Rửa Tiền Qua Hệ Thông Ngân Hàng Việt Nam | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là một vấn đề phức tạp và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp. Cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao nhận thức của mọi người về tác hại của rửa tiền đối với nền kinh tế và xã hội.

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
TIỂU LUẬN
RỬA TIỀN QUA HỆ THÔNG NGÂN HÀNG
VIỆT NAM
GVHD: ĐỖ MỸ DUNG
SV: NGUYỄN THỊ THU TRANG
LỚP: DHTM16A1CL
MSV: 22107200013
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những
chịu áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm
liên quan đến hoạt động ngân hàng, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc
phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện
nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ
chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động
bất hợp pháp.
Với những hạn chế vốn có trong hoạt động phòng, chống nửa tiền tại Việt
Nam, ngành ngân hàng cần phải nhanh chóng có những giải pháp để đương
đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện phong, chống rửa tiền có hiệu quả cao
nhất. Đó cũng là lý do nhóm chọn đề tài "Rưa tiền qua hệ thống Ngân hàng ở
Việt Nam". Kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về rửa tiền rửa tiền và phòng chống rửa tiền.
Chương 2 : Thực trạng về rửa tiền" và phòng, chống rửa tiền" ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị.
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ RỬA
TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
1.1 Khái niệm “rửa tiền”:
Lần đầu tiên vấn nạn rửa tiền xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm 1973 trong
vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nước Mỹ nhưng phải đợi 5 năm sau đó
thuật ngữ "rửa tiền" mới chính thức được sử dụng trong một số văn bản pháp lý
của tòa án Mỹ. Thuật ngữ này được sử dụng nhiều hơn trong những thập kỉ gần
đây bởi tính phổ biến và những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền. Chính vì vậy,
rửa tiền được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
Theo FATF: Rửa tiên là toàn bộ những hoạt động được tiến hành nhằm
cố ý hợp thức hóa những khoản tiền, tài sản có nguồn gốc từ các hành vi
phạm tội.
Theo Công ước Vienna (1988) và Công ước Palermo (2000) của Liên
hợp quốc. khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là: “Việc
sử dụng (nghĩa là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận)
bất cứ tài sản nào mà nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn
hay một phần của phạm tội mà có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm
giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi pháp luật”.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền là quá trình
chuyển đổi nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp
pháp hoặc tội qua phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp” .
Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: “Rửa tiền là hoạt động mà
bọn tội phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những
đồng tiền tội lỗi. Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản
tiền thu được từ hoạt động tội phạm".
Theo Tổ chức chống rửa tiền quốc tế (Finance Action Task Force) đã
định nghĩa hoạt động của rửa tiền là
Việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của
pháp luật;
Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển
hay chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp;
Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp.
3
Theo Khoản 1 Điều 3 Thông liên tịch số 09/2011 TTLT-BCA-
BQP-BTP- NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011
của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ pháp - Ngân hàng nhà nước
Việt Nam - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao:
Điều 3. Về tội rửa tiền (Điều 251 Bộ luật hình sự)
1. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính ngân hàng
hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản nhằm che giấu nguồn
gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản là việc thực hiện, hỗ trợ thực hiện
hoặc thông qua người khác để thực hiện, hỗ trợ thực hiện một trong
các hành vi dưới đây nhằm che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền,
tài sản đó:
a) Gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng
b) Cầm cố, thế chấp tài sản
c) Cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính
d) Chuyển tiền, đổi tiền
e) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giả khác
f) Phát hành chứng khoán
g) Phát hành các phương tiện thanh toán
h) Bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hôi, các công cụ
thị trường tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhượng
i) Quản lý danh mục đầu tư của cá nhân, tập thể
j) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt cho cả nhân,
tập các
k) Đầu tư vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể
l) Tiến hành các hoạt động bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến
các khoản đầu tư khác
m) Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch hoặc thay
đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức.”
4
Như vậy, rửa tiền (money laundering) là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm
cách tạo ra vẻ bên ngoài hợp pháp cho các khoản tiền hoặc tài sản khác có được từ
hành vi phạm tội. Hiện nay, rửa tiền đã thật sự trở thành vấn nạn nghiêm trọng
mang tính quốc tế, được cộng đồng thế giới rất quan tâm. Bởi vì
nó gây ra những hậu quả kinh tế, xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia và uy tín quốc tế của quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế, cũng
như cải tổ nền kinh tế.
Rửa tiền không chỉ giúp cho tội phạm che giấu được nguồn gốc của
những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hưởng thụ và
sử dụng những đồng tiền đã được tẩy rửa để phục vụ cho những hoạt động tội
phạm khác.
Theo thiếu tướng Nguyễn Phong Hòa (Tổng cục phó Tổng cục Cảnh sát
phòng chống tội phạm, Bộ Công an): Rửa tiền tác động đến nền kinh tế thuần
khiết và nền tảng hoạt động của ngân hàng, tài chính. Thực tế, tội phạm tham
nhũng buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy... tất cả đều liên quan tội phạm rửa
tiền. Loại tội phạm này đang bắt đầu "du nhập" vào Việt Nam và chúng ta
phải đương đầu với nó.”
1.2 Nguồn gốc của tiền “bẩn”:
Hoạt động nửa tiền có mục đích là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa
tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Như vậy, hình thức biểu
hiện lợi nhuận có được ban đầu thông thường là tiền “bẩn”. Sau các giai đoạn
chuyển đổi để hợp pháp hoá, tiền bẩn” sẽ có các hình thức biểu hiện khác
như: thẻ tín dụng, bất động sản, các khoản đầu tư hợp pháp, ... Và nguồn gốc
tiền “bẩn” thường từ các hoạt động sau:
- Buôn lậu ma tuý, vũ khí, mại dâm và các hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi
- Tiền tham nhũng, nhận hối lộ
- Tiền có được do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước nhằm trục lợi
- Tiên có được do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước nhằm trục lợi
- Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tổng tiên, tổ chức
đánh bac.
-Tiên có được do hoạt động chuyên giả giữa các công ty thuộc cùng một tập
đoàn hoặc công ty mẹ - con hoặc tiên có được do trên thuê.
5
1.3 Sơ lược về lịch sử và tổ chức phòng, chống “rửa
tiền” trên thế giới:
1.3.1 Sơ lược về lịch sử của “rửa tiền”.
Trong quá khứ rửa tiên đã được áp dụng chỉ cho những giao dịch tài chính
có quan hệ với tổ chức tội phạm. Ngày nay, hoạt động này được mở rộng hơn
bởi những người năm giữ điều khiển chính phủ. Để từ đó họ thể kiểm tra
bất kỳ giao dịch tài chính nào phát sinh tài sản hay một giá trị như kết quả
của một hành vi phạm pháp bao gồm như hoạt động trốn thuế hay kế toán sai.
6
Cho đến bây giờ thì hoạt động rửa tiền bất hợp pháp được xem như là
hoạt động tiềm năng của những cá nhân, doanh nghiệp lớn và nhỏ, những
viên chức hư hỏng, những thành viên của tổ chức phạm tội có tổ chức (như
người phân phối ma túy hay tổ chức mafia hay thờ cúng...), thậm chí là các cơ
quan đầu não thông qua một mang doanh nghiệp phức tạp đó là vỏ bọc của
những công ty là trung tâm tài chính bên ngoài có mức thuê thấp.
1.3.2 Tổ chức phòng, chống “rửa tiền” trên thế giới: “Lực lượng
đặc nhiệm trong lĩnh vực tài chính (FATF)”:
Mốc son đánh dấu sự ra đời của Lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh
vực tài chính (FATF Financial Action Task Force) là vào năm 1989,
lúc đó chỉ bao gồm các nước G7 FATE được xem như là một công cụ
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền. Tổ chức này tập trung
vào các lĩnh vực sau
- Truyền bá các thông điệp về phòng chống rửa tiền cho
các quốc gia trên toàn thế giới.
-Theo dõi việc thực thi các khuyến nghị trong phòng,
chống rửa tiền do chính FATF ban hành
-Xem xét và công bố những xu hướng biến đổi của hành vi
rửa tiến và đưa ra các biện pháp để đối phó với vấn nạn này.
