


















Preview text:
1.1. Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
1.2.1. Tổng quan chung về quản lỷ nhà nước
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là xác định rõ chủ thể là nhà nước,
bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính
sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng tài nguyên và môi trường
sống và phát triển bền vững.”[ 17, tr.11].
Quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức
và hướng đích của chủ thể quản lý tài nguyên và môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng
người tiến hành các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý
tài nguyên và môi trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt
được mục tiêu quản lý tài nguyên và môi trường đã đề ra, phù hợp với pháp luật và
thông lệ hiện hành
Đối tượng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là quản lý một hệ thống
bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao
quanh con người và có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và thiên nhiên. Thực chất của QLNN về TNMT là quản lý các hoạt động phát
triển, thường xuyên diễn ra trong hệ thống môi trường và có tác động tích cực hoặc tiêu
cực đến trạng thái ổn định của nó. Tuy nhiên, các hoạt động phát triển vốn không tự thân
nó tiến hành mà đều do con người thực hiện. Vì vậy, QLNN về TNMT chính là quản lý
các hành vi của các cá nhân, tập thể con người trong hoạt động sản xuất, sinh hoạt... là
điều tiết các lợi ích sao cho hài hòa trên nguyên tắc ưu tiên lợi ích của quốc gia và của toàn xã hội.
QLNN về TNMT có nhiều hình thức khác nhau như: quản lý nhà nước về môi
trường; quản lý môi trường do các tổ chức phi chính phủ đảm nhiệm; quản lý tài nguyên
và môi trường dựa trên cơ sở cộng đồng; quản lý tài nguyên và môi trường có tính tự
nguyện... fomosa (Hình) Trong đó, quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường đóng
vai trò quyết định. Việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên có thể gây lãng phí hoặc dễ xảy ra
tranh chấp do lượng tài nguyên thiên nhiên là có hạn và nhiều loại tài nguyên rất khan
hiếm nên cần phải có Nhà nước đứng ra tổ chức, quản lý các hoạt động có liên quan đến 1
tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Bên cạnh đó, việc bảo vệ môi trường không chỉ đòi
hỏi phải có sự thống nhất trong phạm vi quốc gia mà còn phải có sự thống nhất trong
phạm vi khu vực hoặc toàn cầu nên Nhà nước cần phải là đầu mối trong việc phối hợp
các chương trình hành động vì môi trường. Cùng với đó nhà nước cần phải điều chỉnh,
quản lý các ngoại ứng hoặc phải đảm nhiệm sản xuất, cung ứng hàng hóa công cộng, tức
là cũng phải điều chỉnh và quản lý loại hàng hóa công cộng đảm bảo đúng giá trị của sản
phẩm tránh trường hợp các sản phẩm công cộng không phản ánh đúng giá trị xã hội của
nó. Đồng thời, Nhà nước là chủ sở hữu tài nguyên thiên nhiên và môi trường nên việc
quản lý về tài nguyên thiên nhiên và môi trường thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Chính
vì vậy, vấn đề quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được xác định rõ chủ thể là
nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật
pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường
sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Xét ở góc độ vi mô, QLNN về TNMT là chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan tài
nguyên và môi trường cấp bộ, ngành, địa phương, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thi hành
Luật Bảo vệ môi trường và các bộ luật quản lý tài nguyên, các văn bản pháp lý có liên
quan. Xét ở góc độ kinh tế vĩ mô thì đối tượng quản lý nhà nước về môi trường là quản lý
và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phối hợp quốc tế trong bảo vệ môi
trường khu vực và toàn cầu.
QLNN về TN&MT có năm chức năng chính là:
Một là, luật định chính sách và chiến lược Bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đây là
chức năng quan trọng nhất trong năm chức năng;
Hai là, to chức, hình thành các nhóm chuyên môn hóa, các phần tử cấu thành hệ
thống môi trường để định hướng cho các mục tiêu đã đề ra;
Ba là, điều khiển, phối hợp hoạt động giữa các nhóm, các phần tử trong hệ thống môi trường;
Bốn là, kiểm tra, phát hiện kịp thời những sai sót trong quá trình hoạt động và các
cơ hội đột biến trong hệ thống môi trường;
Năm là, điều chỉnh, sửa chữa các sai sót nảy sinh trong quá trình hoạt động phát 2
triển, tận dụng cơ hội để thúc đẩy, bảo đảm cho hệ thống môi trường hoạt động phát triển bình thường.
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường tập trung vào các nhiệm vụ chỉ
đạo, tổ chức bảo vệ môi trường; phân phối nguồn lợi chung; tổ chức khai thác và sử dụng
tối ưu nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia và môi trường; chỉ đạo, tổ chức toàn
dân bảo vệ môi trường và phối hợp hành động quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể
quản lý môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển
trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý môi trường, sử dụng một cách tốt nhất
mọi tiềm năng cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với
pháp luật và thông lệ hiện hành. Quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực
quản lý xã hội, có tác động điều chỉnh các hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận
có hệ thống và các kỹ năng điều phối thông tin, đối với các vấn đề môi trường có liên
quan đến con người; xuất phát từ quan điểm định lượng, hướng tới phát triển bền vững và
sử dụng hợp lý tài nguyên.
