





Preview text:
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ THỜI PHONG KIẾN
I. Giới thiệu về quyền lực chính trị trong thời kỳ phong kiến
Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai cấp, của các lực lượng
xã hội để thể hiện sự thống trị hay lợi ích cơ bản của mình bằng nhà nước, thông qua nhà
nước; là năng lực tổ chức và thực thi các giải pháp phân bố giá trị xã hội có lợi cho giai
cấp mình trong tương quan nhất định với lợi ích của các giai cấp và các lực lượng xã hội
khác. Trong thời kỳ phong kiến, quyền lực chính trị thường tập trung vào tay các vua
chúa, lãnh chúa và các tầng lớp quý tộc. Họ sử dụng quyền lực này để quản lý tài sản, đất
đai, quân đội và nhân dân, đồng thời thiết lập các quy định và luật lệ để duy trì trật tự xã
hội cũng như bảo vệ và mở rộng quyền lợi của mình.
Quyền lực chính trị trong thời kỳ phong kiến được hiểu là khả năng kiểm soát ,
quản lý và điều hành các hoạt động của xã hội thông qua hệ thống chính quyền phong
kiến. Trong thời kỳ này, quyền lực chính trị tập trung trong tay của giai cấp địa chủ, quý
tộc, phong kiến. Chế độ quân chủ chuyên chế được thành lập với việc quyền lực tập trung
trong tay một vị Vua - nhân danh trời (Thiên tử). Ở các nước phương Tây “tính tập quyền,
chuyên chế không mạnh như ở các nước phương Đông”. Lúc này quyền lực chính trị trở
thành sức mạnh đàn áp giai cấp nông dân, tiểu thủ công nghiệp và thương nhân.
II. Nguồn gốc và cơ sở của quyền lực chính trị Yếu tố kinh tế:
- "Nền kinh tế nông nghiệp là cơ sở chính cho sự hình thành và phát triển của chế độ
phong kiến. Vua và giai cấp địa chủ nắm giữ phần lớn ruộng đất, từ đó chi phối mọi
hoạt động kinh tế và chính trị."
- Ví dụ: Chế độ "lộc điền", "quân điền" thời Lý, Trần. Yếu tố xã hội:
- "Xã hội phân chia thành các giai cấp rõ rệt: vua, quan lại, địa chủ, nông dân, thợ thủ
công, thương nhân. Trong đó, vua và giai cấp thống trị nắm giữ mọi quyền lực."
- Ví dụ: Sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội phong kiến, thể hiện qua trang phục, chức tước, địa vị.
Yếu tố văn hóa và tư tưởng:
- "Hệ tư tưởng Nho giáo với các nguyên tắc "trung quân ái quốc", "tam cương ngũ
thường" đã củng cố địa vị của vua và trật tự xã hội phong kiến."
- Ví dụ: Việc xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám để đề cao Nho học.
Cơ sở của quyền lực tối cao của vua:
- Thiên mệnh: "Vua được coi là "thiên tử", người thay trời cai trị dân gian, có quyền
lực tối cao và tuyệt đối."
- Tính thế tập: "Quyền lực được truyền từ đời này sang đời khác trong dòng họ vua,
đảm bảo tính ổn định của triều đình."
- Tôn giáo, tín ngưỡng: "Vua là người đứng đầu các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng, có
vai trò kết nối giữa con người và thần linh."
- Ví dụ: Lễ tế Nam Giao, thể hiện quyền lực tối thượng của nhà vua.
III. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống quan lại
1. Cơ cấu tổ chức
Nhà nước phong kiến phát triển qua 2 giai đoạn chủ yếu là nhà nước quân chủ
phân quyền cát cứ và nhà nước quân chủ trung ương tập quyền (ở một số nước châu Âu
còn có nhà nước phân chủ đại diện đẳng cấp ở thời kỳ quá độ, chuyển từ nhà nước phân
quyền cát cứ lên nhà nước trung ương tập quyền, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn),
nhưng nhìn chung bộ máy nhà nước của cả 2 giai đoạn được tổ chức theo mô hình giống
nhau. Cụ thể, đứng đầu bộ máy nhà nước là vua, dưới vua là triều đình gồm các quan đại
thần thân tín vua, nắm giữ những trọng trách chính trong bộ máy nhà nước. Tiếp đến là hệ
thống các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương, quân đội, cảnh sát, tòa án,
nhà tù và các cơ quan khác. Tuy vậy, bộ máy nhà nước ở mỗi giai đoạn cũng có những
biểu hiện khác nhau, ở thời kỳ phân quyền cát cứ, bộ máy nhà nước trung ương yếu vì vua
đã phân chia quốc gia thành các lãnh địa trên đó hình thành những quốc gia nhỏ dưới sự
quản lý của các lãnh chúa. Dưới lãnh chúa là bộ máy quan lại đầy quyền lực và các cơ
quan cưỡng chế rất mạnh. Sang thời kỳ nhà nước trung ương tập quyền, tệ phân quyền cát
cứ được khắc phục, quyền lực nhà nước trung ương đã được tăng cường. Bên cạnh nhà
vua là cả một bộ máy quan lại khổng lồ từ trung ương đến địa phương mang nặng tính
chất quan liêu, độc tài chuyên chế, được phân hàng theo chế độ đẳng cấp, đặc quyền đặc lợi.
VD: Sơ đồ bộ máy nhà nước dưới thời Tần - Hán
2. Hệ thống quan lại
Để chọn nhân tài, nhà nước phong kiến đã áp dụng nhiều hình thức tuyển dụng
như: nhà vua đích thân đi tìm người hiền tài về cộng tác để trị nước (tiến cử); bằng con
đường tiến cử hoặc cầu hiền; bằng con đường khoa cử - đây là hình thức phổ biến nhất.
Ví dụ: Các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình để tuyển chọn nhân tài.
Thời phong kiến dựa vào yếu tố quyền lực, các chức vụ nhà nước phân thành hai
loại: quan lại và nha lại. Quan chỉ huy, điều hành như quan tổng đốc, quan tri phủ, tri
huyện; nha lại là người thừa hành, phục vụ cho các quan lại tại các nha môn, mà ngày nay
gọi là "cán bộ", "nhân viên", hay công chức lãnh đạo, quản lý, công chức thừa hành.
Phẩm hàm, chức tước và quyền hạn của quan lại được quy định chặt chẽ, thể hiện
sự phân cấp trong bộ máy nhà nước.
Ví dụ: quan chế “Cửu phẩm Quan giai” thời Nguyễn
IV. Hình thức nhà nước phong kiến
Hình thức chính thể phổ biến trong nhà nước phong kiến là quân chủ, lịch sử tổ
chức quyền lực nhà nước phong kiến cho thấy sự tồn tại và phát triển của chính thể quân
chủ với những biểu hiện cụ thể: quân chủ phân quyền cát cứ, quân chủ trung ương tập
quyền, quân chủ đại diện đẳng cấp và cộng hòa phong kiến.
Trong hình thức nhà nước quân chủ phân quyền cát cứ thì quyền lực nhà nước bị
phân tán, vua hoặc quốc vương không có toàn quyền, chỉ là “đấng thiêng liêng”, quyền lực
thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến.
Trong hình thức quân chủ đại diện đẳng cấp, quyền lực nhà nước trung ương được
tăng cường trên cơ sở của sự ủng hộ của các lãnh chúa phong kiến vừa và nhỏ, cũng như
tầng lớp dân cư thành thị. Ở hình thức này, bên cạnh vua hoặc quốc vương còn có cơ quan
đại diện đẳng cấp, ví dụ như: Nghị viện ở Anh, Hội nghị quốc dân ở Nga, Hội nghị tam
cấp ở Pháp. Cơ quan đại diện này có thẩm quyền hạn chế trong lĩnh vực thuế và tài chính.