Hiện nay, FATF đã ban hành 40 khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và
9 khuyến nghị đặc biệt về hoạt động nửa tiền với việc tài trợ cho khủng bố.
FATF có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp phòng, chống rửa
tiền, theo dấu các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải
là tổ chức thành viên của tổ chức này. Hiện nay có hơn 130 quốc gia và lãnh
thổ – đại diện cho khoảng 85% dân số thế giới và khoảng 90% sản lượng kinh
tế toàn cầu - đã thực hiện những cam kết chính trị để thực hiện các khuyến
nghị của FATF. Việt Nam vẫn chỉ mới là quan sát viên chứ chưa phải là thành
viên chính thức của FATE
Ngoài ra FATF còn có nhiệm vụ nữa là công bố danh sách những nước
và vùng lãnh thổ không cam kết hoặc không hưởng ứng tíchyến nghị đặc biệt
về hoạt động rửa tiền với việc tài trợ cho khủng bố và tất nhiên con đường
hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia không phải thành viên
cũng sẽ gặp phải những trở ngại tương xứng.
Quy trình “rửa tiền”.
Một quy trình rửa tiền tiêu biểu thông qua hệ thống ngân hàng thưởng
bao gồm ba giai đoạn sau:
7
- Đầu tư phân tán (Placement)
- Phân tán lòng vòng (Layering)
- Hợp nhất (Intergration)
Đầu tư phân tán (placement):
Tội phạm tìm cách đưa các khoản tiền có nguồn gốc từ hành vi phạm
tội vào hệ thống tài chính để chuẩn bị thực hiện bước tiếp theo. Giai đoạn
này là giai đoạn dễ bị phát hiện nhất trong quy trình rửa tiền.
Phân tán lòng vòng (layering):
Các khoản tiền đã được đưa vào hệ thống tài chính sẽ được chuyển
đổi giữa các tài khoản ngân hàng, các quốc gia, đầu tư dự án, mua bán qua lại
.. nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản.
Hợp nhất (integration):
Các khoản tiền chính thức nhập vào nền kinh tế hợp pháp và có thể
sử dụng cho tất cả các mục đích.
Các thủ đoạn tẩy rửa tiền bản ngày càng đa dạng, tinh vi và có tổ chức
hơn nhằm qua mặt các cơ quan chức năng. Về lý thuyết, việc tẩy rửa tiền có
thể rất phức tạp, thông qua nhiều bước khác nhau với nhiều giao dịch và chủ
thể khác nhau đồng thời liên quan đến nhiều tổ chức tài chính và các công ty...
để làm mất đi nguồn gốc tội phạm của tiền, tài sản của các cá nhân, tổ chức do
phạm tội mà có. Thông thường, tiền được tẩy rửa qua 3 bước sau:
Bước 1: Nhập tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính:
Mục đích của bước này là biến đổi hình thái ban đầu của các khoản thu
nhập phạm pháp và tách chúng khỏi tổ chức tội phạm nhằm tránh sự phát
hiện của các cơ quan chức năng Một số thủ đoạn phổ biến là chia nhỏ tiến bất
chính để gửi vào các ngân hàng nhiều lần để số lượng mỗi lần không đến mức
phải khai bảo, mua các công cu tiền tệ hay hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu
tiền ra nước ngoài.
Bước 2: Quay vòng tiến:
Trong giai đoạn này, những kẻ nửa tiền sử dụng tiền bẩn để thực hiện
cảng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch xuyên quốc
gia, nhằm tạo ra một mang lưới giao dịch chẳng chịt, phức tạp và khó lần dấu
vết. Tiền có thể được chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch hoặc qua các
ngân hàng khác nhau.
Bước 3: Hội nhập tiền đã rửa vào hệ thống kinh tế:
8
Dù tiền bẩn có được quay vòng qua bao nhiêu giao dịch thì đích đến cuối cùng
vẫn là tổ chức tội phạm ban đầu. Một số thủ đoạn tiêu biểu là làm sai lệch hóa đơn
trong giao dịch xuất nhập khẩu, chuyển tiền qua một ngân hàng hợp pháp thông
qua một ngân hàng trả hình hay công ty ma ở nước ngoài... Sau đó những kẻ rửa
tiền sẽ đầu tư tiến này vào các hoạt động kinh tế hợp pháp.
Yêu cầu cơ bản để việc rửa tiền được thành công là phải khéo léo xóa được
mọi dấu vết giấy tờ giao dịch. Tránh khai báo hải quan, xâm nhập cải người
vào hệ thống ngân hàng, trì hoãn cung cấp chúng từ là những thủ đoạn phổ
biến giúp bọn tội phạm đạt mục đích này.
Hình: Sơ đồ quy trình rửa tiền điển hình
Một số hoạt động “rửa tiền” thường phát sinh trong thực tế:
Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp
hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn
gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối
với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền,
tài sản do phạm tội mà có.
Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển,sử
dụng, vận chuyển qua biên giới về tiền và tài sản do phạm tội mà có.
Cung cấp các giải pháp kỹ thuật hoặc trợ giúp gián tiếp các hoạt động phạm
tội.
9
Các phương thức chính của hoạt động “rửa tiền”:
Các phương thức, thủ đoạn nửa tiền rất phong phú đa dạng. gắn liền với
khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự pháp
luật về tài chính, ngân hàng. Điển hình là một số phương thức sau:
- Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt. Đây là phương thức
rửa tiền truyền thống và chu yếu của bọn tội phạm, như đổi từ đồng tiền
nước này sang đồng tiền nước khác để tiêu thụ.
- Rửa tiền thông qua việc mua vàng, kim cương, là những tài sản gọn nhẹ,
có giá trị cao, có thể mua đi bán lại ở mọi nơi, mọi thời điểm trên thế giới.
Đây là phương thức rửa tiền được bọn tội phạm sử dụng nhiều nhất do cách
thức đơn giản, dễ thực hiện, nhưng lại dễ bị cơ quan điều tra phát hiện.
- Rửa tiền thông qua đầu tư vào gửi tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu. Bọn
tội phạm sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc mua tín phiếu, trái phiếu, ...
làm cho đồng tiền năm im trong một thời gian. Sau đó, người gửi tiền có thể rút ra
toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến số tiền đó thành tiền hợp pháp.
- Rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Hiện tượng này thường xảy ra ở những quốc gia đang phát triển, có nhu cầu
vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường tài chính ở các quốc
gia này kém phát triển, khả năng quản lý kém sẽ tạo điều kiện cho tội phạm
rửa tiền phát triển.
Ảnh hưởng của vấn nạn “rửa tiền”:
Rõ ràng, loại hình tội phạm này có tác động, ảnh hưởng tiêu cực bao trùm lên
nhiều lĩnh vực của đời sống như kinh tế xã hội chính trị, an ninh quốc phòng.... và
thậm chí tầm ảnh hưởng của nó đã vươn ra ngoài phạm vi một quốc gia. Chỉ xin
đề cập đến ảnh hưởng của nửa tiền đến nền kinh tế vĩ mô:
Sự lưu chuyển các luồng tiền trong thế giới ngầm gây ra những đột
biến trong cầu tiền tệ và bất ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái
Hoạt động kinh tế ngầm tác động xấu đến hướng đầu tư, chuyển từ các
khoản đầu tư cẩn trọng sang đầu tư rủi ro cao làm giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
Hoạt động rửa tiền làm giảm tính hiệu quả của các công cụ tiền tệ của
chính phủ, kích thích các hành vi tội phạm kinh tế như trốn thuế, thâm ô,
mua bán nội gián, gian lận thương mại, tăng tính bất ổn của nền kinh tế.
Các giao dịch ngầm làm suy giảm hiệu quả kinh tế của các giao dịch
hợp pháp, gây mất lòng tin đối với thị trường.
10
Hệ thống ngân hàng tài chính bị suy yếu, thậm chí có thể bị thao túng
bởi các băng nhóm tội phạm.
Các con số thống kê bị bóp méo, gây khó khăn cho việc hoạch định
chính sách và giảm hiệu qua điều tiết của chính phủ.