Đối tượng của quản lý môi trường là quản lý một hệ thống bao gồm các yếu tố tự
nhiên và nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người và có ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của con người. Quản lý môi trường có nhiều
hình thức khác nhau: quản lý nhà nước về môi trường, quản lý môi trường dựa trên cộng
đồng, quản lý môi trường do các tổ chức phi chính phủ đảm nhiệm...; trong đó quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường có tính chất quyết định, bởi:
Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, trong đó có nhiều loại tài nguyên thiên
nhiên khan hiếm, nhưng việc sử dụng lại lãng phí, vì thế, nhà nước phải quản lý các hoạt động đó.
Thứ hai, một số dạng môi trường mà việc bảo vệ nó không chỉ đòi hỏi phải có sự
thống nhất hành động trong phạm vi quốc gia, mà còn phải có sự thống nhất hành động
trong phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Khi đó chỉ có Nhà nước mới có thể đại diện để
thực hiện chương trình phối hợp chung.
Ba là, sự tồn tại của ngoại ứng và hàng hóa công cộng đã làm cho giá cả của sản 3
phẩm không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó. Do đó, doanh nghiệp có thể sản xuất
quá nhiều hoặc quá ít gây tác động xấu đến tài nguyên và môi trường. Vì vậy, Nhà nước
phải điều chỉnh quản lý ngoại ứng hoặc phải đảm nhiệm sản xuất, cung cấp hàng hóa công.
Bốn là, Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu tài nguyên và môi trường, nên Nhà
nước không thể chuyển giao quyền quản lý tài nguyên và môi trường cho đối tượng quản lý nào khác.
Nhà nước sử dụng hữu hiệu nguồn nhân lực (đội ngũ công chức lĩnh vực tài
nguyên - môi trường và công chức chính quyền khác) với các phương pháp, hình thức,
giải pháp quản lý thích hợp (các công cụ quản lý, chính sách quản lý và các giải pháp
quản lý) để tạo ra và tận dụng các thời cơ, các quan hệ quốc tế cho mục tiêu phát triển
bền vững đất nước. Vì vậy, quản lý môi trường cũng là một nội dung quản lý kinh tế - xã
hội của Nhà nước. Nhà nước, với tư cách đại diện cho lợi ích chung của toàn xã hội, sử
dụng sức mạnh quyền lực và các truyền thống, tập quán của dân tộc để biến đường lối
chủ đạo của mình thành hiện thực thông qua việc hình thành một cơ cấu to chức quản lý hợp lý.
Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường là xác định rõ chủ thể là Nhà nước,
bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính
sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát
triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Hiện nay, trên thế giới, QLNN về TNMT đi theo mô hình tập trung hóa (trong đó
cấp Trung ương nắm vai trò quan trọng và kiểm soát mọi hoạt động) và phi tập trung hóa
(phân cấp hóa - trách nhiệm và vai trò quản lý được phân cấp cụ thể từ Trung ương đến
địa phương. Cấp Trung ương nắm giữ vai trò chiến lược, hoạch định các chính sách vĩ
mô. Cấp địa phương đề xuất chính sách và triển khai thực hiện những vấn đề cụ thể tại địa phương mình. 1.2.2.
Sự cần thiết quản lỷ nhà nước về tài nguyên và môi trường
Thứ nhất, Nhà nước trực tiếp cung cấp dịch vụ môi trường như là những hàng hóa
công cộng cần thiết. Phần lớn các dịch vụ môi trường khó có thể được cung cấp bởi các 4
tổ chức tư nhân hay cá nhân, do chúng đều có tính không độc chiếm và không cạnh tranh.
Vì vậy, có rất nhiều người ăn theo các dịch vụ này và họ không sẵn sàng chi trả quá thấp
cho những dịch vụ mà họ được hưởng. Khi ấy, các khoản thu sẽ không thể đủ bù chi cho
các dịch vụ và các cá nhân, tổ chức tư nhân không có động lực cung cấp các dịch vụ này.
Chính ở đây, vai trò của Nhà nước trở nên hết sức quan trọng, không thể thiếu được trong
việc cung cấp các dịch vụ môi trường, nhằm bảo đảm môi trường sống có chất lượng cho mọi người dân.