Sự hiện diện của cơ quan này cũng làm hạn chế quyền lực của vua, vì thế khi quyền lực
của vua được tăng cường mạnh lên thì vua thường không tham dự hội nghị của cơ quan
đại diện đẳng cấp nữa và tìm cách loại bỏ nó.
Chính thể quân chủ trung ương tập quyền có đặc điểm là quyền lực nhà nước tập
trung vào tay vua hoặc quốc vương. Vua nắm toàn quyền nhưng trong hoạt động điều
hành vua dựa vào triều đình và bộ máy quan lại giúp việc từ trung ương xuống đến địa
phương. Toàn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương tạo thành một thể thống nhất.
Hình thức cộng hòa phong kiến tồn tại ở một số thành phố châu Âu sau khi giành
được sự tự quản bằng các con đường khác nhau như: bỏ tiền ra mua sự tự trị từ nhà nước
phong kiến, đấu tranh vũ trang... Quyền lực ở các thành phố đó tập trung trong tay giới
quý tộc thành thị tập hợp trong Hội đồng thành phố được lập trên nguyên tắc bầu ra, chịu
trách nhiệm điều hành các công việc và quan hệ của thành phố. Chính ở các thành phố này
đã sớm hình thành các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
V. Bản chất và chức năng của nhà nước phong kiến Bản chất
Nhà nước phong kiến ra đời ở cuối chế độ chiếm hữu nô lệ, khi quan hệ sản xuất chiếm
hữu nô lệ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp
chủ nô và nô lệ ngày càng gay gắt. Các cuộc khởi nghĩa của nô lệ diễn ra liên tiếp làm
lung lay chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế xã hội - phong kiến đã được hình
thành và thay thế hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ. Do điều kiện lịch sử của mỡi nước
khác nhau nên sự phát triển của nhà nước phong kiến ở các khu vực cũng khác biệt. Chẳng
hạn, ở châu Âu, nhà nước phong kiến hình thành trên sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô
lệ. Nhưng ở châu Á như Mông Cổ, Triều Tiên... thì nhà nước phong kiến là nhà nước đầu
tiên của các dân tộc này.
Xét về mặt bản chất nhà nước, ta chia theo 2 thuộc tính: tính giai cấp và tính xã hội 1. Tính giai cấp
Trong chế độ phong kiến có 2 giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân (ở phương
Tây thường gọi là lãnh chúa và nông nô), ngoài ra còn có tầng lớp là thợ thủ công, tầng
lớp thị dân. Ruộng đất nằm trong tay địa chủ và lãnh chúa. Phương thức bóc lột đặc trưng
là thu địa tô của nông dân do người nông dân không có tư liệu sản xuất. Chế độ kinh tế
của nhà nước phong kiến được xây dựng trên cơ sở chiếm hữu về đất đai của giai cấp địa
chủ phong kiến. Tuy nhiên khác với nhà nước chủ nô, ở nhà nước phong kiến giai cấp địa
chủ phong kiến không có quyền sở hữu đối với nông dân chỉ có quyền sở hữu tư liệu sản
xuất là đất đai mà thôi. Thân phận và địa vị của người nông dân được nâng cao hơn so với
người nô lệ khi họ có một số quyền riêng tư như kết hôn....Nhà nước phong kiến ở phương
Đông và phương Tây có sự khác biệt đáng kể.
Phương Tây, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời chủ nô. Trong
thời phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất phát triển lên mức cao hơn gọi là các lãnh địa.
Giai đoạn đầu của chế độ phong kiến phương Tây biểu hiện theo hình thức phân quyền cát
cứ, tức là quyền lực của các lãnh chúa rất lớn, các chủ lãnh chúa này mong muốn đòi độc
lập sở hữu ruộng đất và sở hữu quân đội riêng. Giai đoạn sau, nhà nước phong kiến
phương Tây mới chuyển sang hình thức quân chủ trung ương tập quyền, quyền lực tối cao
thống nhất tập trung vào tay vua hay là hoàng đế. Trong thời kỳ phong kiến, người nông
dân bị mất ruộng và phải lệ thuộc vào địa chủ phong kiến. Địa chủ phong kiến là người có
đất nhưng không trực tiếp canh tác mà cho nông dân thuê để cày cấy và thu về địa tô. Mức
địa tô nhìn chung là tương đối nặng nề. Bên cạnh đó, nhà thờ Thiên Chúa giáo cũng chiếm
hữu nhiều đất đai và lập thành các lãnh địa lớn, các vị linh mục, thầy tu cũng là các địa chủ nhỏ lớn khác nhau.