Nhìn chung, nguy cơ do rựa tiền tạo ra là rất lớn. tác động của rửa tiền
đến nền kinh tế, tài chính là không nhỏ. Hơn nữa, nó còn phá vỡ sự ổn định
của nền kinh tế tạo ra rất nhiều tiềm ẩn với hậu quả vô cùng to lớn không
riêng cho một tổ chức riêng lẻ nào mà cho cả hệ thống kinh tế, tài chính nước
nhà. Lúc này, hơn lúc nào hết không thể không quan tâm mà phải bắt đầu quá
trình hợp tác trong việc phòng chống các hành vi rửa tiền nhất là thông qua hệ
thống tài chính – ngân hàng. Theo Quyết định số 726/2002/QĐ-NHNN ngày
26.3.2002 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Qui chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng có qui định tại
khoản 2 Điều 26 - Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: Từ chối
thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp
và còn có các Quyết định khác liên quan đến hành vi rửa tiền được ban hành
trong suốt thời gian qua đã thể hiện mối quan tâm của chúng ta vì nền kinh tế,
tài chính trong sạch và mạnh.
Kết luận chương 1: trong chương này, một số vấn đề cơ bản về rửa tiền
đã phần nào được làm rõ. Hoạt động rửa tiền ngày nay không chỉ bó hẹp trong
phạm vi nhỏ nữa mà nó sẽ ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động. Dù cho
hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngành ngân hàng Việt
Nam cũng đang đứng trước một vấn nạn rất lớn. Trong chương 2 vấn đề này
sẽ được làm rõ hơn.
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG
2.1 Thực trạng và hoạt động phòng, chống rửa tiền
trên thế giới:
Cho tới nay, hoạt động nửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều nước trên thế giới
Lượng tiền rửa chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng tiền lưu chuyển trên toàn
cầu. Theo ước tính của FATF – lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính, tiền
bản đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi năm. Năm 2001, thế giới có
khoảng 70 Trung tâm hải ngoại để trốn thuế, tu tập khoảng 40.000 ngân hàng,
44% tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở Châu Âu. 18% ở Châu
Á, 10% ở Châu Phi-Trung Đông, kiểm soát khoảng 5.000 tỷ USD. Phần lớn
các Trung tâm này đóng vai trò Trung tâm đặt hàng chủ yếu phục vụ các
Trung tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo Hàng năm lượng
tiên năm lại hoặc chuyên qua các Trung tâm hải ngoại để trốn thuế ước tình
bằng một nửa số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở
thành những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng.
Rõ ràng, rửa tiền ngày càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và
hậu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Các biện
pháp tiến hành nhằm chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết.
2.2 Vấn nạn và hoạt động phòng, chống “rửa tiền” tại
Việt Nam:
2.2.1 Các phương thức “rửa tiền” chủ yếu tại Việt Nam:
- Rửa tiền bằng phương thức vận chuyển tiền mặt: Theo Báo cáo Kiểm
soát ma túy toàn cầu, có bằng chứng chứng minh một khối lượng lớn tiền mặt
đã được vận chuyển dưới hình thức xách tay vào Việt Nam, điều này là hợp
pháp nếu như các khoản tiền này được khai báo. Việt Nam không có đòi hỏi
bất cứ một thông tin nào liên quan đến nguồn gốc hay việc sử dụng các khoản
tiền được đưa vào Việt Nam.
12
- Chuyển tiền qua ngân hàng: Cũng có nhiều trường hợp người nước ngoài mở
tà khoan tại ngân hàng nhưng sau đó rút ngay ra những khoản tiền có giá trị lớn. Có
trường hợp người nước ngoài thuê và sử dụng các hộ chiếu giả để rút tiền. Vì vậy,
ngân hàng rất khó kiểm soát các giao dịch thực tế của khách hàng.
- Rửa tiên trong lĩnh vực kim loại quý và đá quý: Khu vực bán lẻ vàng phần
lớn chưa được quản lý. Thực tế, vàng được sử dụng như tiến trong lĩnh vực
bất động sản. Cùng với những vụ lừa đảo liên quan đến bất động sản trong
lịch sử và xu hướng các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, trang sức, các dịch vụ
chuyển tiền thì lĩnh vực này tiếp tục là đối tượng bị lạm dụng để chuyển đổi,
vận chuyển và pha trộn các khoản tiền bất hợp pháp.
2.2.2 Thực trạng “rửa tiền” và Phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam:
“Rửa tiền” là hình thức tội phạm mang tính chất quốc tế. Nó sẵn sàng
thâm nhập vào các quốc gia và gây tổn hại đến quốc gia, đặc biệt là những
quốc gia mà việc kiểm soát hoạt động này còn chưa chặt chẽ, trong đó có Việt
Nam. Ở Việt Nam “rửa tiền” cũng tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu
là qua hoạt động kinh doanh và qua hệ thống ngân hàng. Phần lớn các đồng
tiên phi pháp qua hệ thống ngân hàng đều trở thành tiến sạch. Vì thế người ta
gọi hệ thống ngân hàng là cỗ máy rửa tiên cho bọn tội phạm. Rửa tiền là hình
thức tội phạm có tổ chức và gây nhiều tác hại lớn cho nền kinh tế vì nó tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tội phạm, đặc biệt là buôn lậu, bành
trướng hoạt động. Các nước sẽ phải chịu những khoản tổn thất khổng lồ vì các
tội phạm đó. Như đã nói, rửa tiền còn làm suy yếu và ảnh hưởng đến thanh
danh của hệ thống tài chính ngân hàng.
Theo Cục phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở Việt
Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện, nhưng
có những dấu hiệu cho thấy các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để
thực hiện hành vi rửa tiền. Hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có những vấn đề đáng
ngại sau: Việt Nam đang đối mặt với một làn sóng ngầm rửa tiền từ nước ngoài
chuyển về dưới dạng kiêu hội hoặc “xách tay”. Đã có nhiều cá nhân, đường dây
được phát hiện, đơn cử mới đây nhất là vụ phi công của VA bị Úc bắt vì tham gia
vào hoạt động rửa tiền với quy mô lớn.
Lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đưa ra cảnh báo, trong những năm
qua, đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất
hợp pháp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tượng, băng nhóm tội
phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các ngân
hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền
trong các tài khoản này.Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an
Đà Nẵng phát hiện vào tháng 10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos
Linska, quốc tịch Mozambique khi tên này đến chi nhánh một ngân hàng thương
mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản. Ngay sau khi mở được tài khoản. lập
tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào. Điêu đáng nghi
13
ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiên. Nhận thấy giao dịch bất
thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn tội
phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam hai chi
qua nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ngoài ra, tại Đà Nẵng lực lượng Công an cũng đã tiến hành tạm giữ Linska
và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique). Đáng tiêc là Niaty Lokasso
Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài khoản và được chuyển số tiền hơn
3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân tẩu thoát.
Một trường hợp tiêu biểu khác là từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ
quan chức năng đã phát hiện James Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú
tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất
thường. nghi vẫn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở các tài khoản vãng lai USD tại
một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các tài khoản này, đã nhận
hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, sau đó lần lượt chuyển
cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài.
Luật Phòng, chống "rửa tiền" đã được Quốc hội ban hành từ tháng
7.2012 và chính thức có hiệu lực từ 1.1.2013, nhưng đến nay vẫn chưa thể triển
khai vì chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn. Do đó hoạt động phòng, chống
"rửa tiền" vẫn được thực hiện dựa vào Nghị định 74 được Chính phủ ban hành
từ năm 2005. Với các quy dinh tính định tính như hiện nay nên việc giám sát
giao dịch đáng ngờ có dấu mang hiệu "rửa tiên" trong lĩnh vực chứng khoán
hay hoạt động ngân hàng đang trở nên khó thực hiện, hoặc mỗi nơi thực hiện
một kiểu.
Việc rửa tiên ngược từ Việt Nam ra nước ngoài được thực hiện dưới
nhiều hình thức tinh vi như chuyển tiền cho người đi học, khán chữa bệnh,
theo những nguồn tin tham khảo không chính thống thì số tiền này chủ yếu là
do tham nhũng. Càng ngày thì hình thức rửa tiền ở nước ta càng có nhiều thủ
đoạn tinh vi hơn và phát triển mạnh mẽ như đầu tư vào vàng, bất động sản và
kênh đáng lo ngại nhất là thị trường chứng khoán.
"Rửa tiền" là bước cuối cùng đối với loại tội phạm nhằm chuyển hóa lợi
nhuận phi pháp thành hợp pháp. Tuy nhiên, những quy định phòng, chống
"rửa tiền" cũng phải đảm bảo không gây khó khăn cho các đơn vị, tổ chức
hay cá nhân kinh doanh hợp pháp. Để phát hiện các hành vi "rửa tiền", cơ
quan chức năng cũng như các tổ chức có liên quan như NHTM, công ty
chứng khoán, công ty bảo hiểm chủ yếu giám sát băng biện pháp nghiệp vụ
thông qua những dấu hiệu đáng ngờ của các giao dịch.
Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, ngoài những dấu hiệu như Nghị
định 74 của Chính phủ liệt kê thì thông tư 148 của Bộ Tài chính có bổ sung thêm
một số dấu hiệu như tại mục b, c khoản 6, điều 9 thông tư: “b) Giao dịch mua, bán
chứng khoản có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số
14
ngày do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện: c) Khách hàng thực hiện
chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý”...
Với mục đích bổ sung thêm dấu hiệu giúp phát hiện sớm hành vi có thể là
"rửa tiền", nhưng vô tình quy định làm khó các công ty chứng khoán khi thực
hiện giám sát. Cụ thể, thông tư không định nghĩa thế nào là “giao dịch mua,
bán có dấu hiệu bất thường” dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa các công ty
chứng khoán khác nhau. Một giao dịch có thể được coi là bất thường tại công
ty này, nhưng lại là bình thường tại công ty khác. Thế nào là do hợp lý cho
việc chuyển nhượng ngoài hệ thống? Nếu không liệt kê được lý do hợp lý thì
có khi cơ quan chức năng kiểm tra công ty chứng khoán cũng không thể chỉ ra
sai phạm nếu có của công ty chứng khoán trong hoạt động này.
Theo đánh giá của lãnh đạo một công ty chứng khoán, việc giám sát giao
dịch đáng ngờ có dấu hiệu "rửa tiền" trong lĩnh vực chứng khoán hầu như
không được các công ty chứng khoán coi trọng; có chăng chỉ dừng lại ở lưu
trữ số liệu giao dịch phục vụ cho các cơ quan chức năng khi có yêu cầu mà
không mang tính chủ động cảnh báo.
Còn với hoạt động của hệ thống ngân hàng, theo dõi giao dịch đáng ngờ có dấu
hiệu "rửa tiền" được chú trọng hơn, do các ngân hàng - nhất ngân hàng lớn-
còn mối quan hệ, giao dịch với tổ chức tài chính quốc tế. Do vậy yêu cầu về
giám sát, phòng, chống "rửa tiền" được quan tâm hơn rất nhiều.
Theo tổng kết của NHNN, sau 6 năm thực hiện Nghị định 74, từ năm 2005 đến
2011, đã có 774 báo cáo về giao dịch đáng nghi ngờ được báo cáo, trong đó 160
báo cáo được chuyển sang cơ quan công an liên quan tới 53 vụ việc.
Tuy nhiên, về khía cạnh quản lý của NHNN cho thấy còn nhiều bất cập. Theo
khoản 2, điều 9 của thông tư 22, NHNN quy định: “Căn cứ vào tính chất hoạt
động kinh doanh, tổ chức báo cáo tự bô sung các dấu hiệu đáng ngờ quy định
tại khoản 1 điều này theo từng bộ phận nghiệp vụ, lĩnh vực kinh doanh”. Từ
đó, các NHTM tự quy định thêm các dấu hiệu nhận biết giao dịch đáng ngờ để
báo cáo. Hiệu quả của chính sách phụ thuộc vào sự chủ động từng ngân hàng
do chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Phòng, chống "rửa tiền" để
thay thế thông tư 22.
Ví dụ, có một số ngân hàng đã cập nhật dấu hiệu “tài khoản của khách
hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại không có lý do hợp lý;
tài khoản của khách hàng không giao dịch, đột nhiên nhận được một khoản
tiền gửi hoặc chuyển tiến có giá trị lớn” theo Luật Phòng, chống rửa tiền vào
quy trình báo cáo nội bộ. Nhưng cũng có nhiều NH- nhất là NH nhỏ- chưa cập
nhật dấu hiệu này, mà chỉ áp dụng những dấu hiệu được liệt kê tại Nghị định
74 và thông tư 22. Do đó, báo cáo về giao dịch đáng ngờ vì vậy không theo
tiêu chuẩn, chưa đáp ứng yêu cầu để theo dõi, phát hiện hành vi "rửa tiền" nếu
có. Hệ quả để điều tra, xác minh giao dịch đáng ngờ tổn nhiều thời gian và
công sức.
15
Hiện nay dù số lượng các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến "rửa tiền" lên
tới con số 51.000 tỉ đồng, vẫn chưa có kỳ giao dịch nào được cơ quan điều tra kết
luận là... "rửa tiền". Con số 51.000 tỉ đồng giao dịch đáng ngờ chỉ riêng trong năm
2012 vừa được cơ quan ngân hàng trung ương gửi lên Ban chỉ đạo Phòng, chống
"rửa tiền" cũng là những con số cụ thể đầu tiên liên quan đến hoạt động này, được
chính thức công bố cho đến thời điểm hiện nay.
Cùng với 160 bảo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt động "rửa
tiền" được chuyển lên cơ quan công an xác minh, con số trên đây cho thấy quy mô
của các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến "rửa tiền" ngày càng tăng
mạnh. Ngoài con số 160 bảo cáo được đề cập ở trên, Việt Nam cho tới nay
vẫn chưa phát hiện một vụ "rửa tiền" cụ thể nào.
Bởi vào thời điểm tháng 7.2008, Trung tâm Thông tin phòng, chống "rửa tiền"
(nay là Cục Phòng, chống "rửa tiền" - NHNN) sau 2 năm thành lập mới nhận được
20 báo cáo về các giao dịch đáng ngờ. Một thông tin đáng chú ý, theo Cục trưởng
Cục Phòng, chống "rửa tiền" - ông Nguyễn Văn Ngọc - số lượng các giao dịch
đáng ngờ nói trên chủ yếu thuộc lĩnh vực ngân hàng, trong khi chỉ có một vài giao
dịch thuộc lĩnh vực chứng khoán và bất động sản.
Con số ít ỏi lĩnh vực chứng khoán bất động sản - theo người đứng
đầu cơ quan phòng, chống "rửa tiền" - không đồng nghĩa với việc hai lĩnh vực
này hoàn toàn “sạch”, thể do nhân viên hai lĩnh vực này còn yếu
năng lực thẩm định.
Thực tế cho thấy, trong khi việc thu thập chứng cứ để kết tội giao dịch
liên quan tới "rửa tiền" rất khó và đòi hỏi sự phối hợp của các bộ ngành, các
báo cáo về giao dịch giá trị lớn hiện nay lại chủ yếu do các NH báo cáo lên
NHNN, bao gồm cả các NH trong nước, chi nhánh NH nước ngoài và NH
100% vốn nước ngoài. “Do đó ở Việt Nam bây giờ, chưa thể đánh giá "rửa
tiền" ở lĩnh vực nào nhiều" - ông Ngọc nói.
Tại Việt Nam với bối cảnh nền kinh tế sử dụng tiền mặt nhiều, cơ hội cho
tội phạm "rửa tiền" rất cao. Trước đây, "rửa tiền" thường được đánh giá liên
quan đến hoạt động chuyển tiền qua biên giới, thì nay "rửa tiền" trong nước
gia tăng gắn với hoạt động phạm pháp như buôn lậu, buôn bán ma túy, trốn
thuế, đặc biệt là tham nhũng. Vì vậy để ngăn chặn hành vi "rửa tiền", NHNN
cần phối hợp với các bộ, ngành nhanh chóng trình nghị định hướng dẫn Luật
Phòng, chống "rửa tiền" để Chính phủ ban hành. Có vậy mới mong ngăn chặn
loại tội phạm như Liberty Reserve trước khi chúng có điều kiện phát triển ở
Việt Nam.
2.2.3 Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
16
| 1/16

Preview text:

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP TIỂU LUẬN
RỬA TIỀN QUA HỆ THÔNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM GVHD: ĐỖ MỸ DUNG SV:
NGUYỄN THỊ THU TRANG LỚP: DHTM16A1CL MSV: 22107200013 1 LỜI MỞ ĐẦU
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những
chịu áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm
liên quan đến hoạt động ngân hàng, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc
phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện
nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ
chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp.
Với những hạn chế vốn có trong hoạt động phòng, chống nửa tiền tại Việt
Nam, ngành ngân hàng cần phải nhanh chóng có những giải pháp để đương
đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện phong, chống rửa tiền có hiệu quả cao
nhất. Đó cũng là lý do nhóm chọn đề tài "Rưa tiền qua hệ thống Ngân hàng ở
Việt Nam". Kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về rửa tiền rửa tiền và phòng chống rửa tiền.
Chương 2 : Thực trạng về rửa tiền" và phòng, chống rửa tiền" ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị. 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ RỬA
TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
1.1 Khái niệm “rửa tiền”:
Lần đầu tiên vấn nạn rửa tiền xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm 1973 trong
vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nước Mỹ nhưng phải đợi 5 năm sau đó
thuật ngữ "rửa tiền" mới chính thức được sử dụng trong một số văn bản pháp lý
của tòa án Mỹ. Thuật ngữ này được sử dụng nhiều hơn trong những thập kỉ gần
đây bởi tính phổ biến và những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền. Chính vì vậy,
rửa tiền được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
• Theo FATF: Rửa tiên là toàn bộ những hoạt động được tiến hành nhằm
cố ý hợp thức hóa những khoản tiền, tài sản có nguồn gốc từ các hành vi phạm tội.
• Theo Công ước Vienna (1988) và Công ước Palermo (2000) của Liên
hợp quốc. khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là: “Việc
sử dụng (nghĩa là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận)
bất cứ tài sản nào mà nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn
hay một phần của phạm tội mà có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm
giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi pháp luật”.

• Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền là quá trình
chuyển đổi nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp
pháp hoặc tội qua phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp” .

• Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: “Rửa tiền là hoạt động mà
bọn tội phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những
đồng tiền tội lỗi. Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản
tiền thu được từ hoạt động tội phạm".

• Theo Tổ chức chống rửa tiền quốc tế (Finance Action Task Force) đã
định nghĩa hoạt động của rửa tiền là
Việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển
hay chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp;

Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp. 3
• Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2011 TTLT-BCA-
BQP-BTP- NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011
của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư pháp - Ngân hàng nhà nước
Việt Nam - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao:
Điều 3. Về tội rửa tiền (Điều 251 Bộ luật hình sự)
1. Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính ngân hàng
hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản nhằm che giấu nguồn
gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản là việc thực hiện, hỗ trợ thực hiện
hoặc thông qua người khác để thực hiện, hỗ trợ thực hiện một trong
các hành vi dưới đây nhằm che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó:

a) Gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng
b) Cầm cố, thế chấp tài sản
c) Cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính
d) Chuyển tiền, đổi tiền
e) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giả khác
f) Phát hành chứng khoán
g) Phát hành các phương tiện thanh toán
h) Bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hôi, các công cụ
thị trường tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhượng
i) Quản lý danh mục đầu tư của cá nhân, tập thể
j) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt cho cả nhân, tập các
k) Đầu tư vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể
l) Tiến hành các hoạt động bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến
các khoản đầu tư khác
m) Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch hoặc thay
đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức.” 4
Như vậy, rửa tiền (money laundering) là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm
cách tạo ra vẻ bên ngoài hợp pháp cho các khoản tiền hoặc tài sản khác có được từ
hành vi phạm tội. Hiện nay, rửa tiền đã thật sự trở thành vấn nạn nghiêm trọng
mang tính quốc tế, được cộng đồng thế giới rất quan tâm. Bởi vì
nó gây ra những hậu quả kinh tế, xã hội nghiêm trọng ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia và uy tín quốc tế của quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế, cũng
như cải tổ nền kinh tế.
Rửa tiền không chỉ giúp cho tội phạm che giấu được nguồn gốc của
những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hưởng thụ và
sử dụng những đồng tiền đã được tẩy rửa để phục vụ cho những hoạt động tội phạm khác.
Theo thiếu tướng Nguyễn Phong Hòa (Tổng cục phó Tổng cục Cảnh sát
phòng chống tội phạm, Bộ Công an): Rửa tiền tác động đến nền kinh tế thuần
khiết và nền tảng hoạt động của ngân hàng, tài chính. Thực tế, tội phạm tham
nhũng buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy... tất cả đều liên quan tội phạm rửa
tiền. Loại tội phạm này đang bắt đầu "du nhập" vào Việt Nam và chúng ta
phải đương đầu với nó.”
1.2 Nguồn gốc của tiền “bẩn”:
Hoạt động nửa tiền có mục đích là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa
tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Như vậy, hình thức biểu
hiện lợi nhuận có được ban đầu thông thường là tiền “bẩn”. Sau các giai đoạn
chuyển đổi để hợp pháp hoá, tiền bẩn” sẽ có các hình thức biểu hiện khác
như: thẻ tín dụng, bất động sản, các khoản đầu tư hợp pháp, ... Và nguồn gốc
tiền “bẩn” thường từ các hoạt động sau:
- Buôn lậu ma tuý, vũ khí, mại dâm và các hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi
- Tiền tham nhũng, nhận hối lộ
- Tiền có được do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước nhằm trục lợi
- Tiên có được do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước nhằm trục lợi
- Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tổng tiên, tổ chức đánh bac.
-Tiên có được do hoạt động chuyên giả giữa các công ty thuộc cùng một tập
đoàn hoặc công ty mẹ - con hoặc tiên có được do trên thuê. 5
1.3 Sơ lược về lịch sử và tổ chức phòng, chống “rửa
tiền” trên thế giới:
1.3.1 Sơ lược về lịch sử của “rửa tiền”.
Trong quá khứ rửa tiên đã được áp dụng chỉ cho những giao dịch tài chính
có quan hệ với tổ chức tội phạm. Ngày nay, hoạt động này được mở rộng hơn
bởi những người năm giữ điều khiển chính phủ. Để từ đó họ có thể kiểm tra
bất kỳ giao dịch tài chính nào mà phát sinh tài sản hay một giá trị như kết quả
của một hành vi phạm pháp bao gồm như hoạt động trốn thuế hay kế toán sai. 6
Cho đến bây giờ thì hoạt động rửa tiền bất hợp pháp được xem như là
hoạt động tiềm năng của những cá nhân, doanh nghiệp lớn và nhỏ, những
viên chức hư hỏng, những thành viên của tổ chức phạm tội có tổ chức (như
người phân phối ma túy hay tổ chức mafia hay thờ cúng...), thậm chí là các cơ
quan đầu não thông qua một mang doanh nghiệp phức tạp đó là vỏ bọc của
những công ty là trung tâm tài chính bên ngoài có mức thuê thấp.
1.3.2 Tổ chức phòng, chống “rửa tiền” trên thế giới: “Lực lượng
đặc nhiệm trong lĩnh vực tài chính (FATF)”:
Mốc son đánh dấu sự ra đời của Lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh
vực tài chính (FATF Financial Action Task Force) là vào năm 1989,
lúc đó chỉ bao gồm các nước G7 FATE được xem như là một công cụ
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền. Tổ chức này tập trung vào các lĩnh vực sau
- Truyền bá các thông điệp về phòng chống rửa tiền cho
các quốc gia trên toàn thế giới.
-Theo dõi việc thực thi các khuyến nghị trong phòng,
chống rửa tiền do chính FATF ban hành
-Xem xét và công bố những xu hướng biến đổi của hành vi
rửa tiến và đưa ra các biện pháp để đối phó với vấn nạn này.
Hiện nay, FATF đã ban hành 40 khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và
9 khuyến nghị đặc biệt về hoạt động nửa tiền với việc tài trợ cho khủng bố.
FATF có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp phòng, chống rửa
tiền, theo dấu các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải
là tổ chức thành viên của tổ chức này. Hiện nay có hơn 130 quốc gia và lãnh
thổ – đại diện cho khoảng 85% dân số thế giới và khoảng 90% sản lượng kinh
tế toàn cầu - đã thực hiện những cam kết chính trị để thực hiện các khuyến
nghị của FATF. Việt Nam vẫn chỉ mới là quan sát viên chứ chưa phải là thành viên chính thức của FATE
Ngoài ra FATF còn có nhiệm vụ nữa là công bố danh sách những nước
và vùng lãnh thổ không cam kết hoặc không hưởng ứng tíchyến nghị đặc biệt
về hoạt động rửa tiền với việc tài trợ cho khủng bố và tất nhiên con đường
hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia không phải thành viên
cũng sẽ gặp phải những trở ngại tương xứng.
Quy trình “rửa tiền”.
Một quy trình rửa tiền tiêu biểu thông qua hệ thống ngân hàng thưởng bao gồm ba giai đoạn sau: 7
- Đầu tư phân tán (Placement)
- Phân tán lòng vòng (Layering) - Hợp nhất (Intergration)
Đầu tư phân tán (placement):
Tội phạm tìm cách đưa các khoản tiền có nguồn gốc từ hành vi phạm
tội vào hệ thống tài chính để chuẩn bị thực hiện bước tiếp theo. Giai đoạn
này là giai đoạn dễ bị phát hiện nhất trong quy trình rửa tiền.
Phân tán lòng vòng (layering):
Các khoản tiền đã được đưa vào hệ thống tài chính sẽ được chuyển
đổi giữa các tài khoản ngân hàng, các quốc gia, đầu tư dự án, mua bán qua lại
.. nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản.
Hợp nhất (integration):
Các khoản tiền chính thức nhập vào nền kinh tế hợp pháp và có thể
sử dụng cho tất cả các mục đích.
Các thủ đoạn tẩy rửa tiền bản ngày càng đa dạng, tinh vi và có tổ chức
hơn nhằm qua mặt các cơ quan chức năng. Về lý thuyết, việc tẩy rửa tiền có
thể rất phức tạp, thông qua nhiều bước khác nhau với nhiều giao dịch và chủ
thể khác nhau đồng thời liên quan đến nhiều tổ chức tài chính và các công ty...
để làm mất đi nguồn gốc tội phạm của tiền, tài sản của các cá nhân, tổ chức do
phạm tội mà có. Thông thường, tiền được tẩy rửa qua 3 bước sau:
Bước 1: Nhập tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính:
Mục đích của bước này là biến đổi hình thái ban đầu của các khoản thu
nhập phạm pháp và tách chúng khỏi tổ chức tội phạm nhằm tránh sự phát
hiện của các cơ quan chức năng Một số thủ đoạn phổ biến là chia nhỏ tiến bất
chính để gửi vào các ngân hàng nhiều lần để số lượng mỗi lần không đến mức
phải khai bảo, mua các công cu tiền tệ hay hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nước ngoài.
Bước 2: Quay vòng tiến:
Trong giai đoạn này, những kẻ nửa tiền sử dụng tiền bẩn để thực hiện
cảng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch xuyên quốc
gia, nhằm tạo ra một mang lưới giao dịch chẳng chịt, phức tạp và khó lần dấu
vết. Tiền có thể được chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch hoặc qua các ngân hàng khác nhau.
Bước 3: Hội nhập tiền đã rửa vào hệ thống kinh tế: 8
Dù tiền bẩn có được quay vòng qua bao nhiêu giao dịch thì đích đến cuối cùng
vẫn là tổ chức tội phạm ban đầu. Một số thủ đoạn tiêu biểu là làm sai lệch hóa đơn
trong giao dịch xuất nhập khẩu, chuyển tiền qua một ngân hàng hợp pháp thông
qua một ngân hàng trả hình hay công ty ma ở nước ngoài... Sau đó những kẻ rửa
tiền sẽ đầu tư tiến này vào các hoạt động kinh tế hợp pháp.
Yêu cầu cơ bản để việc rửa tiền được thành công là phải khéo léo xóa được
mọi dấu vết giấy tờ giao dịch. Tránh khai báo hải quan, xâm nhập cải người
vào hệ thống ngân hàng, trì hoãn cung cấp chúng từ là những thủ đoạn phổ
biến giúp bọn tội phạm đạt mục đích này.
Hình: Sơ đồ quy trình rửa tiền điển hình
Một số hoạt động “rửa tiền” thường phát sinh trong thực tế:
Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp
hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn
gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối
với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền,
tài sản do phạm tội mà có.
Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển,sử
dụng, vận chuyển qua biên giới về tiền và tài sản do phạm tội mà có.
Cung cấp các giải pháp kỹ thuật hoặc trợ giúp gián tiếp các hoạt động phạm tội. 9
Các phương thức chính của hoạt động “rửa tiền”:
Các phương thức, thủ đoạn nửa tiền rất phong phú đa dạng. gắn liền với
khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự pháp
luật về tài chính, ngân hàng. Điển hình là một số phương thức sau:
- Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt. Đây là phương thức
rửa tiền truyền thống và chu yếu của bọn tội phạm, như đổi từ đồng tiền
nước này sang đồng tiền nước khác để tiêu thụ.
- Rửa tiền thông qua việc mua vàng, kim cương, là những tài sản gọn nhẹ,
có giá trị cao, có thể mua đi bán lại ở mọi nơi, mọi thời điểm trên thế giới.
Đây là phương thức rửa tiền được bọn tội phạm sử dụng nhiều nhất do cách
thức đơn giản, dễ thực hiện, nhưng lại dễ bị cơ quan điều tra phát hiện.
- Rửa tiền thông qua đầu tư vào gửi tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu. Bọn
tội phạm sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc mua tín phiếu, trái phiếu, ...
làm cho đồng tiền năm im trong một thời gian. Sau đó, người gửi tiền có thể rút ra
toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến số tiền đó thành tiền hợp pháp.
- Rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Hiện tượng này thường xảy ra ở những quốc gia đang phát triển, có nhu cầu
vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường tài chính ở các quốc
gia này kém phát triển, khả năng quản lý kém sẽ tạo điều kiện cho tội phạm rửa tiền phát triển.
Ảnh hưởng của vấn nạn “rửa tiền”:
Rõ ràng, loại hình tội phạm này có tác động, ảnh hưởng tiêu cực bao trùm lên
nhiều lĩnh vực của đời sống như kinh tế xã hội chính trị, an ninh quốc phòng.... và
thậm chí tầm ảnh hưởng của nó đã vươn ra ngoài phạm vi một quốc gia. Chỉ xin
đề cập đến ảnh hưởng của nửa tiền đến nền kinh tế vĩ mô:
• Sự lưu chuyển các luồng tiền trong thế giới ngầm gây ra những đột
biến trong cầu tiền tệ và bất ổn định lãi suất và tỷ giá hối đoái
• Hoạt động kinh tế ngầm tác động xấu đến hướng đầu tư, chuyển từ các
khoản đầu tư cẩn trọng sang đầu tư rủi ro cao làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
• Hoạt động rửa tiền làm giảm tính hiệu quả của các công cụ tiền tệ của
chính phủ, kích thích các hành vi tội phạm kinh tế như trốn thuế, thâm ô,
mua bán nội gián, gian lận thương mại, tăng tính bất ổn của nền kinh tế.
• Các giao dịch ngầm làm suy giảm hiệu quả kinh tế của các giao dịch
hợp pháp, gây mất lòng tin đối với thị trường. 10
• Hệ thống ngân hàng tài chính bị suy yếu, thậm chí có thể bị thao túng
bởi các băng nhóm tội phạm.
• Các con số thống kê bị bóp méo, gây khó khăn cho việc hoạch định
chính sách và giảm hiệu qua điều tiết của chính phủ.
Nhìn chung, nguy cơ do rựa tiền tạo ra là rất lớn. tác động của rửa tiền
đến nền kinh tế, tài chính là không nhỏ. Hơn nữa, nó còn phá vỡ sự ổn định
của nền kinh tế tạo ra rất nhiều tiềm ẩn với hậu quả vô cùng to lớn không
riêng cho một tổ chức riêng lẻ nào mà cho cả hệ thống kinh tế, tài chính nước
nhà. Lúc này, hơn lúc nào hết không thể không quan tâm mà phải bắt đầu quá
trình hợp tác trong việc phòng chống các hành vi rửa tiền nhất là thông qua hệ
thống tài chính – ngân hàng. Theo Quyết định số 726/2002/QĐ-NHNN ngày
26.3.2002 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Qui chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng có qui định tại
khoản 2 Điều 26 - Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: Từ chối
thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp
và còn có các Quyết định khác liên quan đến hành vi rửa tiền được ban hành
trong suốt thời gian qua đã thể hiện mối quan tâm của chúng ta vì nền kinh tế,
tài chính trong sạch và mạnh.
Kết luận chương 1: trong chương này, một số vấn đề cơ bản về rửa tiền
đã phần nào được làm rõ. Hoạt động rửa tiền ngày nay không chỉ bó hẹp trong
phạm vi nhỏ nữa mà nó sẽ ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động. Dù cho
hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngành ngân hàng Việt
Nam cũng đang đứng trước một vấn nạn rất lớn. Trong chương 2 vấn đề này sẽ được làm rõ hơn. 11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
2.1 Thực trạng và hoạt động phòng, chống rửa tiền trên thế giới:
Cho tới nay, hoạt động nửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều nước trên thế giới
Lượng tiền rửa chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng tiền lưu chuyển trên toàn
cầu. Theo ước tính của FATF – lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính, tiền
bản đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi năm. Năm 2001, thế giới có
khoảng 70 Trung tâm hải ngoại để trốn thuế, tu tập khoảng 40.000 ngân hàng,
44% tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở Châu Âu. 18% ở Châu
Á, 10% ở Châu Phi-Trung Đông, kiểm soát khoảng 5.000 tỷ USD. Phần lớn
các Trung tâm này đóng vai trò Trung tâm đặt hàng chủ yếu phục vụ các
Trung tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo Hàng năm lượng
tiên năm lại hoặc chuyên qua các Trung tâm hải ngoại để trốn thuế ước tình
bằng một nửa số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở
thành những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng.
Rõ ràng, rửa tiền ngày càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và
hậu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Các biện
pháp tiến hành nhằm chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết.
2.2 Vấn nạn và hoạt động phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam:
2.2.1 Các phương thức “rửa tiền” chủ yếu tại Việt Nam:
- Rửa tiền bằng phương thức vận chuyển tiền mặt: Theo Báo cáo Kiểm
soát ma túy toàn cầu, có bằng chứng chứng minh một khối lượng lớn tiền mặt
đã được vận chuyển dưới hình thức xách tay vào Việt Nam, điều này là hợp
pháp nếu như các khoản tiền này được khai báo. Việt Nam không có đòi hỏi
bất cứ một thông tin nào liên quan đến nguồn gốc hay việc sử dụng các khoản
tiền được đưa vào Việt Nam. 12
- Chuyển tiền qua ngân hàng: Cũng có nhiều trường hợp người nước ngoài mở
tà khoan tại ngân hàng nhưng sau đó rút ngay ra những khoản tiền có giá trị lớn. Có
trường hợp người nước ngoài thuê và sử dụng các hộ chiếu giả để rút tiền. Vì vậy,
ngân hàng rất khó kiểm soát các giao dịch thực tế của khách hàng.
- Rửa tiên trong lĩnh vực kim loại quý và đá quý: Khu vực bán lẻ vàng phần
lớn chưa được quản lý. Thực tế, vàng được sử dụng như tiến trong lĩnh vực
bất động sản. Cùng với những vụ lừa đảo liên quan đến bất động sản trong
lịch sử và xu hướng các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, trang sức, các dịch vụ
chuyển tiền thì lĩnh vực này tiếp tục là đối tượng bị lạm dụng để chuyển đổi,
vận chuyển và pha trộn các khoản tiền bất hợp pháp.
2.2.2 Thực trạng “rửa tiền” và Phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam:
“Rửa tiền” là hình thức tội phạm mang tính chất quốc tế. Nó sẵn sàng
thâm nhập vào các quốc gia và gây tổn hại đến quốc gia, đặc biệt là những
quốc gia mà việc kiểm soát hoạt động này còn chưa chặt chẽ, trong đó có Việt
Nam. Ở Việt Nam “rửa tiền” cũng tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu
là qua hoạt động kinh doanh và qua hệ thống ngân hàng. Phần lớn các đồng
tiên phi pháp qua hệ thống ngân hàng đều trở thành tiến sạch. Vì thế người ta
gọi hệ thống ngân hàng là cỗ máy rửa tiên cho bọn tội phạm. Rửa tiền là hình
thức tội phạm có tổ chức và gây nhiều tác hại lớn cho nền kinh tế vì nó tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tội phạm, đặc biệt là buôn lậu, bành
trướng hoạt động. Các nước sẽ phải chịu những khoản tổn thất khổng lồ vì các
tội phạm đó. Như đã nói, rửa tiền còn làm suy yếu và ảnh hưởng đến thanh
danh của hệ thống tài chính ngân hàng.
Theo Cục phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở Việt
Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện, nhưng
có những dấu hiệu cho thấy các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để
thực hiện hành vi rửa tiền. Hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có những vấn đề đáng
ngại sau: Việt Nam đang đối mặt với một làn sóng ngầm rửa tiền từ nước ngoài
chuyển về dưới dạng kiêu hội hoặc “xách tay”. Đã có nhiều cá nhân, đường dây
được phát hiện, đơn cử mới đây nhất là vụ phi công của VA bị Úc bắt vì tham gia
vào hoạt động rửa tiền với quy mô lớn.
Lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đưa ra cảnh báo, trong những năm
qua, đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất
hợp pháp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tượng, băng nhóm tội
phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các ngân
hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền
trong các tài khoản này.Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an
Đà Nẵng phát hiện vào tháng 10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos
Linska, quốc tịch Mozambique khi tên này đến chi nhánh một ngân hàng thương
mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản. Ngay sau khi mở được tài khoản. lập
tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào. Điêu đáng nghi 13
ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiên. Nhận thấy giao dịch bất
thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn tội
phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam hai chi
qua nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ngoài ra, tại Đà Nẵng lực lượng Công an cũng đã tiến hành tạm giữ Linska
và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique). Đáng tiêc là Niaty Lokasso
Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài khoản và được chuyển số tiền hơn
3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân tẩu thoát.
Một trường hợp tiêu biểu khác là từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ
quan chức năng đã phát hiện James Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú
tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất
thường. nghi vẫn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở các tài khoản vãng lai USD tại
một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các tài khoản này, đã nhận
hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, sau đó lần lượt chuyển
cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài.
Luật Phòng, chống "rửa tiền" đã được Quốc hội ban hành từ tháng
7.2012 và chính thức có hiệu lực từ 1.1.2013, nhưng đến nay vẫn chưa thể triển
khai vì chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn. Do đó hoạt động phòng, chống
"rửa tiền" vẫn được thực hiện dựa vào Nghị định 74 được Chính phủ ban hành
từ năm 2005. Với các quy dinh tính định tính như hiện nay nên việc giám sát
giao dịch đáng ngờ có dấu mang hiệu "rửa tiên" trong lĩnh vực chứng khoán
hay hoạt động ngân hàng đang trở nên khó thực hiện, hoặc mỗi nơi thực hiện một kiểu.
Việc rửa tiên ngược từ Việt Nam ra nước ngoài được thực hiện dưới
nhiều hình thức tinh vi như chuyển tiền cho người đi học, khán chữa bệnh,
theo những nguồn tin tham khảo không chính thống thì số tiền này chủ yếu là
do tham nhũng. Càng ngày thì hình thức rửa tiền ở nước ta càng có nhiều thủ
đoạn tinh vi hơn và phát triển mạnh mẽ như đầu tư vào vàng, bất động sản và
kênh đáng lo ngại nhất là thị trường chứng khoán.
