mỗi dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi thành viên của dân tộc đều thấy có nghĩa vụ thiêng 10
liêng phải giữ gìn bảo vệ chủ nghĩa dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn
tại và phát triển là thành quả sức lao động và đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ tiền bối.
Nhận định về sự ra đời và phát triền của chủ nghĩa dân tộc có 2 khuynh hướng: -
Theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nhà dân tộc học người Mỹ Louis Snyder cho
rằng chủ nghĩa dân tộc là trào lưu chính trị bắt nguồn từ Cách mạng tư sản Pháp vào nửa thế
kỉ XVIII. Sau cách mạng tư sản Anh , Pháp và cuộc chiến tranh giành độc lập ở 13 bang
thuộc địa Bắc Mỹ, các "quốc gia dân tộc" (nation-state) lần lượt ra đời ở khu vực này.
Phong trào trào giải phóng dân tộc vì vậy đã phát triển mạng mẽ trong thế kỷ XX, điển hình
là hai cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng chủ nghĩa dân tộc là hệ
tư tưởng tư sản được thể hiện trong quan hệ dân tộc, là xu hướng chính trị tư sản trong việc
giải quyết các vấn đề dân tộc. Đó cũng chính là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là
đặc trưng cơ bản của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống thực dân đế quốc,
giành độc lập dân tộc.
Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ngày nay rất phức tạp, do đa số quốc gia là đa sắc tộc
hoặc có nhiều nhóm nhận vị thế quốc gia. Ở nhiều nơi, chủ nghĩa dân tộc đã biến tướng
thành chủ nghĩa ly khai, gây ra hàng loạt xung đột sắc tộc và trong những trường hợp cực
đoan là diện chủng. Các thế lực chủ nghĩa dân tộc cũng ngày càng lớn mạnh ở mức độ khác
nhau, hình thành nên các thế lực chính trị và lực lượng quân sự, thông qua cơ chế dân chủ
phương Tây hoặc hoạt động khùng bố thông qua bạo lực nhằm mở rộng chủ nghĩa ly khai,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước độc lập. Tất cả các nhân tố đó kết hợp
với nhau đang tạo nên một cục diện phức tạp và không ổn định không chỉ trong nội bộ
nhiều nước mà còn đe dọa nghiêm trọng nền an ninh và ổn định thế giới. 1.3. Hai xu h ng phát tri ướ ển c a dân t c
Nghiên cứu về đân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lenin đã phân tích
và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó: -
Xu hướng thứ nhất do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống
của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. -
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn
hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc,
xóa bỏ sự biệt lập, khéo kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. 11
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.L.Leenin phát hiện đã và đang phát
huy tác dụng trong thời đại ngày nay với nhưng biểu hện phong phú và đa dạng: -
Xét trong phạm vi các Quốc gia Xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Trong điều kiện
xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng này phát triền cùng chiều, bổ sung và hỗ trợ nhau. Sự tự
chủ, phồn vinh của mỗi dân tộc sẽ tạo nên điều kiện vật chất - tinh thần để hợp tác với các dân tộc anh em. -
Xét trên phạm vi thế giới: Sự tác động của hai xu hướng thể hện: Thời đại hiện nay là
thời đại mà các dân tộc thuộc địa đã đứng lên xóa bỏ chế độ nô dịch, áp bức, dành quyền tự
chủ quyết định vận mệnh của dân tộc mình như lưa chọn nền chính trị, con đường phát triển
dân tộc mình, quyền bình đẳng với các dân tộc khác... Đây là mục tiêu vì độc lập dân tộc và
thực chất là chống chủ nghĩa đế quốc, chống kì thị dân tộc, chống nạn phân biệt chủng tộc. 1.4.
Vâấn đềề dân t c tron g xây d ng Ch ng hĩa Xã h i
Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga, một thời mới đã xuất hiện - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là sự quá độ lên một xã hội trong đó các
quyền tự do, bình đẳng và mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa người với người được thực
hiện. Giai cấp công nhân hiện đại với sứ mệnh lịch sử của mình, cùng với nhân dân lao
động có sáng tạo ra xã hội đó.
Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và nhưng xu hướng phát triển của nó, chủ nghĩa
Mác Lê-nin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tinh trạng áp bức
giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng bị xóa bỏ.
Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền tạo
tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành
và phát triển của dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi sự cải tạo, xây dụng từng bước cộng
đồng dân tộc và các mỗi quan hệ xã hội , quan hệ dân tọc theo các nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khao học . Đồng thời dân tộc xã hội chủ nghĩa cũng chỉ có
thể ra đời từ kết quả toàn diện trên mọi linh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ kinh tế, chính trị, xã hội văn hóa - tư tưởng.
Dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hỗi có sự vaanh động mới theo hướng ngày
càng tiến bộ, văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc sẽ phát
huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả 12
cộng đồng quốc gia. Quan hệ dân tộc sẽ là biểu hiện sinh động của hai xu hướng đó trong
điều kiện của công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra nhưng điều kiện thuận lợi để xây dựng quan
hệ dân tộc bình đẳng, hợp tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Sự xích lại cho
gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng sẽ là nhân tố quan trọng cho từng dân tộc nhanh
chóng đi tới phồn vinh hạnh phúc. Mỗi dân tộc không nhưng có điều kiện khai thác tối đa
tiềm năng của dân tộc mình để phát triển mà còn nhận được sự giúp đỡ, dựa vào tiềm năng
của dân tộc anh em để phát triển nhanh chóng. Sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc trong
tiến trình xây dựng chủ nghĩa trong một quốc gia sẽ làm ho nhưng giá trị, tinh hoa của các
dân tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong phú thêm giá trị chung của quốc
gia - dân tộc. Nhưng giá trị chung đó sẽ trở thành cơ sở liên kết các dân tộc chặt chẽ, bền
vững hơn. Tóm lại dân tộc và quan hệ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội mới. Xã hội
mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự
phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự
tăng cường tính thống nhất các dân tộc trờ thành một quá trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính
cộng đồng chung, tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc. 2.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác-lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến
lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia
dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là bộ phận của những
vấn đề chung về cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa
Mác-lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đáp ứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải
quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc. Giải quyết vấn
đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng bình đẳng giữa các dân tộc trong một
quốc gia, giữa các dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự
phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc V.I.Lênin đã nêu " cường lĩnh dân tộc " với ba
nội dung cơ bản : các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết , liên 13
hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-
lênin. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong
cương lĩnh cách mạng của giagi cấp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của đảng
cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phòng giai cấp và quyết đúng
đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối
và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. -
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng : quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng
liêng của dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao
hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc,
quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong
thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển, văn hóa giữa các dân
tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền
bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ
nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế. -
Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi
dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc
mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân
tộc độc lập ( vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm
người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Khi
xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhận: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những
mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài udder can thiệp vào công việc nội
bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong “ Cương lĩnh
dân tộc” của V.I.Leenin, Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo 14
đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc. 3.
Tình hình dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 3.1.
Tình hình dân t c trền thềấ gi i
Hiện nay, người ta chưa thống kê được chính xác trên thế giới có bao nhiêu dân tộc ( tộc
người), nhưng theo một số nhà khoa học, con số đó khoảng vài ngàn. Về quốc gia dân tộc,
trên thế giới ngày nay có hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có dân số và diện tích, trình độ
phát triển kinh tế rất khác nhau. 3.2. Quan h dân t c trền thềấ gi i
Các dân tộc trên thế giới không sống biệt lập mà có quan hệ qua lại nhiều chiều với nhau.
Cùng với tiến trình lịch sử, mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng trở nên phong phú và
đa dạng. Quan hệ dân tộc chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ và các yếu tố như sau: -
Quan hệ dân tộc xuất phát và chịu ảnh hưởng của quan hệ lợi ích. -
Vấn đề dân tộc trên thế giới có quan hệ chặt chẽ với vấn đề tôn giáo. -
Vấn đề dân tộc luôn gắn rất chặt với vấn đề giai cấp, đặc biệt quan hệ lợi ích. -
Quan hệ giữa các dân tộc có liên quan đến quan hệ giữa các văn hóa. 3.3.
Nguồền gồấc xung đ t dân t c trền t hềấ gi i hi n ệ nay -
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. -
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan. -
Vấn đề dân tộc chưa được giải quyết đúng đắn. -
Sự can thiệp của các nước tư bản đế quốc vì lợi ích của chúng.
Con đường để giải quyết vấn đề dân tộc trên thế giới chỉ có thể tìm thấy ở chủ nghĩa Mác –
Leenin, được V.I.Leenin nêu ra một cách rõ ràng là: các dân tộc bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. 3.4.
Vâấn đềề Dân t c tr ong th i đ i 4.0 :
3.4.1. Cách m ng Cồng nghi p 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được đánh số 4.0 chính vì trước đây có 3 cuộc cách mạng
tương tự từng diễn ra: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ( từ 1784) xảy ra khi loài
người phát minh động cơ hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ( từ 1870) khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang
lại cuộc sống văn minh hơn, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 ( từ 1969) xuất hiện khi
con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại,
internet… là những công nghệ chúng ta có được nhờ cuộc cách mạng này. 15
Được nhen nhóm từ những năm 2000 và đến nay đã có những sự bùng nổ to lớn, cuộc cách
mạng thứ 4 là cuộc cách mạng nghiên về công nghệ số, Internet với mục đích biến thế giới
thực thành một thế giới số. Năm 2013, khái niệm Công nghệ 4.0 xuất hiện trong một báo
cáo của Đức nhằm đề cập trên chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa sản xuất mà không
còn cần đến sự tham gia của con người. Tính đến 2017, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi
khuôn khổ dự án Đức, lan rộng ra nhiều nước và trở thành một xu thế tất yếu của việc phát
triển kinh tế, xã hội…
Các lĩnh vực mà cuộc cách mạng công nghiệp tác đọng đến bao gồm: -
Lĩnh vực kỹ thuật soosL trí tuệ nhân tạo ( AI), vạn vật kết nối ( Internet of Things). -
Lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn ( Big Data). -
Lĩnh vực vật lý: In 3D, Vật liệu mới, Robot cao cấp, xe tự lái. -
Lĩnh vực công nghệ sinh học. -
Lĩnh vực năng lượng mới.
Thế giới toàn cầu hóa cũng thúc đẩy môi trường hợp tác, đồng thời là mặt trận đấu tranh
giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền và các lực lượng tiến bộ khác vì các mục tiêu hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. 3.4.2. Ch nghĩa Dân t c tron g th i đ i 4.0
Những vấn đề đặt ra cho dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại cách mạng Công nghiệp lần thứ 4:
Quan hệ đa chiều bao gồm cả những tương tác tích cực và hạn chế giữa tộc người và tộc
người trong phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm cả những tiến bộ và hạn chế của tộc
người với tộc người trên phạm vi quốc tế.
Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở thành vấn đề lớn mà các quốc gia dân tộc phải
đối mặt và bắt buột phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn phải đối mặt
và bắt buộc phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những sắc thái văn hóa và cũng là cơ sở
gắn kết tính cộng đồng trở nên mạnh mẽ hơn, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẽ lợi
ích có được. Trong khi yếu tố hiện đại phần lớn là những yếu tố ngoại lai, các giá trị văn
minh và lối sống công nghiệp. Điểm mấu chốt là giải quyết mối quan hệ đó như thế nào, giữ
lại cái gì, tiếp nhận cái gì, hòa trộn thế nào là những câu hỏi khó.
Sự đối diện giữa đời sống vật chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh ngày càng trở nên phức
tạp, đan xen và xuất hiện ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội. Toàn cầu hóa dẫn đến
sự xâm nhập, du nhập các dòng tư tưởng rõ ràng yếu tố này đang chi phối đời sống các cá 16
nhân và cộng đồng mạnh mẽ dẫn đến sự chệch dòng nếu không có sự định hướng, kiểm soát phù hợp.
Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn đề lớn đặt ra. Bản sắc
khẳng định giá trị và sự tồn lại của một quốc gia dân tộc nhưng cũng không thể giữ bản sắc
theo nghĩa tuyệt đối, khép lín mà phải có yếu tối hòa nhập. Nhưng nếu không có sự độc lập,
tự chủ thì sẽ dẫn đến sự đồng hóa, cả theo nghĩa nhân chủng học, cả về văn hóa, theo cong
đường thôn tính tự nhiên hoặc đôi khi cả sự tư nguyện.
Vấn đề phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi quốc gia dân tộc phải lựa chọn theo
con đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt
và lâu dài. Rõ ràng, trong một tương lai xa phải bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây
giờ nhưng với nhiều quốc gia, điềuhóa là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại.
Vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội, Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển
hiện đại gắn với quá trình toàn cầu hóa, phân công lại lao động, phân chia lại các giá trị.
Dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển, giữa
khối một số nước giàu nhất với khối phần lớn các nước nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy
quá trình này đi nhanh hơn so với tiến trình lịch sử.