Chẳng hạn, dịch vụ môi trường đô thị góp phần làm sạch môi trường sống ở các
khu đô thị cho người dân. Tuy nhiên, các dịch vụ này lại là hàng hóa công cộng, vì các
dịch vụ này đều có tính không độc chiếm (không thể ngăn cản người dân ở các khu đô thị
sử dụng đầu ra - môi trường sạch) và không cạnh tranh (việc “tiêu dùng” môi trường sạch
của một người không làm giảm lượng “tiêu dùng” của người khác). Trong khi đó, các
dịch vụ này đòi hỏi khá nhiều chi phí về máy móc, công nghệ môi trường, cũng như chi
phí nhân công cho công tác bảo vệ môi trường đô thị. Vì vậy, việc khuyến khích các tổ
chức, cá nhân cung cấp dịch vụ môi trường đô thị rất khó khăn vì khó đảm bảo được đủ
nguồn thu và lợi nhuận phù hợp. Nhà nước có thể đứng ra cung cấp dịch vụ, thu một
phần phí và trích một phần nguồn thu khác từ huy động thuế và các dạng đóng góp khác của người dân.
Thứ hai, Nhà nước có thể vận dụng các công cụ khác nhau nhằm thực hiện công
tác quản lý tài nguyên và môi trường. Mỗi công cụ có một chức năng và phạm vi tác
động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau. Theo chức năng, các công cụ quản lý tài
nguyên và môi trường có thể phân loại thành: công cụ điều chỉnh vĩ mô; công cụ hành
động; và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là luật pháp và chính sách. Công cụ
hành động là các công cụ có tác động trực tiếp, tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các
quy định hành chính, quy định xử phạt, v.v... và công cụ kinh tế. Công cụ hành động là
vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường.
Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường,
kiểm toán môi trường, quan trắc môi trường. Các loại công cụ quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường có thể phân loại theo bản chất thành: các công cụ luật pháp, chính sách; 5
các công cụ kỹ thuật và công cụ kinh tế. Thứ Nhà ba,
nước có thể quản lý tài nguyên và môi trường một cách gián tiếp hơn
thông qua việc định rõ các quyền đối với tài sản. Khi ấy, theo định lý hiệu quả xã hội sẽ ở
mức cao nhất (không cần biết ai có các quyền đối với tài sản) nếu chi phí giao dịch không
đáng kể và số bên tham gia phân ly. Chẳng hạn, nếu người dân sống cạnh một nhà máy
có quyền tiếp cận nước và không khí sạch thì nhà máy sẽ chi trả cho những người bị ảnh
hưởng bởi không khí ô nhiễm. Ngược lại, nếu nhà máy có quyền phát thải thì người dân
có thể chi trả cho nhà máy để giảm mức độ ô nhiễm. Các công dân cũng có thể có các
hành động cần thiết khác khi các quyền này bị xâm phạm.
Như vậy, Nhà nước vẫn giữ vai trò quản lý quan trọng. Vai trò ấy được thể hiện
chủ yếu ở việc thực hiện các cơ chế, chính sách, các công cụ kinh tế trực tiếp và gián tiếp
nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường. Ớ cấp độ nền kinh tế, Nhà nước có thể
giữ vai trò kế hoạch hóa ở các mức độ khác nhau, và can thiệp vào nền kinh tế nhằm đạt
được những mục tiêu ưu tiên cần thiết (như ổn định kinh tế vĩ mô, chống diễn biến chu
kỳ trong tổng cầu, chống thất nghiệp, v.v...). Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường, tính tất yếu của quản lý nhà nước thậm chí còn rõ ràng hơn. Theo đó, Nhà
nước có thể kết hợp một cách linh hoạt việc cung ứng dịch vụ môi trường với các công cụ
kinh tế và xác lập các quyền đối với tài sản nhằm thực hiện tốt quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. 1.2.3.
Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
ì.2.3.1. Chủ thể quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
về tổ chức bộ máy quản lý môi trường, năm 1992 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường được thành lập, tiền thân của nó là Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, với chức
năng là QLNN về môi trường. Các sở Khoa học - Công nghiệp - Môi trường các địa
phương sau đó được thành lập với chức năng là QLNN về môi trường ở địa phương. Do
yêu cầu nhiệm vụ của công tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, tại kỳ họp thứ nhất,
Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, ngày 05 tháng 8 năm 2002
đã quyết định thành lập Bộ TN&MT trên cơ sở 3 đơn vị chủ yếu hiện có gồm Cục môi 6
trường; Tổng cục địa chính và Tổng cục khí tượng thuỷ văn. Cho đến nay, ở Việt Nam đã
hình thành hệ thống tổ chức Quản lý Nhà nước về Môi trường từ trung ương đến địa phương.
Theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ thống nhất QLNN về TN&MT
trong cả nước. Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ việc thực hiện chức năng
QLNN về TN&MT trong cả nước. Các Bộ và cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Bộ TN&MT thực
hiện QLNN về TN&MT trong ngành và các cơ sở thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về tài nguyên và môi trường tại địa phương. Sở TN&MT chịu trách nhiệm trước
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc QLNN về TN&MT địa phương.
