Seminar lần 1 môn: địa lý kinh tế Việt Nam | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay và những cơ hội -thách thức của Việt Nam? Tại sao phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại? Hãy liên hệ với thực tiễn Việt Nam. Việt Nam có thực sự có lợi thế về các nguồn lực tự nhiên không ? Hãy đề xuất một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
18 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Seminar lần 1 môn: địa lý kinh tế Việt Nam | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay và những cơ hội -thách thức của Việt Nam? Tại sao phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại? Hãy liên hệ với thực tiễn Việt Nam. Việt Nam có thực sự có lợi thế về các nguồn lực tự nhiên không ? Hãy đề xuất một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

39 20 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46836766
lOMoARcPSD| 46836766
Trường Đại Học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội
………………..…….. ………………………..
SEMINAR LẦN 1
Môn: Địa lý kinh tế Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Văn Đình Hiếu
MSV: 2621230652
Lớp: QL26.02
Đề tài:
1. Xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay những hội - thách thức
của Việt Nam?
2. Tại sao phát triển bền vững niềm hy vọng của nhân loại? Hãy liên hệ với
thực tiễn Việt Nam.
lOMoARcPSD| 46836766
3. Việt Nam thực sự lợi thế về các nguồn lực tự nhiên không ? Hãy đxuất
một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó?
4. Suy cho cùng, con người nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế -
hội. Tại sao? Hãy đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Câu 1.
Nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất, đa dạng, nhưng phát triển không
đều và chứa đựng nhiều mâu thuẫn
Sau sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu vào cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của thế kỷ XX và skết thúc của cuộc chiến tranh lạnh, nền kinh tế
thế giới trở nên đa dạng với các nền kinh tế khu vực, quốc gia những đặc điểm,
tính chất và con đường phát triển khác nhau
Nền kinh tế thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các nước phương
Bắc giàu có với các nước phương Nam nghèo đói, mâu thuẫn giữa các nước phương
Tây phát triển với các nước phương Đông chậm phát triển, mâu thuẫn giữa liên minh
Châu Âu (EU) với Hoa Kỳ, Nhật Bản,…; mâu thuẫn trong nội bộ từng khối. Tuy
nhiên, đó là những mâu thuẫn tất yếu trong quá trình phát triển; nền kinh tế của các
quốc gia ngày càng liên quan phụ thuộc lẫn nhau, biểu hiện sự thống nhất trong
đa dạng
Xu hướng liên kết kinh tế trong khu vực ngày càng phát triển đã tác dụng tích cực
tới sự tăng trưởng kinh tế của từng nước trong các nhóm nước xu thế toàn cầu hoá
đã tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, góp phần làm thay đổi bộ
mặt thế giới
Xu hướng nền kinh tế thế giới
Lạm phát và lãi suất vẫn ở mức cao
Lạm phát toàn cầu dự kiến giảm vào năm 2023 nhưng vẫn duy trì ở mức cao.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán lạm phát toàn cầu sẽ đạt 6,5% vào năm 2023,
giảm từ mức 8,8% vào năm 2022. Lạm phát các nền kinh tế đang phát triển sẽ thấp
hơn, dự kiến chỉ ở mức 8,1% vào năm 2023.
Ông Alexander Tziamalis, giảng viên kinh tế cấp cao tại Đại học Sheffield Hallam,
nhận định: “Có khả năng lạm phát sẽ vẫn cao hơn mức 2% mà hầu hết các ngân hàng
trung ương phương Tây đã dự báo”.
Tăng trưởng chậm và nguy cơ suy thoái
Vào năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế chắc chắn sẽ chậm lại lãi suất sẽ tăng
lên.
lOMoARcPSD| 46836766
IMF ước tính rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng 2,7% vào năm 2023, giảm
từ mức 3,2% vào năm 2022. Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế
(OECD) đã dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn, ở mức 2 ,2% trong
năm 2023, so với mức 3,1% vào năm 2022.
Nhiều nhà kinh tế bi quan hơn tin rằng suy thoái kinh tế toàn cầu thể xảy ra
vào năm 2023, chỉ ba năm sau cuộc suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra.
Cơ hội hồi phục khi Trung Quốc tái mở cửa
Sau gần 3 năm phong tỏa, xét nghiệm hàng loạt và đóng cửa biên giới, Trung Quốc
đầu tháng này đã bắt đầu dỡ bỏ chính sách không COVID” nghiêm ngặt. Động thái
tái mở cửa của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ tạo động lực mới cho quá trình phục
hồi toàn cầu.
Quá trình phục hồi nhu cầu của người tiêu dùng Trung Quốc sẽ tạo động lực cho các
nhà xuất khẩu lớn - như Indonesia, Malaysia, Thái Lan Singapore. Bên cạnh đó,
động thái gỡ bỏ các hạn chế phòng dịch cũng được coi hội phát triển cho các
thương hiệu toàn cầu - tApple đến Tesla - vốn đang bị gián đoạn hoạt động do
chiến lược “không COVID”.
Làn sóng phá sản tăng
Bất chấp nền kinh tế bị tàn phá do COVID-19, các vụ phá sản trên thực tế đã giảm ở
nhiều quốc gia vào năm 2020 và 2021 nhờ các thỏa thuận bên ngoài với các chủ nợ
và gói kích thích lớn của các chính phủ.
Chẳng hạn, tại Mỹ, 16.140 doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản vào năm 2021
22.391 doanh nghiệp đã động thái tương tự vào năm 2020. Năm 2019, con số này
mức 22.910. Xu ớng này dự kiến sẽ đảo ngược vào năm 2023 trong bối cảnh giá
năng lượng và lãi suất tăng cao.
Cômg ty bảo hiểm Allianz Trade ước tính tỷ lệ phá sản trên toàn cầu sẽ tăng hơn 10
% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023, vượt mức trước đại dịch.
Toàn cầu hoá "chết dần"
Sau khi bùng nổ dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump, cuộc chiến
thương mại và công nghệ Mỹ - Trung đang ngày càng sâu sắc dưới thời Tổng thống
Mỹ Joe Biden.
Hồi tháng 8, ông Biden đã Đạo luật Khoa học và Chip nhằm ngăn chặn xuất khẩu
chip và các thiết bị sản xuất tiên tiến sang Trung Quốc. Động thái này nhằm kìm hãm
ngành bán dẫn Trung Quốc thúc đẩy khả năng tcung tcấp trong lĩnh vực sản
xuất chip.
lOMoARcPSD| 46836766
Bước đi minh chứng mới nhất về xu hướng chuyển từ tự do thương mại và tự do
hóa kinh tế sang chủ nghĩa bảo hộ và khả năng tự cung tự cấp, đặc biệt trong các
ngành quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia./.
Những cơ hội và thách thức của Việt Nam
Cơ hội
Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình quốc tế
ngày nay tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam
thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của
thời đại. Việt Nam một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát
triển bản chủ nghĩa, nhưng Việt Namthể phát triển theo định hướng hội chủ
nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày
nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác, đã nêu
ra: loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn
đề đó đã xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
đã tạo ra hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
thể phát triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung
của tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các
nước đều có thể lưu thông, luân chuyển trên quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác
sản xuất cũng thể diễn ra nhiều quốc gia trên quy toàn cầu; doanh nghiệp
của một nước thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu… Toàn cầu hóa tạo ra
hội cho mọi quốc gia, đặc biệt các quốc gia nghèo, chậm phát triển. Việt Nam,
trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội
nhập kinh tế quốc tế, từng bước mrộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam
đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200
quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ
chức quốc tế uy tín, toàn cầu và khu vực (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại
quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp
định thương mại tự do song phương, đa phương, trong đó những hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành
tựu khoa học công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm
qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế quốc tế đã xây dựng
được, những hiệp định thương mại tự do thế hmới đã kết sẽ hiệu lực và những
hiệp định sẽ được kết mới, sẽ tiếp tục mở ra hội cho Việt Nam tiếp tục phát
triển.
Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi lên
của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước,
cản trở toàn cầu hóa một snước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ
lOMoARcPSD| 46836766
Trung Quốc, đang và sