lOMoARcPSD| 61409713
II.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của snghiệp cách mạng ( giải thích, chỉ ra )(ng)
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
Nhắc tới văn hóa, không thể không nhắc tới văn hóa tinh thần. Do những điều kiện tự nhiên
và lịch sử, trong trái tim mỗi con người Việt Nam dần hình thành một tinh thần yêu nước nồng
nàn, chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước, sự cần cù, chăm chỉ
sáng tạo trong lao động sản xuất, cũng như một tấm lòng nhân văn, khoan dung cởi
mở.
Văn hóa sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của hội, là mục tiêu và cũng động
lực để thúc đẩy sự phát triển của đất ớc. Văn hóa trong lịch sử góp phần hình thành tính
cách của mỗi con người, hơn hết xây dựng nên bản sắc của một n tộc. Ở thời điểm
hiện tại, văn hóa một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của một quốc gia trên trường
quốc tế. Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, phải giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, văn hóa một mặt trận, mỗi văn nghệ
sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận ấy, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam “dân tộc - khoa học - đại chúng”…
Văn hóa “vũ khí tinh thần” của cả dân tộc, được hun đúc lưu truyền qua nhiều thế hệ,
“rực lửa cháy” cùng với ý chí quật khởi, kiên cường từng giai đoạn của lịch sử. Từ “Nam
quốc sơn hà” của thời Lý, “Hịch tướng sĩ” của thời Trần, “Bình ngô đại cáo” của thời Lê, cho
tới “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ cứu nước” của Hồ
Chtịch, như một lời hiệu triệu tinh thần yêu nước của cả dân tộc, góp phần vào từng thắng
lợi của đất nưc trước bất kể giặc ngoại xâm nào. Văn hóa nói chungn hóa tinh thầni
riêng đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong tạo dựng sức mạnh của mỗi quốc gia.
Trong tưởng Hồ Chí Minh, động lực thể nhận thức các phương diện chủ yếu sau: -
Văn hóa chính trị, một trong những động lực ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.
- Văn hóa văn nghệ, góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng,
sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
- Văn hóa giáo dục, diệt giặc dốt, xóa mù chữ, với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo
dục đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách
mạng.
- Văn hóa đạo đức, nâng cao phẩm giá, hướng con người tới các giá trị chân, thiện,
mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành
hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Nhận thức
như vậy để thấy văn hóa đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển. - Văn
hóa pháp luật, bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
Văn hóa giờ đây đã trở thành một sức mạnh của dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, mọi quốc gia đều không chỉ tập trung phát triển nguồn lực chính trị kinh tế, tài nguyên
thiên thiên, an ninh quốc phòng, mà còn chú trọng đẩy mạnh cả về văn hóa. Đóng vai trò như
lOMoARcPSD| 61409713
một “sức mạnh mềm”, văn hóa cũng góp phần củng cố hình ảnh, vị thế tiếng nói của mi
quốc gia trên bản đồ thế gii.
2. Văn hóa là một mặt trận - Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng(Quý)
Văn hoá là một trong nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, ngang hàng với vấn
đề chính trị, kinh tế, xã hội, một lĩnh vực quan trọng. Văn hoá lĩnh vực hoạt động
mang tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết đến các lĩnh vực khác.
lOMoARcPSD| 61409713
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề về văn hóa. Người khẳng định văn hoá nghệ
thuật một mặt trận tức khẳng định vai trò, vị trí của văn hvăn nghệ trong sự
nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hoá cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự,
chính trị, kinh tế. Nói đến mặt trận văn hóa tức nói đến một lĩnh vực hoạt động
tính độc lập, mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính
cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa cuộc đấu tranh cách mạng
trên lĩnh vực văn hóa tưởng, không chỉ diễn ra trong chống giặc ngoại xâm, mà còn
cả ở công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, “giặc ở trong lòng”, chủ
nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười biếng, quan
liêu,...
Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống của các hoạt động văn nghệ,
báo chí, công tác lý luận – văn nghệ là chiến trên mặt trận ấy, ta đã từng nghe câu
nói nổi tiếng của Người khi nhắc tới vấn đề này: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em chiến trên mặt trận ấy.”, “Văn hóa nghệ thuật cũng một mặt
trận” đó luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, liên tục giữa cái lạc hậu cái
tiến bộ, giữa cách mạng phản cách mạng, giữa nhân dân ta kẻ thù, giữa cái mới
cái lạc hậu. Cuộc chiến đó sẽ rất quyết liệt, rất lâu i, song rất vẻ vang. Trước khi
giành được chính quyền, văn nghệ nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng,
cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới, xây dựng con người mới. Mặt trận
văn nghệ lúc này còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi thắng thực dân đã khó, thắng
nghèo nàn lạc hậu còn khó hơn nhiều.
Chính bởi vậy, những người làm văn hóa nghệ thuật cũng những nhiệm vụ
cao cả được đặt ra. Đó là “Cũng như các chiếnkhác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
nhất định, tức phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... Nói
tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước
hết”. Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn
chỉ rõ: dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham
gia cách mạng. Đó là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến văn hóa,
văn hóa kháng chiến”
3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân (Tùng)
lOMoARcPSD| 61409713
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải phục vNhân dân, lấy hạnh
phúc của Nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải đi đến ấm no,
hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hóa phải nhằm mục tiêu phục vụ và nâng cao
đời sống con người. Sự phát triển của một quốc gia dân tộc quy cho cùng chính
sự phát triển kinh tế gắn liền với sự phát triển hội, được đo bằng hiệu quả
hội, hiệu quả lớn nhất mỗi thành viên cộng đồng được cuộc sống đúng
nghĩa, tức cuộc sống có văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Không có Nhân dân thì không có Bác.
Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa của Người sự nghiệp dân. Theo
Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều phải xuất phát từ cái tâm: Vì Nhân dân
phục vụ. Những người làm công tác văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham
thật “phải trở về với cuộc sống thực tại của con người”, tức nghệ thuật phải
gần với cuộc sống. Năm 1946, trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, Người đã
kêu gọi: “Tôi thiết tha mong muốn cho nền văn hóa mới nước nhà lấy hạnh phúc
của đồng bào, của dân tộc làm sở”- Bác Hồ với văn nghệ . Lợi ích của Nhân
dân trở thành “khuôn phép” của công tác văn hóa: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu
cái chân này: Dân rất tốt… Bất kỳ việc cũng lợi ích của nhân dân
làm… Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta đều phải lấy
câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần
chúng”- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.288. Điều đó nghĩa cuộc sống
cách mạng và sự sáng tạo của quần chúng nhân dân luôn là nguồn nhựa sống, là
máu, thịt của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu văn hóa phải thấm nhuần quan điểm Nhân
dân, vì Nhân dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn dân làm văn hóa.
Người căn dặn anh chị em làm văn nghệ phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu
được tư tưởng, tình cảm, tâm lý, yêu cầu của Nhân dân, từ đó phục vụ Nhân dân
một cách tốt nhất. Người yêu cầu phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng;
“khi viết, khi nói phải làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm
theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải thỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói
cho ai nghe?”, “Nếu các bạn viết quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc,
quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, các bạn chưa thành công”.
Qua đó, Hồ CMinh đánh giá rất cao những sản phẩm văn hoá dân gian
và luôn nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những sáng
tạo tinh thần của nhân dân. Chính vậy các tác phẩm của Người luôn gần gũi
nhân dân, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhdễ làm. Điều đó giải sao các bài viết
của Người dễ đi vào lòng người.
Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hoá, do vậy
văn hóa phải phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn
lOMoARcPSD| 61409713
hóa. Với Người việc xây dựng nền văn hoá tính đại chúng gắn liền với nhân
dân luôn được quan tâm đặc biệt. Do vậy Người luôn nhắc nhở những người
làm công tác văn hoá phải quan tâm đến đối tượng phục vụ là nhân dân.
Hồ Chí
Minh luôn đề cao những giá trị tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc đã từ nghìn
năm.
Trong công cuộc đổi mới của Đảng nhân dân ta đã xác định tiếp tục xây
dựng nền văn hoá Việt Nam theo tưởng Hồ Chí Minh với những nội dung
bản là: nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hoá trong đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội. Kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội là nhân tố quyết định tạo nên sự phồn
vinh giàu cũng tiền đề để phát triển văn hoá. Thực tế nhờ giữ được nền
văn hoá dân tộc mà trải qua hàng nghìn năm bách đô hộ của phong kiến phương
Bắc nhân dân ta vẫn không bị đồng hoá.