Các bộ phận chức năng của ngành tài nguyên và môi trường bao gồm: bộ phận nghiên
cứu, đề xuất kế hoạch, chính sách, các quy định pháp luật dùng trong công tác QLNN về
TN&MT, bộ phận quan trắc, đánh giá thường kỳ chất lượng tài nguyên và môi trường, bộ
phận thực hiện các công tác kỹ thuật, đào tạo cán bộ tài nguyên, bộ phận nghiên cứu
giám sát việc thực hiện công tác môi trường ở các địa phương, các cấp, các ngành. 7
Sơ đồ 1.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về tài nguyên và môi trường
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2018)
I.2.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
Thứ nhất: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ tài
nguyên môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
Bao gồm ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về, ban hành hệ
thống tiêu chuẩn môi trường là chức năng quan trọng nhất, nhằm định ra mục tiêu, chính
sách, chiến lược, chương trình kế hoạch bảo vệ tài nguyên và môi trường cho quốc gia và từng địa phương.
Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch
phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường
trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp quy về môi trường do
Chính phủ; Thủ tướng và Bộ TN&MT chịu trách nhiệm xây dựng các chính sách, chiến 8
lược về quản lý tài nguyên và môi trường phù hợp với tình hình thực tế của quốc gia trên
nguyên tắc phát triển bền vững. Ban hành các văn bản dưới luật như: Pháp lệnh do Ủy
ban thường vụ Quốc hội soạn thảo thông qua, Chủ tịch nước ký sắc lệnh ban hành, Nghị
định và Quyết định do Chính phủ ban hành để hướng dẫn và cụ thể hóa luật; Quyết định
và Quy định do các Bộ và UBND các cấp ban hành; Chỉ thị và Thông tư hướng dẫn do
Bộ TN&MT và các bộ liên quan ban hành. Dựa trên các bộ luật, các mục tiêu chiến lược,
đặc điểm cơ cấu tổ chức và nguồn lực cụ thể của từng địa phương, các cơ quan chức năng
của nhà nước chịu trách nhiệm quản lý TN&MT sẽ phối hợp hành động tạo ra các công
cụ, chính sách, giải pháp trong từng giai đoạn và từng lĩnh vực quản lý.
Ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường là các giá trị được ghi nhận của Nhà
nước trong các quy định chính thức, xác định nồng độ tối đa cho phép của các chất trong
thức ăn, nước uống, không khí hoặc giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật với các
yếu tố môi trường khác (tiếng ồn, khí độc, bụi, phát xạ...).
Tiêu chuẩn môi trường được dựa trên cơ sở nghiên cứu tác động của các chất độc
hại và yếu tố an toàn đối với sinh vật, con người trong môi trường xung quanh, môi
trường lao động, được xây dựng dựa trên tổng hợp các hướng dẫn, các giá trị môi trường
có ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các cân nhắc kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị
khác do Bộ TN&MT ban hành.
Thứ hai: Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường,
kế hoạch phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường ô nhiễm môi trường, rủi ro môi trường.
Hình thành quy hoạch, chiến lược và các chương trình, dự án cụ thể về tài nguyên
và môi trường nhằm phục hồi, cải tạo môi trường bị ô nhiễm và suy thoái: Xây dựng các
khu bảo tồn và vườn quốc gia, đề xuất các chương trình xử lý ô nhiễm trọng điểm; xây
dựng các chương trình bảo vệ nguồn nước, tiến hành các dự án quy hoạch môi trường
những vùng trọng điểm...
Xây dựng cơ chế chính sách luật pháp về tài nguyên và môi trường: Hệ thống hóa
các văn bản pháp quy dưới luật và đồng bộ hóa các bộ luật liên quan tới công tác bảo vệ
môi trường; đưa các chỉ tiêu môi trường và phát triển bền vững vào kế hoạch và thống kê 9
của Nhà nước; nghiên cứu sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý TN&MT thông qua cơ chế giá, phí, thuế.
Xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về quản lý TN&MT. Xây dựng mạng lưới
điều tra, quan trắc, dự báo, báo động, kiểm tra và kiểm soát về môi trường nhằm đánh giá
đúng hiện trạng TN&MT của đất nước, phòng ngừa ô nhiễm môi trường; xây dựng cơ sở
vật chất cho việc ứng phó quốc gia với các sự cố và tai biến môi trường.
Bên cạnh đó, xây dựng các chương trình giảng dạy hợp lý về TN&MT cho các bậc
đào tạo nhằm hình thành ngành đào tạo cán bộ nghiên cứu và quản lý tài nguyên và môi
trường. Thực hiện việc giáo dục môi trường, phổ cập kiến thức về TN&MT và tuyên
truyền hoạt động bảo vệ môi trường nhằm trang bị cho người dân những hiểu biết tối
thiểu về tài nguyên và môi trường.
Chính sách quản lý TN&MT là tổng thể các quan điểm, các biện pháp, các thủ
thuật nhằm thực hiện các mục tiêu bảo vệ TN&MT và phát triển bền vững quốc gia, của
ngành kinh tế hoặc một công ty. Chính sách môi trường Việt Nam được trình bày trong
kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền đảm bảo phát triển bền vững. Cụ
thể hóa chính sách trên cơ sở các nguồn lực nhất định để đạt các mục tiêu do chính sách
về tài nguyên và môi trường đặt ra là nhiệm vụ chiến lược môi trường.
Quy hoạch TN&MT được coi là công cụ có tính chiến lược trong phát triển, bảo
vệ môi trường; được coi là phương pháp tích hợp để tiến tới tương lai theo một phương
hướng, mục tiêu định sẵn. Quy hoạch về quản lý TN&MT là cụ thể hóa các chiến lược,
chính sách về TN&MT và là cơ sở để xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động
bảo vệ TN&MT. Quy hoạch TN&MT được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau theo
phạm vi, lãnh thổ quốc gia, khu vực, tỉnh/ thành phố, cộng đồng nhỏ, dự án.
Thứ ba: Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện
trạng tài nguyên và môi trường.
Thiết lập và sử dụng các công cụ quản lý TN&MT để thực hiện các mục tiêu cũng
như triển khai thực hiện các chính sách và chiến lược TN&MT. Nhằm hình thành các
nhóm chuyên môn hóa, các phần tử cấu thành hệ thống TN&MT để góp phần vào hệ
thống định hướng cho các mục tiêu mong muốn trước mắt và lâu dài và phối hợp hoạt 10
động chung của nhóm, của phân hệ trong hoạt động. Bao gồm:
Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng
TN&MT, dự báo diễn biến môi trường nhằm tạo cơ sở dữ liệu về chất lượng các thành
phần môi trường phục vụ cho quy hoạch và phát triển KT- XH. Đồng thời tạo cơ sở dữ
liệu cho việc kiểm soát chất lượng các thành phần môi trường và ô nhiễm môi trường
phát sinh dưới tác động của các quá trình tự nhiên và nhân tạo. Quan trắc môi trường là
tập hợp các biện pháp khoa học, công nghệ, tổ chức đảm bảo kiểm soát một cách liên tục
và hệ thống trạng thái và khuynh hướng phát triển của các quá trình tự nhiên và nhân tạo
đối với nhiều quy mô và nhiều loại đối tượng, chịu tác động của các hoạt động của con
người. Bên cạnh việc theo dõi hiện trạng và tác động TN&MT, quan trắc TN&MT còn là
biện pháp tổng hợp để kiểm soát các nguồn phát sinh chất ô nhiễm của các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Số liệu thường được sử dụng trong đánh giá hiện trạng môi trường,
đánh giá tác động môi trường.
Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở
sản xuất kinh doanh: Đánh giá tác động môi trường là xác định và dự báo các tác động
của hành động phát triển (KT-XH, chính sách, pháp luật) đến môi trường khu vực, một
vùng hoặc toàn quốc. Hành động phát triển có thể tạo ra tác động tích cực, tiêu cực đến
TN&MT và sự phát triển nói chung nhằm đưa ra các giải pháp ngăn ngừa, hạn chế các
tác động tiêu cực đến TN&MT. Đồng thời việc thẩm định các báo cáo đánh giá tác động
môi trường nhằm góp thêm tư liệu khoa học cần thiết cho việc ra quyết định thực hiện
một hành động phát triển. Sau khi nhận các báo cáo đánh giá tác động môi trường, tiến
hành thành lập các hội đồng thẩm định các báo cáo với sự tham gia của các bên liên quan
và chính quyền địa phương. Tạo sự thống nhất chặt chẽ, minh bạch và công khai trong quá trình thẩm định.
Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý về TN&MT: Tổ chức các lớp tập huấn cho
các chuyên viên hoạt động trong lĩnh vực TN&MT, đào tạo bồi dưỡng về khoa học
TN&MT nhằm nâng cao năng lực quản lý TN&MT của Nhà nước ở các cấp. Mục đích
của việc đào tạo nguồn nhân lực nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào giữ gìn,
bảo tồn và sử dụng TN&MT theo cách bền vững. Đồng thời tăng cường kỹ năng sử dụng 11
các công nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế, tránh những thảm họa môi trường, cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, tận dụng các cơ hội và ra các quyết định khôn khéo trong việc sử dụng TN&MT.
Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường: triển khai cấp giấy xác
nhận kế hoạch bảo vệ môi trường ở các cấp; theo dõi quản lý việc cấp và thẩm định đánh
giá tác động TN&MT; sau khi cấp phép tiến hành thanh tra, giám sát về việc thực hiện
các nhiệm vụ bảo vệ TN&MT nếu có vi phạm thì xử lý hoặc thu hồi giấy phép. Việc cấp
phép và thu hồi giấy phép do Sở TN&MT chịu trách nhiệm.
Bên cạnh đó, để thực hiện chức năng tổ chức thực hiện trong việc QLNN về
TN&MT cần sử dụng các công cụ như Luật pháp chính sách, công cụ kinh tế và công cụ kỹ thuật.
Thứ tư: Giảm sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến bảo vệ môi trường; xử
lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về TN&MT, giải quyết các
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về TN&MT, xử lý vi phạm pháp luật về TN&MT. Thanh tra
bảo vệ TN&MT là thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường được Chính phủ quy định
cụ thể về tổ chức và hoạt động, có đồng phục và phù hiệu riêng, có thiết bị và phương
tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ.
Mục đích kiểm tra là xem xét các văn bản pháp quy phạm pháp luật do các cơ
quan hành chính ban hành có phù hợp với Hiến pháp, pháp Luật Bảo vệ môi trường và
những yêu cầu của thực tiễn QLNN đối với TN&MT hay không; hiệu lực và hiệu quả
thực tế của các văn bản quy phạm pháp luật đó đạt được ở mức độ nào và chúng có
những hạn chế, bất cập gì. Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ TN&MT có được thực hiện thường xuyên, liên tục hay không.
Việc áp dụng các biện pháp tổ chức, kỹ thuật để huy động sức người sức của nhằm thực
hiện pháp luật bảo vệ môi trường có thuận lợi, khó khăn gì và hiệu quả như thế nào, công
tác giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân đối với sự tôn
trọng và thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường như thế nào. 12
Hoạt động kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước đối với việc thực hiện pháp
luật về TN&MT có một số đặc điểm cơ bản sau:
Do cơ quan hành chính nhà nước tiến hành, bao gồm: Chính phủ, Bộ TN&MT, các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp (cụ thể là cơ quan
chuyên môn thuộc UBND các cấp về quản lý TN&MT)...
Hoạt động kiểm tra mang tính quyền lực nhà nước: Không cần sự đồng ý của bên
bị kiểm tra (có thể kiểm tra định kỳ, hoặc đột xuất); bên bị kiểm tra không được cản trở
hay từ chối các yêu cầu của bên kiểm tra đưa ra; bên kiểm tra có quyền áp dụng các chế
tài do pháp luật quy định nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện pháp luật bảo vệ
TN&MT một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hoạt động kiểm tra luôn có đối tượng, phạm vi, mục đích rõ ràng cụ thể. Việc
kiểm tra luôn được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Phạm vi kiểm
tra là toàn bộ hoạt động tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường
và bảo vệ môi trường [19, tr.19 - tr.32]
Thứ năm: Đào tạo cán bộ khoa học và quản lý tài nguyên và môi trường, giáo
dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Nhà nước, các cấp chính quyền ở địa phương muốn quản lý tốt TN&MT trước hết
phải có bộ máy thống nhất, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác TN&MT.
Muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cán
bộ cả về phẩm chất lẫn chuyên môn nghiệp vụ.
Bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết về đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước, về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua, tư tưởng Hồ Chí Minh về
TN&MT. Trên cơ sở đó nâng cao bản lĩnh và phẩm chất đạo đức, trung thực khách quan để làm tốt công tác.
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán bộ làm công tác TN&MT
ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ ở cơ sở không thông thạo về chuyên môn nghiệp vụ
thì không thể tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền về công tác quản lý TN&MT,
xử lý sự cố kịp thời ... 13
Đối với công chức làm công tác TN&MT cũng phải tiêu chuẩn hoá, được đào tạo,
bồi dưỡng thường xuyên, phải có kiến thức xã hội, am hiểu lịch sử và có sự nhạy bén
trong việc tiếp cận thông tin mới, nắm bắt chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà
nước thì mới đáp ứng được yêu cầu về tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp
về các chủ trương giải pháp trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách mới về TN&MT.
Nhà nước muốn quản lý tốt công tác TN&MT trước hết phải có đội ngũ cán bộ có
đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác này. Do vậy, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là cấp
thiết nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà luật mới ra đời, thay đổi trong khi lực lượng
công chức không đáp ứng kịp.
Như vậy, theo quy định tại các luật về TN&MT, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát; tổ chức nhà nước có trách nhiệm tổ chức
và phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giám sát; cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm
thường xuyên trong công tác tuyên truyền cho thi đua và các gương điển hình trong công tác bảo vệ TN&MT.
Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị khi thực hiện công
tác QLNN về TN&MT phải tiến hành. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp tổ chức thực
hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau.
Trong công tác QLNN về TN&MT, việc tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ
chức thực hiện bảo vệ TN&MT là một khâu rất quan trọng. Vì thế, trong hệ thống văn
bản pháp luật về TN&MT cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà nước cần phải quản lý.
Đối với cấp Trung ương, nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, pho biến, hướng dẫn
để các ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung của các quy định
pháp luật đồng thời có sự hướng dẫn các ngành, địa phương tổ chức thực hiện các quy
định pháp luật. Trên cơ sở đó, các ngành, các cấp trong cả nước thống nhất nhận thức và hành động.