Trong thời đại 4.0, khi các ứng dụng thông minh có khả năng xóa bỏ nhiều rào cản mang
tính chất biên giới lãnh thổ, có khả năng gắn kết nhiều con người lại với nhau không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, lý tưởng cùng chung chế độ xã hội sẽ không còn nhiều ý nghĩa, nguye
cơ bị các thế lực cường quyền toàn cầu hóa triển khai nhiều học thuyết và hành động bất
chấp chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của các nước trên thế giới. 17
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Hiến pháp và pháp luật đảm bảo quyền con người, mọi công dân Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với
nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn ở góc độ về khái niệm, “quyền con người” không loại trừ và không
thay thế được khái niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm
đặt vị trí của chương “Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
-Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí”
Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến
Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 –
Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười
lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980.
Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42,
Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20
đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều
(là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ
quan trọng cụ thể như sau:
- Điều 14 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận…, sức khỏe của cộng đồng”.
- Điều 15 ghi nhận bốn nguyên tắt hết sức cơ bản: Quyền công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Điều 16 ghi nhận một vấn đề hết sức cơ bản, bằng việc tiếp thu những giá trị của 18
nhân loại về quyền con người, đã nâng cao thêm tính công bằng công lý cho “mọi
người” (kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài và người không quốc tịch)
- Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) là sự sáng tạo, khẳng định sức mạnh của một
quốc gia độc lập ngang tầm, bình đẳng với các quốc gia khác, dân tộc khác trên thế giới
- Điều 19 ghi nhận “Mọi người có quyền sống...” đây là một điều mới, ghi nhận một
quyền mới, đã thể chế một quyền hết sức cơ bản, quyền tự nhiên của con người vừa
phù hợp công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy của
quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan.
- Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà
nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án nhưng cũng khẳng
định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội,
nhằm đảm bảo tính công bằng công lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét
xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể sử
dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể “gỡ” tội cho chính mình:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự …sự đồng ý của người được thử nghiệm”; trong điều này ghi nhận
hai quyền cơ bản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ
thể người và hiến xác.
- Điều 29 ghi nhận: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Đây là sự phát triển Điều 53 của Hiến pháp
năm 1992, tiếp tục khẳng định quyền được trưng cầu ý kiến, cách thể hiện cô đọng
hơn và có sự giới hạn về độ tuổi của người dân được trưng cầu, phải là “công dân
đủ mười tám tuổi trở lên”, việc giới hạn độ tuổi như vậy cũng là cần thiết và phù
hợi với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
- Các Điều 30, Điều 31 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 tại các Điều 74, Điều
72 và có tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 49
- Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) đã ghi nhận hết sức cơ bản về quyền sở hữu tư
nhân, việc ghi nhận này đã giúp cho việc nhìn nhận của thế giới về tính công bằng
giữa chế độ sở hữu tư nhân và công hữu
- Các Điều 41, Điều 42, Điều 43 là các điều mới ghi nhận những quyền thuộc về
lĩnh vực đời sống tinh thần mà trước đây trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện, 19
đó cũng do những điều kiện khách quan đang cho phép, đồng thời cũng buộc chúng
ta phải ghi nhận, đặc biệt cần quan tâm “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”
(Điều 41); “công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ
đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); “mọi người có quyền được sống trong
môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43), sự thừa nhận
này có thể hiểu giá trị con người cần được đề cao, đáng được đề cao và xem trọng.
Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã làm rõ hai khái
niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Có thể nói,Hiến pháp năm 2013 như
một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có
chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đối với các qui định về
quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới
cụ thể, thể hế hóa nguyên tắc “công dân được làm những gì mà pháp luật không
cấm” trong lĩnh vực kinh doanh tại Điều 33 “mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng
bổ sung cơ bản cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền công dân và giữ nguyên
phần nghĩa vụ, tuy nhiên có sự thay đổi về cách bố trí vị trí của phần nghĩa vụ, theo
đó một phần nghĩa vụ được đặt lên trước (Điều 15) liên quan trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước. Cách bố trí này
có phần giống với cách bố trí của Hiến pháp năm 1946, phần còn lại bố trí phía sau
(Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47…). Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận lại
những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận bằng cánh ghi nhận
đổi mới theo hướng vĩ mô, tinh gọn, bao quát vấn đề hơn cách ghi nhận của các bản Hiến pháp trước đó..