Công cuộc đổi mới không chỉ xuất phát từ nền tảng văn hóa, hướng tới mục tiêu
văn hoá, còn một sự nghiệp văn hoá, do đó cần làm cho văn hóa thấm
sâu vào toàn bộ đời sống hội, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân
trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
chính là truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế. Tính
chất tiên tiến luôn gắn bó hữu cơ với bản sắc văn hoá dân tộc. Bảo vbản sắc văn
hoá dân tộc không nghĩa đóng cửa, biệt lập phải gắn kết với mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ của văn minh nhân
loại.
Xây dựng phát triển văn hoá sự nghiệp của toàn dân không chỉ
nghĩa toàn dân tham gia sáng tạo văn hoá còn nghĩa toàn dân được
hưởng thụ văn hoá, mọi tài sản văn hoá đều thuộc sở hữu toàn dân. Xây dựng và
phát triển văn hsự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải ý chí cách mạng
và sự kiên trì thận trọng. Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá của nước ta hiện đang
có nhiều thời cơ thuận lợi song cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ
lớn. Thực tế hiện nay, nhiều loại hình văn hoá của dân tộc đang có nguy cơ bị lai
căng, mai một mất hẳn. Hầu hết các lễ hội đều không duy trì được ntrước
kia bị biến tướng theo kiểu cải tiến nội dung hình thức. Nét đẹp của bản
sắc văn hoá dân tộc chthực sự giá trị khi không bị lai ng, khi giữ được
những nét văn hóa riêng của từng vùng miền. Học tập tư tưởng Hồ CHí Minh thì
trước hết trách nhiệm của mỗi người dân là bảo vệ, gìn giữ và góp phần xây dựng
bản sắc văn hoá của dân tộc.
III.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển nền văn hóa lên một tầm cao mới
(Nam+Bằng)
lOMoARcPSD| 61409713
I. Trước Cách mạng Tháng Tám, Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm nội dung
Trước ch mạng Tháng Tám năm 1945. Trong khoảng thời gian 29/8/1942 -
10/9/1943 bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sáng tác cuốn “Nhật Trong Tù”. phần cuối của bản thảo cuốn “Nhật trong
tù”. Người thể hiện sự quan tâm của mình đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: Năm
điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế.”
Có thể thấy, "Năm điểm lớn" này thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn
hóa dân tộc Việt Nam. Trong nền văn hóa đó, mọi giá trị hoạt động đều hướng đến lợi ích
của nhân dân; mọi người dân đều được hưởng thụ các quyền chính đáng của con người mục
tiêu làm “lợi cho quần chúng”, “phúc lợi của nhân dân trong xã hội” chính là ý nghĩa và giá trị
nhân văn mà nền văn hóa dân tộc mang lại.
II. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Quan điểm của Chủ tịch H
Chí Minh là xây dựng nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học, đại
chúng
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Để thay thế văn hóa dịch của chủ nghĩa
thực dân, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một nền văn hóa mới cách mạng. Vì vậy Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lại quan điểm của Đảng từ năm 1943 trong Đề cương văn hóa
Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn hóa mới. Đó là một nền văn hóa mới với ba tính
chất: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Xây dựng nền văn hóa mới trên một số lĩnh vực cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu n
một số yêu cầu nổi bật sau:
Một về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “một dân tộc dốt một dân tộc
yếu”
Do đó, điều quan trọng trước tiên ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải
mở ngay chiến dịch chống “giặc dốt”
Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo
dục:
- Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp
lOMoARcPSD| 61409713
- Mở mang dân trí
- Bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp
Hai là về văn hóa - văn nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm: Văn hóa,
văn nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ là chiến trên mặt trận ấy,
tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng
Điều này nhấn mạnh quan điểm của Người đối với vai trò và vị trí của văn hóa, văn nghệ
trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa cũng tầm quan trọng như mặt trận quân
sự, chính trị, kinh tế
Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ:
dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách
mạng
, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: Để xây dựng đời sống mới, thì phải xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối sống văn
minh, nếp sống mới.
Trước hết cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện
Cần, Kiệm, Liêm, Chính” vì “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa
cho đời sống mới”.