Đối với địa phương gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, sau khi được
quán triệt và hướng dẫn tổ chức thực hiện, chính quyền cấp tỉnh vận dụng vào đặc điểm 14
cụ thể của địa phương từ đó có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và tổ chức
thực hiện các quy định pháp luật đối với cấp huyện và các ban ngành, đoàn thể ở địa phương.
Các cấp, các ngành thực hiện nhiệm vụ này sẽ tạo ra được sự thống nhất nhận
thức, hành động trong cả nước từ Trung ương đến cơ sở đối với các quy định pháp luật về TN&MT.
Nội dung hướng dẫn và tổ chức thực hiện có ý nghĩa rất đặc biệt, vì có tổ chức
thực hiện luật thì các văn bản quy định của pháp luật mới trở thành hiện thực trong cuộc
sống, nhà nước mới thực sự quản lý được công tác TN&MT. Từ đó, công tác QLNN về
TN&MT tạo sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
Thứ sáu:Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường bao gồm: Việc nghiên cứu, phê chuẩn
các công ước Quốc tế về môi trường; tham gia các chương trình nghiên cứu quốc tế có
liên quan chặt chẽ với sự phát triển của đất nước; tranh thủ viện trợ kinh tế và kinh
nghiệm của nước ngoài trong đào tạo và nâng cao năng lực nghiên cứu, quản lý TN&MT.
Tăng cường và mở rộng các hoạt động hợp tác song phương, đa phương với các
nước trong khu vực và trên thế giới liên quan đến các lĩnh vực TN&MT, đặc biệt là các
hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên
nước và quản lý đất đai. Thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế thuộc lĩnh vực TN&MT.
Nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng và ban hành
các cơ chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch của ngành; hoàn thiện hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn và áp dụng hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật trong công tác điều tra cơ
bản, nâng cao chất lượng quan trắc và dự báo của ngành TN&MT. Quan tâm đầu tư, tăng
cường tiềm lực khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng công tác điều tra cơ bản
trong các lĩnh vực địa chất, khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường, khí tượng, thủy
văn, đo đạc và bản đồ, biển và hải đảo. 15
Kết quả hoạt động khoa học và công nghệ đã giúp hình thành hệ thống lý luận
khoa học phục vụ cho việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, góp
phần hoàn chỉnh hệ thống chính sách về TN&MT; làm luận cứ cho công tác điều tra,
đánh giá hiện trạng và tiềm năng tài nguyên thiên nhiên; hình thành hệ thống cơ sở dữ
liệu về kết quả nghiên cứu khoa học và sản phẩm khoa học. Trong thời gian tới, cần tiếp
tục nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ để đáp ứng
yêu cầu của công tác QLNN, công tác điều tra cơ bản và dự báo về TN&MT. 1.2.4.
Công cụ quản lỷ nhà nước về tài nguyên và môi trường
Yếu tố thể chế: Hệ thống thể chế hành chính nhà nước là toàn bộ các quy định, quy
tắc do nhà nước ban hành để điều chỉnh hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước, tạo nên khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước và các cán bộ, công chức có thẩm quyền. Xuất pháp từ khái niệm trên cho thấy
thể chế quy định và ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
bao gồm cả lĩnh vực TN&MT.
Thể chế hành chính Nhà nước được cấu thành bởi hệ thống các quy định xác định
mối quan hệ giữa Nhà nước với các đối tượng trong xã hội, quy định quản lý nội bộ, hệ
thống thủ tục hành chính và tài phán hành chính. Tất cả những quy định này được cụ thể
hóa bởi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước điều chỉnh toàn bộ các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, hệ thống các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Trong lĩnh vực TN&MT, thể chế hành chính được cụ thể hóa là hệ thống các văn
bản quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình giải quyết các
thủ tục hành chính, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Chính sách về đất đai có
ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của thị trường bất động sản, đến tâm lý của người sử
dụng đất khi thực hiện các giao dịch và thủ tục hành chính. Do đó, nếu có hệ thống thể
chế khoa học, phù hợp, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai thì kết quả giải
quyết các thủ tục hành chính sẽ nhanh gọn, hiệu quả. Mặt khác, hệ thống chính sách phù
hợp sẽ tạo động lực cho đội ngũ công chức khi thực thi tốt nhiệm vụ được giao, từ đó 16
phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho bộ máy hành chính. Hơn nữa, thể chế hành chính tốt
còn góp phần khắc phục bệnh quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và các tiêu cực khác liên
quan đến quản lý và sử dụng đất đai.
Ngược lại, nếu hệ thống thể chế còn nhiều bất cập, hạn chế, chậm được sửa đổi, bo
sung, không phù hợp với thực trạng và yêu cầu của quản lý thì sẽ kìm hãm công tác cải
cách hành chính. Như vậy, thể chế hành chính là một nhân tố quan trọng quyết định đến
sự thành công của cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực TN&MT nói riêng.
Yếu tố con người: Một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến thành công
trong QLNN về TN&MT đó là yếu tố con người. Con người là trung tâm của mọi tổ
chức, mọi hoạt động quản lý nhà nước từ lập kế hoạch, thực thi, lãnh đạo điều hành và
kiểm soát đều do con người thực hiện. Hơn nữa, tất cả những hoạt động đó được thực
hiện để phục vụ cho nhu cầu của chính con người. Do đó, yếu tố con người tác động đến
QLNN về TN&MT. Bao gồm người thực thi là đội ngũ cán bộ, công chức và người được
phục vụ là công dân, cả hai đối tượng này đều ảnh hưởng đến thành công của QLNN về TN&MT.
- Đối với cán bộ, công chức: Đội ngũ cán bộ, công chức là người trực tiếp xây
dựng quy trình, tiếp nhận, giải quyết và đề xuất sửa đổi các quy định của pháp luật cho
phù hợp với điều kiện thực tế. Do đó, cần có một hệ thống thể chế tốt, phù hợp và hơn thế
cần có một đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, có trách nhiệm, có ý thức phục vụ
nhân dân, có đạo đức không gây sách nhiễu, phiền hà, từ đó hạn chế tình trạng tham
nhũng, tiêu cực liên quan đến quản lý đất đai.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ về quản lý tài
nguyên và môi trường: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo là đặc biệt quan trọng trong QLNN về
TN&MT. Để đạt được thành công trong công tác QLNN về TN&MT cần sự có quan tâm
chỉ đạo của các cấp Đảng ủy và chính quyền để tạo được sự tập trung, thống nhất về lý
luận, chiến lược, biện pháp thực hiện. Công tác chỉ đạo được quan tâm, thực hiện quyết
liệt, có trọng tâm, trọng điểm thì việc tổ chức thực hiện sẽ đồng bộ, hiệu quả, không để
tình trạng làm cho có hay làm theo phong trào. Hơn nữa, công tác lãnh đạo còn được thể
hiện qua việc kiểm soát, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của công chức. 17
Tổ chức bộ máy: QLNN về TN&MT do các công chức thuộc một hoặc nhiều
phòng chuyên môn tham gia giải quyết nên việc QLNN về TN&MT có đạt hiệu quả hay
không phụ thuộc vào tổ chức cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước. Nếu bộ máy tinh gọn,
rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, bố trí công chức theo năng lực, vị trí việc
làm, có quy chế phối hợp giữa các phòng ban, bộ phận thì công tác cải cách sẽ đạt hiệu
quả cao. Ngược lại, sẽ không hiệu quả nếu bộ máy thực hiện yếu kém về năng lực, trách
nhiệm, không linh hoạt trong phối hợp giữa các công chức và phòng ban liên quan. Do
đó, để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về TN&MT thì yêu cầu cấp thiết đặt
ra là phải cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là một nhân tố then chốt
quyết định đến sự thành công của QLNN. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước một cách
khoa học sẽ nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính, đáp ứng được yêu cầu của
người dân, loại bỏ những khâu, những việc rườm rà, không cần thiết. Hơn nữa, đổi mới,
hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng khả
năng thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi của môi trường trong nước và quốc tế, tạo
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong nước.
Công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, làm thay đổi cơ bản cách quản lý và làm việc của con người. Trong
đó công nghệ thông tin góp phần tự động hóa, đơn giản hóa các quy trình, công khai,
minh bạch thủ tục hành chính, giúp cho lãnh đạo dễ dàng quản lý và kiểm soát.
Công nghệ thông tin được ứng dụng trong lĩnh vực TN&MT rất cần thiết cho việc
thành lập, số hóa bản đồ, hồ sơ, từ đó tạo hệ thống dữ liệu thống nhất và là cơ sở để giải
quyết các thủ tục hành chính về đất đai. Ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực
TN&MT đã tạo ra bước đột phá góp phần giải quyết nhanh gọn, giảm phiền hà, một số
thủ tục có thể được thực hiện giao dịch qua mạng. Mặt khác, công nghệ thông tin giúp
người dân chủ động hơn trong việc tìm hiểu quy trình, trình tự, thành phần hồ sơ, tra cứu
kết quả dễ dàng, nhanh chóng, tra cứu tình trạng hồ sơ qua mạng mà không phải trực tiếp
đến Bộ phận tiếp nhận để tra cứu. 18
Như vậy, công nghệ thông tin có vai trò quan trọng quyết định đến thành công của
QLNN về TN&MT đã thay đổi cách thức quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu, thiết lập mối
quan hệ, phối hợp rõ ràng giữa các bộ phận thông qua phần mềm quản lý, từ đó xây dựng
nền hành chính theo hướng trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển kinh tế - xã hội. 19