-> Ruộng đất hầu như thuộc về sở hữu tư nhân (lãnh chúa).
Phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở phương Tây mà quyền sở
hữu ruộng đất thuộc về nhà Vua (tức là nhà nước), đồng thời đối với ruộng đất tư nhân,
vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Nhà nước đem ruộng đất thuộc sở hữu công ban cấp
cho quan lại làm bổng lộc và cho nông dân cày cấy. Khi lực lượng sản xuất phát triển,
ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân bắt đầu được hình thành và phát triển thành sở hữu của địa chủ, cơ sở tôn giáo.
-> Ruộng đất thuộc về sở hữu nhà nước và tư nhân (triều đình và địa chủ)
So với nô lệ , người nông dân có sở hữu riêng tuy không lớn. Đây là điểm tiến bộ
của nhà nước phong kiến so với nhà nước chủ nô. Nhưng trong xã hội phong kiến tồn tại 2
mối quan hệ giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị: nhà nước - nông dân, địa chủ - tá
điền. Quyền lực của nhà nước phong kiến tập trung chủ yếu vào việc đàn áp và bóc lột người lao động. 2. Tính xã hội
Nhà nước phong kiến đại diện cho toàn thể xã hội nên xứ mệnh của nhà nước
phong kiến là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. So với chủ nô, tính xã hội
của nhà nước phong kiến rõ nét hơn, nhà nước đã quan tâm nhiều đến việc giải quyết
những vấn đề chung cho toàn xã hội như: đắp đê, xây đập, khai hoang, lấn biển, phòng
chống thiên tai... Do đó, các hoạt động kinh tế xã hội của nhà nước cũng thiết thực hơn. Chức năng
1. Chức năng đối nội
- Chức năng bảo vệ và phát triển chế độ sở hữu phong kiến, duy trì sự bóc lột của phong
kiến đối với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác: Các nhà nước phong kiến
đều sử dụng pháp luật để củng cố và bảo vệ quyền sở hữu về ruộng đất của giai cấp phong
kiến. Thông qua pháp luật, nhà nước phong kiến trói chặt người nông dân vào ruộng đất
của địa chủ, phong kiến. Nông dân ở các nước đều phải chịu cảnh lao dịch nặng nề qua
các hình thức tô thuế do giai cấp phong kiến đặt ra (tô tiền, tô hiện vật, tô lao dịch)
- Chức năng đàn áp sự chống đối của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác:
Để duy trì địa vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến đều đàn áp dã man các cuộc
khởi nghĩa của nông dân và nhân dân lao động bằng bạo lực quân sự.
- Chức năng đàn áp tư tưởng: Cùng với việc thực hiện các hoạt động bạo lực vật chất để
duy trì địa vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến còn đàn áp và nô dịch nông dân và
nhân dân lao động về mặt tư tưởng, áp đặt hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến cho toàn xã
hội. Các nhà nước phong kiến dù phương Đông hay phương Tây, nhìn chung đều sử dụng
hệ tư tưởng tôn giáo và tổ chức tôn giáo phục vụ cho mục đích nô dịch tư tưởng.
Nhìn chung, nhà nước phong kiến đã kết hợp giữa thần quyền và thế quyền để nô dịch
nhân dân lao động về mặt tư tưởng, tuyên truyền và áp đặt cho nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác hệ tư tưởng duy tâm mang đậm màu sắc tôn giáo.