Quá trình xây dựng một nếp sống mới văn minh quá trình làm cho lối sống mới dần
dần trở thành thói quen. vậy đxây dựng lối sống mới, cần phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại”. Nhưng trong đó phải có sự kế thừa, phát triển những thuần phong mỹ tục,
đồng thời cải tạo những phong tục, tập quán cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ
III. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Quan điểm của Chủ tịch H
Chí Minh là xây dựng nền văn hóa có ni dung hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm
phải giữ gìn phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Vào năm 1942. Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta”. Người đặt ra vấn đề quan trọng hàng
đầu là: Dân ta phải biết sử ta.
Vào ngày 23-11-1945. trong những ngày đầu mới lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn di sản văn hóa trên
toàn cõi Việt Nam (bao gồm tất cả các di tích đình chùa, đền miếu, cung điện, thành quách,
lăng mộ, bia ký, đồ vật, văn bằng, sách vở,...) Theo Người, việc bảo tồn di sản văn hóa là việc
rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Vào ngày 24-11-1946, khi đến dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Văn a Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông
phương và Tây phương chung đúc lại. Tây phương hay Đông phươngcái tốt, ta học lấy
lOMoARcPSD| 61409713
để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau
dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ”
“Phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại”
Vào năm 1951. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, Chủ tịch Hồ CMinh đã chỉ những mục tiêu bản cách mạng Việt Nam cần
phải đạt được trong lĩnh vực văn hóa: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc có chọn lọc của Người.
Vào ngày 19-9-1954. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, trên đường từ Việt Bắc về
Thủ đô Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Phong Châu kính viếng các Vua Hùng, nói chuyện
với đồng bào, chiến tại đền Giếng, Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù
dựng nước và giữ nước thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Vào năm 1958. Đối với vấn đề lễ hội ở các di tích, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ý kiến:
“Nói khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái tốt, cái không tốt thì loại dần ra”. Quan
điểm này của Người cho thấy thái độ trân trọng tinh hoa thuần phong mỹ tục đối với lễ hội.
Không chỉ khôi phục những phong tục cổ còn phải nâng lên cho phù hợp nếp sống mới,
văn hóa mới.
Vào ngày 8-9-1962. Nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tiếng nói thứ của cải cùng lâu đời cùng quý báu
của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho phổ biến ngày càng rộng khắp”.
Người cũng yêu cầu các nhà văn phải chú ý trân trọng giúp đỡ những sáng tác của quần
chúng, đó những viên ngọc quý. Điều này thể hiện Người không chỉ những tưởng
sâu sắc về văn hóa mà còn rất trân trọng, gìn giữ làm trong sáng tiếng nói dân tộc để nâng
tầm văn hóa Việt Nam.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61409713
II.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng ( giải thích, chỉ ra )(Cường)
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.

Nhắc tới văn hóa, không thể không nhắc tới văn hóa tinh thần. Do những điều kiện tự nhiên
và lịch sử, trong trái tim mỗi con người Việt Nam dần hình thành một tinh thần yêu nước nồng
nàn, chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước, sự cần cù, chăm chỉ
và sáng tạo trong lao động sản xuất, cũng như một tấm lòng nhân văn, khoan dung và cởi mở.

Văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và cũng là động
lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Văn hóa trong lịch sử góp phần hình thành tính
cách của mỗi con người, và hơn hết là xây dựng nên bản sắc của một dân tộc. Ở thời điểm
hiện tại, văn hóa là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của một quốc gia trên trường
quốc tế. Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, phải giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, văn hóa là một mặt trận, mỗi văn nghệ
sĩ là một chiến sĩ trên mặt trận ấy, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam “dân tộc - khoa học - đại chúng”…

Văn hóa là “vũ khí tinh thần” của cả dân tộc, được hun đúc và lưu truyền qua nhiều thế hệ,
“rực lửa cháy” cùng với ý chí quật khởi, kiên cường ở từng giai đoạn của lịch sử. Từ “Nam
quốc sơn hà” của thời Lý, “Hịch tướng sĩ” của thời Trần, “Bình ngô đại cáo” của thời Lê, cho
tới “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ cứu nước” của Hồ
Chủ tịch, như một lời hiệu triệu tinh thần yêu nước của cả dân tộc, góp phần vào từng thắng
lợi của đất nước trước bất kể giặc ngoại xâm nào. Văn hóa nói chung và văn hóa tinh thần nói
riêng đóng một vai trò hết sức ý nghĩa trong tạo dựng sức mạnh của mỗi quốc gia.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu sau: -
Văn hóa chính trị, là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. -
Văn hóa văn nghệ, góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng,
sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. -
Văn hóa giáo dục, diệt giặc dốt, xóa mù chữ, với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo
dục đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng. -
Văn hóa đạo đức, nâng cao phẩm giá, hướng con người tới các giá trị chân, thiện,
mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành
hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không. Nhận thức
như vậy để thấy văn hóa đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển. - Văn
hóa pháp luật, bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
Văn hóa giờ đây đã trở thành một sức mạnh của dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, mọi quốc gia đều không chỉ tập trung phát triển nguồn lực chính trị kinh tế, tài nguyên
thiên thiên, an ninh quốc phòng, mà còn chú trọng đẩy mạnh cả về văn hóa. Đóng vai trò như
lOMoAR cPSD| 61409713
một “sức mạnh mềm”, văn hóa cũng góp phần củng cố hình ảnh, vị thế và tiếng nói của mỗi
quốc gia trên bản đồ thế giới.

2. Văn hóa là một mặt trận - Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng(Quý)
Văn hoá là một trong nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, ngang hàng với vấn
đề chính trị, kinh tế, xã hội, là một lĩnh vực quan trọng. Văn hoá là lĩnh vực hoạt động
mang tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết đến các lĩnh vực khác. lOMoAR cPSD| 61409713
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề về văn hóa. Người khẳng định văn hoá nghệ
thuật là một mặt trận tức là khẳng định vai trò, vị trí của văn hoá – văn nghệ trong sự
nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hoá cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự,
chính trị, kinh tế. Nói đến mặt trận văn hóa tức là nói đến một lĩnh vực hoạt động có
tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính
cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng
trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, không chỉ diễn ra trong chống giặc ngoại xâm, mà còn
cả ở công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, “giặc ở trong lòng”, chủ
nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười biếng, quan liêu,...
Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống của các hoạt động văn nghệ,
báo chí, công tác lý luận – văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, ta đã từng nghe câu
nói nổi tiếng của Người khi nhắc tới vấn đề này: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.”, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận” vì ở đó luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, liên tục giữa cái lạc hậu và cái
tiến bộ, giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa nhân dân ta và kẻ thù, giữa cái mới
và cái lạc hậu. Cuộc chiến đó sẽ rất quyết liệt, rất lâu dài, song rất vẻ vang. Trước khi
giành được chính quyền, văn nghệ có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng,
cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới, xây dựng con người mới. Mặt trận
văn nghệ lúc này còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi thắng thực dân đã khó, thắng
nghèo nàn lạc hậu còn khó hơn nhiều.
Chính bởi vậy, những người làm văn hóa nghệ thuật cũng có những nhiệm vụ
cao cả được đặt ra. Đó là “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... Nói
tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước
hết”. Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn
chỉ rõ: dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham
gia cách mạng. Đó là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến văn hóa, văn hóa kháng chiến”
3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân (Tùng) lOMoAR cPSD| 61409713
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải phục vụ Nhân dân, lấy hạnh
phúc của Nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải đi đến ấm no,
hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hóa phải nhằm mục tiêu phục vụ và nâng cao
đời sống con người. Sự phát triển của một quốc gia dân tộc quy cho cùng chính
là sự phát triển kinh tế gắn liền với sự phát triển xã hội, được đo bằng hiệu quả
xã hội, mà hiệu quả lớn nhất là mỗi thành viên cộng đồng có được cuộc sống đúng
nghĩa, tức cuộc sống có văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Không có Nhân dân thì không có Bác.
Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa của Người là sự nghiệp vì dân. Theo
Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều phải xuất phát từ cái tâm: Vì Nhân dân
phục vụ. Những người làm công tác văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham
mê thật “phải trở về với cuộc sống thực tại của con người”, tức là nghệ thuật phải
gần với cuộc sống. Năm 1946, trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, Người đã
kêu gọi: “Tôi thiết tha mong muốn cho nền văn hóa mới nước nhà lấy hạnh phúc
của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”- Bác Hồ với văn nghệ sĩ.