"Rửa tiền" là bước cuối cùng đối với loại tội phạm nhằm chuyển hóa lợi
nhuận phi pháp thành hợp pháp. Tuy nhiên, những quy định phòng, chống
"rửa tiền" cũng phải đảm bảo không gây khó khăn cho các đơn vị, tổ chức
hay cá nhân kinh doanh hợp pháp. Để phát hiện các hành vi "rửa tiền", cơ
quan chức năng cũng như các tổ chức có liên quan như NHTM, công ty
chứng khoán, công ty bảo hiểm chủ yếu giám sát băng biện pháp nghiệp vụ
thông qua những dấu hiệu đáng ngờ của các giao dịch.
Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, ngoài những dấu hiệu như Nghị
định 74 của Chính phủ liệt kê thì thông tư 148 của Bộ Tài chính có bổ sung thêm
một số dấu hiệu như tại mục b, c khoản 6, điều 9 thông tư: “b) Giao dịch mua, bán
chứng khoản có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số 14
ngày do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện: c) Khách hàng thực hiện
chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý”...
Với mục đích bổ sung thêm dấu hiệu giúp phát hiện sớm hành vi có thể là
"rửa tiền", nhưng vô tình quy định làm khó các công ty chứng khoán khi thực
hiện giám sát. Cụ thể, thông tư không định nghĩa thế nào là “giao dịch mua,
bán có dấu hiệu bất thường” dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa các công ty
chứng khoán khác nhau. Một giao dịch có thể được coi là bất thường tại công
ty này, nhưng lại là bình thường tại công ty khác. Thế nào là do hợp lý cho
việc chuyển nhượng ngoài hệ thống? Nếu không liệt kê được lý do hợp lý thì
có khi cơ quan chức năng kiểm tra công ty chứng khoán cũng không thể chỉ ra
sai phạm nếu có của công ty chứng khoán trong hoạt động này.
Theo đánh giá của lãnh đạo một công ty chứng khoán, việc giám sát giao
dịch đáng ngờ có dấu hiệu "rửa tiền" trong lĩnh vực chứng khoán hầu như
không được các công ty chứng khoán coi trọng; có chăng chỉ dừng lại ở lưu
trữ số liệu giao dịch phục vụ cho các cơ quan chức năng khi có yêu cầu mà
không mang tính chủ động cảnh báo.
Còn với hoạt động của hệ thống ngân hàng, theo dõi giao dịch đáng ngờ có dấu
hiệu "rửa tiền" được chú trọng hơn, do các ngân hàng - nhất là ngân hàng lớn-
còn có mối quan hệ, giao dịch với tổ chức tài chính quốc tế. Do vậy yêu cầu về
giám sát, phòng, chống "rửa tiền" được quan tâm hơn rất nhiều.
Theo tổng kết của NHNN, sau 6 năm thực hiện Nghị định 74, từ năm 2005 đến
2011, đã có 774 báo cáo về giao dịch đáng nghi ngờ được báo cáo, trong đó 160
báo cáo được chuyển sang cơ quan công an liên quan tới 53 vụ việc.
Tuy nhiên, về khía cạnh quản lý của NHNN cho thấy còn nhiều bất cập. Theo
khoản 2, điều 9 của thông tư 22, NHNN quy định: “Căn cứ vào tính chất hoạt
động kinh doanh, tổ chức báo cáo tự bô sung các dấu hiệu đáng ngờ quy định
tại khoản 1 điều này theo từng bộ phận nghiệp vụ, lĩnh vực kinh doanh”. Từ
đó, các NHTM tự quy định thêm các dấu hiệu nhận biết giao dịch đáng ngờ để
báo cáo. Hiệu quả của chính sách phụ thuộc vào sự chủ động từng ngân hàng
do chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Phòng, chống "rửa tiền" để thay thế thông tư 22.
Ví dụ, có một số ngân hàng đã cập nhật dấu hiệu “tài khoản của khách
hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại không có lý do hợp lý;
tài khoản của khách hàng không giao dịch, đột nhiên nhận được một khoản
tiền gửi hoặc chuyển tiến có giá trị lớn” theo Luật Phòng, chống rửa tiền vào
quy trình báo cáo nội bộ. Nhưng cũng có nhiều NH- nhất là NH nhỏ- chưa cập
nhật dấu hiệu này, mà chỉ áp dụng những dấu hiệu được liệt kê tại Nghị định
74 và thông tư 22. Do đó, báo cáo về giao dịch đáng ngờ vì vậy không theo
tiêu chuẩn, chưa đáp ứng yêu cầu để theo dõi, phát hiện hành vi "rửa tiền" nếu
có. Hệ quả để điều tra, xác minh giao dịch đáng ngờ tổn nhiều thời gian và công sức. 15
Hiện nay dù số lượng các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến "rửa tiền" lên
tới con số 51.000 tỉ đồng, vẫn chưa có kỳ giao dịch nào được cơ quan điều tra kết
luận là... "rửa tiền". Con số 51.000 tỉ đồng giao dịch đáng ngờ chỉ riêng trong năm
2012 vừa được cơ quan ngân hàng trung ương gửi lên Ban chỉ đạo Phòng, chống
"rửa tiền" cũng là những con số cụ thể đầu tiên liên quan đến hoạt động này, được
chính thức công bố cho đến thời điểm hiện nay.
Cùng với 160 bảo cáo giao dịch đáng ngờ có liên quan đến hoạt động "rửa
tiền" được chuyển lên cơ quan công an xác minh, con số trên đây cho thấy quy mô
của các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến "rửa tiền" ngày càng tăng
mạnh. Ngoài con số 160 bảo cáo được đề cập ở trên, Việt Nam cho tới nay
vẫn chưa phát hiện một vụ "rửa tiền" cụ thể nào.
Bởi vào thời điểm tháng 7.2008, Trung tâm Thông tin phòng, chống "rửa tiền"
(nay là Cục Phòng, chống "rửa tiền" - NHNN) sau 2 năm thành lập mới nhận được
20 báo cáo về các giao dịch đáng ngờ. Một thông tin đáng chú ý, theo Cục trưởng
Cục Phòng, chống "rửa tiền" - ông Nguyễn Văn Ngọc - số lượng các giao dịch
đáng ngờ nói trên chủ yếu thuộc lĩnh vực ngân hàng, trong khi chỉ có một vài giao
dịch thuộc lĩnh vực chứng khoán và bất động sản.
Con số ít ỏi ở lĩnh vực chứng khoán và bất động sản - theo người đứng
đầu cơ quan phòng, chống "rửa tiền" - không đồng nghĩa với việc hai lĩnh vực
này hoàn toàn “sạch”, mà có thể do nhân viên ở hai lĩnh vực này còn yếu năng lực thẩm định.
Thực tế cho thấy, trong khi việc thu thập chứng cứ để kết tội giao dịch
liên quan tới "rửa tiền" rất khó và đòi hỏi sự phối hợp của các bộ ngành, các
báo cáo về giao dịch giá trị lớn hiện nay lại chủ yếu do các NH báo cáo lên
NHNN, bao gồm cả các NH trong nước, chi nhánh NH nước ngoài và NH
100% vốn nước ngoài. “Do đó ở Việt Nam bây giờ, chưa thể đánh giá "rửa
tiền" ở lĩnh vực nào nhiều" - ông Ngọc nói.
Tại Việt Nam với bối cảnh nền kinh tế sử dụng tiền mặt nhiều, cơ hội cho
tội phạm "rửa tiền" rất cao. Trước đây, "rửa tiền" thường được đánh giá liên
quan đến hoạt động chuyển tiền qua biên giới, thì nay "rửa tiền" trong nước
gia tăng gắn với hoạt động phạm pháp như buôn lậu, buôn bán ma túy, trốn
thuế, đặc biệt là tham nhũng. Vì vậy để ngăn chặn hành vi "rửa tiền", NHNN
cần phối hợp với các bộ, ngành nhanh chóng trình nghị định hướng dẫn Luật
Phòng, chống "rửa tiền" để Chính phủ ban hành. Có vậy mới mong ngăn chặn
loại tội phạm như Liberty Reserve trước khi chúng có điều kiện phát triển ở Việt Nam.
2.2.3 Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền 16