2. Những biểu hiện cụ thể về việc bình đẳng dân tộc và quyền con người ở Việt
Nam. (phần này thống kê):
Việt Nam là một quốc gia thống nhất với 54 dân tộc cùng chung sống. Với tỷ lệ dân số
không đồng đều (trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số
chỉ chiếm 14.3% với hơn 12.3 triệu người, thuộc 53 dân tộc); cư trú phân tán và xen kẽ
nhau… cộng đồng các dân tộc Việt Nam có nhiều đặc điểm riêng so với các dân tộc khác trên thế giới. 20
Coi trọng bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc
Hiến pháp năm 2013, bản hiến pháp đã nâng tầm chế định về quyền con người, quyền công
dân, khi đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đã khẳng định: “Nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam…cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Điều 16).
Nguyên tắc trên của Hiến pháp đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp
luật Việt Nam, được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản luật
Bên cạnh đó, các quy định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc còn được thể chế hóa bằng
chế định về Hội đồng Dân tộc, với nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công
tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trong
Chính phủ có một cơ quan cấp bộ là Uỷ ban Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc. Số
lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ dân số.
Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số
chiếm từ 15,6% đến 17,27%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân là
14,35%. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011-
2016 là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.
Dành nhiều ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội
Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, xã
hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2007
đến nay đã có 118.530 hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được vay vốn, 33.969
hộ được hỗ trợ phát triển sản xuất, 80.218 hộ được hỗ trợ mở rộng quy mô chăn nuôi, 4.343
hộ được hỗ trợ mở rộng sang ngành nghề dịch vụ. Tổng số hộ nghèo người dân tộc thiểu số
là 1.422.261 hộ, chiếm 5,97% tổng số hộ người dân tộc thiểu số trong cả nước.
Bảo đảm quyền và hỗ trợ đồng bào thiểu số gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Hiến pháp năm 2013 (Điều 5) ghi rõ: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ 21
gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Trên thực tế, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong những năm qua
được cải thiện rõ rệt, mức thụ hưởng văn hóa được nâng cao.Từ năm 2012, 100% xã đã đạt
chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, 95% trẻ em dân tộc
thiểu số được đến trường.
Quyền của dân tộc thiểu số là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm
quyền dân sự - chính trị đã được luật pháp quốc tế công nhận. Tại Việt Nam, đồng bào dân
tộc thiểu số ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để vươn lên phát triển về mọi mặt, đóng
góp nhiều hơn vào sự nghiệp chung của đất nước. Những thành tựu đó là những minh chứng
cụ thể trong bảo đảm và thúc đẩy quyền của dân tộc thiểu số nói riêng và quyền con người nói chung tại Việt Nam.
3. Sự vận dụng của Việt Nam và những vấn đề cần tiếp tục, bổ sung về thực hiện
bình đẳng dân tộc trong xã hội hiện nay:
Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là ở miền núi, gặp nhiều khó khăn
trong sản xuất và sinh hoạt, nên có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc ở
nước ta. Đảng ta khẳng định vấn đề then chốt và quan trọng nhất trong thực hiện bình đẳng
dân tộc ở Việt Nam chính là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc hiện nay.
“Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các
dân tộc… Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(15). Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương: “Để thực hiện trên thực
tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng
đó… tốt đẹp của các dân tộc”(16). Đảng ta khẳng định xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, ghi nhận đầy đủ quyền của đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp quan trọng để
thúc đẩy bình đẳng dân tộc. Bên cạnh đó, việc quan tâm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội
miền núi, vùng dân tộc thiểu số cũng là giải pháp để thực hiện bình đẳng dân tộc: “Vấn đề
xây dựng kinh tế miền núi …lao động miền Bắc”(17). Khi miền núi còn kém phát triển thì
chỉ có sự ưu tiên, quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước đối với miền núi, đồng bào dân tộc
thiểu số mới tạo ra sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc để đuổi kịp đồng bào dân tộc đa số,
thực hiện mục tiêu tất cả các dân tộc đều được ấm no, hạnh phúc. Tập trung, ưu tiên mọi
nguồn lực để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện 22
bình đẳng dân tộc, điều này tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong văn kiện Đại hội XII:
“tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung”(18).
Bình đẳng trong chính trị là tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số được tham gia
chính quyền và các cơ quan quyền lực nhà nước để họ có đại diện của mình. “Để thực hiện
đẩy đủ nguyên tắc các dân tộc bình đẳng …giác ngộ còn thấp kém quá”(19). Đảng ta cũng
chỉ ra những nội dung của bình đẳng dân tộc về mặt kinh tế được xác định là “Mở mang
kinh tế các vùng thiểu số, cải thiện đời sống cho họ, chú trọng tiếp tế những thứ cần thiết
cho đời sống hàng ngày của họ”(20). Bảo đảm những lợi ích kinh tế và nâng cao đời sống
vật chất cho đồng bào dân tộc thiểu số là nội dung cốt lõi của bình đẳng dân tộc về mặt kinh
tế. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc về mặt văn hóa là các dân tộc được tự do bảo tồn và
phát triển văn hóa truyền thống, chữ viết của mình, được hưởng các thành quả phát triển
văn hóa chung của đất nước “Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại,
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển tồn tại và được bảo đảm”(21); “Phát
triển bình dân học vụ và phát triển văn nghệ dân tộc ở các vùng thiểu số, phổ biến việc la
tinh hóa tiếng nói của các dân tộc chưa có chữ và bảo đảm việc dạy học bằng các thứ tiếng
đó trong các trường của dân tộc thiểu số (nhất là ở các lớp dưới)”(22).
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thực hiện tự trị dân tộc, Đảng ta
cũng đã chủ trương thực hiện tự trị dân tộc: “Cần quan niệm cho đúng vấn đề thành lập khu
tự trị là để làm cho các dân tộc được bình đẳng trong một quốc gia thống nhất”(23).
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bình đẳng dân tộc, trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước có nhiều chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình 134, 135, 30a... Kết cấu hạ tầng miền núi đã có
bước phát triển, đời sống của đồng bào ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Việc quan tâm quy
hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ người dân tộc thiểu số được các cấp ủy chú ý; số lượng,
chất lượng cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị các cấp ngày càng
tăng. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vùng miền núi được thực hiện thực chất hơn.
Qua đó, quyền bình đẳng về chính trị giữa các dân tộc được bảo đảm. Chúng ta cũng tạo
điều kiện và hỗ trợ vật chất, nguồn lực để giúp đồng bào bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của mình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát
triển giữa các dân tộc. 23
Thứ nhất, cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ của dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc kém phát triển hơn.
Thứ ba, phát huy vai trò của chính đồng bào dân tộc thiểu số, sự tự thân nỗ lực, cố gắng
phấn đấu; khắc phục tâm lý tự ty, ỷ lại trông chờ trong thực hiện bình đẳng dân tộc.
Thứ tư, cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước, chính quyền và cán bộ địa phương trong
thực hiện bình đẳng dân tộc.
4. Một số kết quả thực hiện việc đảm bảo các quyền của dân tộc thiểu số hiện nay. 4.1. Chính trị
Quyền tham gia bầu cử, ứng cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Số lượng đại
biểu Quốc hội người DTTS đã tăng theo các khóa: Khoá I (1946) chiếm 10,2%, Khóa XIII
chiếm 15,6%, cao hơn tỷ lệ dân số DTTS. Về đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là người
DTTS: Khoá XI (2002-2007): có 14% ở cấp tỉnh, thành phố; có 17% ở cấp huyện, có 19% ở
cấp xã, phường; Khóa XIII (2011-2016): đạt tỉ lệ 18,0% cấp tỉnh; 20,10% ở cấp huyện; 22,46% ở cấp xã
Đồng bào dân tộc với tư cách là người dân được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà
nước, quản lý xã hội thông qua đại diện và cả trực tiếp theo những quy định cụ thể, rõ ràng,
nhất là hành lang “Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Đây là kênh quan trọng để thúc đẩy quyền về
chính trị và tham gia các hoạt đô ¡ng quản lý nhà nước đối với đồng bào DTTS. 4.2. Kinh tế:
Cơ sở hạ tầng được xây dựng đáng kể đã cải thiện bộ mặt nông thôn miền núi, vùng đồng
bào dân tộc. Hiện đã có 92% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80%
số xã có thủy lợi nhỏ; 65% số xã có công trình nước sinh hoạt v.v.. là những cố gắng rất
đáng kể của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ công của đồng bào DTTS.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách giúp người dân bảo đảm và
tiếp cận nguồn lực đất đai, rừng, cải thiện các điều kiện sống như: Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg về hỗ trợ hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn về nhà ở, đất ở,
đất sản xuất và nước sinh hoạt; Quyết định số 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc
biệt khó khăn v.v.. Những chính sách này đã phần nào góp phần giải quyết tình trạng thiếu 24