Lợi ích của Nhân
dân trở thành “khuôn phép” của công tác văn hóa: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu
cái chân lý này: Dân rất tốt… Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà
làm… Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta đều phải lấy
câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần
chúng”- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.288.
Điều đó có nghĩa là cuộc sống
cách mạng và sự sáng tạo của quần chúng nhân dân luôn là nguồn nhựa sống, là
máu, thịt của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu văn hóa phải thấm nhuần quan điểm Nhân
dân, vì Nhân dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn dân làm văn hóa.
Người căn dặn anh chị em làm văn nghệ phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu
được tư tưởng, tình cảm, tâm lý, yêu cầu của Nhân dân, từ đó phục vụ Nhân dân
một cách tốt nhất. Người yêu cầu phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng;
“khi viết, khi nói phải làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm
theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói
cho ai nghe?”, “Nếu các bạn viết mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc,
quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, các bạn chưa thành công”.

Qua đó, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao những sản phẩm văn hoá dân gian
và luôn nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những sáng
tạo tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy các tác phẩm của Người luôn gần gũi
nhân dân, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm. Điều đó lý giải vì sao các bài viết
của Người dễ đi vào lòng người.
Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hoá, do vậy
văn hóa phải phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn lOMoAR cPSD| 61409713
hóa. Với Người việc xây dựng nền văn hoá có tính đại chúng gắn liền với nhân
dân luôn được quan tâm đặc biệt. Do vậy Người luôn nhắc nhở những người
làm công tác văn hoá phải quan tâm đến đối tượng phục vụ là nhân dân. Hồ Chí
Minh luôn đề cao những giá trị tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc đã có từ nghìn năm.
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta đã xác định tiếp tục xây
dựng nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh với những nội dung cơ
bản là: nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hoá trong đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội. Kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội là nhân tố quyết định tạo nên sự phồn
vinh giàu có và cũng là tiền đề để phát triển văn hoá. Thực tế nhờ giữ được nền
văn hoá dân tộc mà trải qua hàng nghìn năm bị ách đô hộ của phong kiến phương
Bắc nhân dân ta vẫn không bị đồng hoá.
Công cuộc đổi mới không chỉ xuất phát từ nền tảng văn hóa, hướng tới mục tiêu
văn hoá, mà còn là một sự nghiệp văn hoá, và do đó cần làm cho văn hóa thấm
sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân
trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
chính là truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế. Tính
chất tiên tiến luôn gắn bó hữu cơ với bản sắc văn hoá dân tộc. Bảo vệ bản sắc văn
hoá dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, biệt lập mà phải gắn kết với mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ của văn minh nhân loại.
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân không chỉ có
nghĩa là toàn dân tham gia sáng tạo văn hoá mà còn có nghĩa là toàn dân được
hưởng thụ văn hoá, mọi tài sản văn hoá đều thuộc sở hữu toàn dân. Xây dựng và
phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng
và sự kiên trì thận trọng. Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá của nước ta hiện đang
có nhiều thời cơ thuận lợi song cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ
lớn. Thực tế hiện nay, nhiều loại hình văn hoá của dân tộc đang có nguy cơ bị lai
căng, mai một và mất hẳn. Hầu hết các lễ hội đều không duy trì được như trước
kia mà bị biến tướng theo kiểu cải tiến nội dung và hình thức. Nét đẹp của bản
sắc văn hoá dân tộc chỉ thực sự có giá trị khi không bị lai căng, khi giữ được
những nét văn hóa riêng của từng vùng miền. Học tập tư tưởng Hồ CHí Minh thì
trước hết trách nhiệm của mỗi người dân là bảo vệ, gìn giữ và góp phần xây dựng
bản sắc văn hoá của dân tộc.
III.Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển nền văn hóa lên một tầm cao mới (Nam+Bằng) lOMoAR cPSD| 61409713
I. Trước Cách mạng Tháng Tám, Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm nội dung
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong khoảng thời gian 29/8/1942 -
10/9/1943 bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sáng tác cuốn “Nhật Ký Trong Tù”. Ở phần cuối của bản thảo cuốn “Nhật ký trong
tù”. Người thể hiện rõ sự quan tâm của mình đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: “Năm
điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền. 5- Xây dựng kinh tế.”