Ngoài ra, nhà nước phong kiến còn tiến hành những hoạt động công cộng nhằm phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội như: ban hành chính sách quản lý đất đai, chính sách tiền tệ, làm
đường, làm thủy lợi.... Tuy nhiên, hoạt động này chưa thường xuyên và rộng khắp trong
các nhà nước phong kiến mà chỉ xuất hiện ở từng quốc gia cụ thể vào từng thời kỳ cụ thể.
2. Chức năng đối ngoại
- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược: Chiến tranh được nhà nước phong kiến sử
dụng với tính chất là phương tiện phổ biến để giải quyết các mâu thuẫn, mở rộng lãnh thổ,
tăng cường phạm vi ảnh hưởng của nhà nước mình ra bên ngoài.
- Chức năng phòng thủ chống xâm lược: Các nhà nước phong kiến dù lớn hay nhỏ đều
luôn đứng trước nguy cơ bị các nhà nước khác xâm lược. Vì thế, cùng với việc tiến hành
chiến tranh xâm lược, các nhà nước phong kiến đều thực hiện các công việc liên quan đến
bảo vệ đất nước như: xây dựng pháo đài, thành lũy, xây dựng quân đội thường trực.... để phòng thủ đất nước.
Để bảo vệ quyền, lợi ích quốc gia, nhà nước phong kiến còn thực hiện nhiều hình thức và
chính sách ngoại giao với các quốc gia láng giềng như chính sách thương mại, đối ngoại hòa bình...
VI. Quyền lực của các triều đại phong kiến ở Việt Nam
1. Triều đại Lý (1009 - 1225):
Triều đại Lý nổi bật với việc củng cố quyền lực trung ương và thiết lập hệ thống
chính quyền có tổ chức. Vua Lý Thái Tổ đã dời đô về Thăng Long, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất nước.
2. Triều đại Trần (1225 - 1400)
Triều đại Trần nổi bật với những chiến công chống quân Nguyên - Mông xâm lược
và việc thiết lập chế độ quân chủ độc tài. Vua Trần Thánh Tông là một trong những hình
mẫu của vị vua tài giỏi
3. Triều đại Lê (1428 - 1789)
Triều đại Lê đã khôi phục và phát triển thịnh vượng cho đất nước, thiết lập hệ
thống luật pháp và quyền lực triều đình mạnh mẽ. Đặc biệt, Lê Lợi đã trở thành biểu tượng
của lòng yêu nước và kháng chiến.
4. Triều đại Nguyễn (1802 - 1945)
Triều đại Nguyễn đã thực hiện nhiều cải cách lớn, nhưng cũng đối mặt với áp lực
từ thực dân Pháp, dẫn đến sự suy yếu quyền lực và đánh mất độc lập. Triều Nguyễn tiếp
tục đóng góp vào văn hóa và lịch sử Việt Nam.
VII. Tác động của quyền lực chính trị đến xã hội phong kiến 1. Cấu trúc xã hội
Quyền lực chính trị trong thời kỳ phong kiến đã hình thành những cấu trúc xã hội
phân hóa rõ rệt, bao gồm địa chủ, nông dân và tầng lớp thống trị. Điều này tạo ra sự bất
bình đẳng và phân chia giai cấp.
2. Quyền lợi và trách nhiệm
Quyền lực chính trị cũng quyết định quyền lợi và trách nhiệm của từng tầng lớp
trong xã hội. Tầng lớp thống trị thường có nhiều quyền lợi hơn, trong khi nông dân phải
chịu nhiều áp bức bóc lột.
3. Ổn định và biến động xã hội
Sự tập trung quyền lực vào tay một số ít cá nhân có thể dẫn đến sự ổn định xã hội
trong một thời gian ngắn, nhưng cũng có thể khơi mào cho những cuộc nổi dậy và biến
động xã hội khi quyền lực bị lạm dụng.
4. Văn hóa và giáo dục
Quyền lực chính trị cũng ảnh hưởng đến văn hóa và giáo dục. Những giá trị truyền
thống và hệ thống giáo dục thường được định hình theo lợi ích của những người nắm
quyền, dẫn đến sự phân hóa trong nhận thức và khả năng tiếp cận tri thức.