Có thể thấy, "Năm điểm lớn" này thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn
hóa dân tộc Việt Nam. Trong nền văn hóa đó, mọi giá trị và hoạt động đều hướng đến lợi ích
của nhân dân; mọi người dân đều được hưởng thụ các quyền chính đáng của con người và mục
tiêu làm “lợi cho quần chúng”, “phúc lợi của nhân dân trong xã hội” chính là ý nghĩa và giá trị
nhân văn mà nền văn hóa dân tộc mang lại.
II. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là xây dựng nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Để thay thế văn hóa nô dịch của chủ nghĩa
thực dân, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một nền văn hóa mới cách mạng. Vì vậy Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lại quan điểm của Đảng từ năm 1943 trong Đề cương văn hóa
Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn hóa mới. Đó là một nền văn hóa mới với ba tính
chất: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Xây dựng nền văn hóa mới trên một số lĩnh vực cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên
một số yêu cầu nổi bật sau:
Một là về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
Do đó, điều quan trọng trước tiên ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải
mở ngay chiến dịch chống “giặc dốt”
Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục:
- Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp lOMoAR cPSD| 61409713 - Mở mang dân trí
- Bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp
Hai là về văn hóa - văn nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm: Văn hóa,
văn nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy,
tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng
Điều này nhấn mạnh quan điểm của Người đối với vai trò và vị trí của văn hóa, văn nghệ
trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế
Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ, Người luôn chỉ rõ:
dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng
●, Ba là về đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới C
hủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: Để xây dựng đời sống mới, thì phải xây dựng đạo đức mới, xây dựng lối sống văn minh, nếp sống mới.
Trước hết cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện
Cần, Kiệm, Liêm, Chính” vì “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”.
Quá trình xây dựng một nếp sống mới văn minh là quá trình làm cho lối sống mới dần
dần trở thành thói quen. Vì vậy để xây dựng lối sống mới, cần phải sửa đổi “cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại”. Nhưng trong đó phải có sự kế thừa, phát triển những thuần phong mỹ tục,
đồng thời cải tạo những phong tục, tập quán cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ
III. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm
phải giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Vào năm 1942. Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta”. Người đặt ra vấn đề quan trọng hàng
đầu là: Dân ta phải biết sử ta.
Vào ngày 23-11-1945. trong những ngày đầu mới lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn di sản văn hóa trên
toàn cõi Việt Nam (bao gồm tất cả các di tích đình chùa, đền miếu, cung điện, thành quách,
lăng mộ, bia ký, đồ vật, văn bằng, sách vở,...) Theo Người, việc bảo tồn di sản văn hóa là việc
rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam.
Vào ngày 24-11-1946, khi đến dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất ở Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông
phương và Tây phương chung đúc lại. Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy lOMoAR cPSD| 61409713
để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau
dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ” và
“Phát triển hết cái hay, cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại”
Vào năm 1951. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần
phải đạt được trong lĩnh vực văn hóa: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc có chọn lọc của Người.
Vào ngày 19-9-1954. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, trên đường từ Việt Bắc về
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Phong Châu kính viếng các Vua Hùng, nói chuyện
với đồng bào, chiến sĩ tại đền Giếng, Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù
dựng nước và giữ nước thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Vào năm 1958. Đối với vấn đề lễ hội ở các di tích, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ý kiến:
“Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt thì loại dần ra”. Quan
điểm này của Người cho thấy thái độ trân trọng tinh hoa thuần phong mỹ tục đối với lễ hội.
Không chỉ khôi phục những phong tục cổ mà còn phải nâng lên cho phù hợp nếp sống mới, văn hóa mới.
Vào ngày 8-9-1962. Nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.
Người cũng yêu cầu các nhà văn phải chú ý trân trọng và giúp đỡ những sáng tác của quần
chúng, vì đó là những viên ngọc quý. Điều này thể hiện Người không chỉ có những tư tưởng
sâu sắc về văn hóa mà còn rất trân trọng, gìn giữ và làm trong sáng tiếng nói dân tộc để nâng tầm văn hóa Việt Nam.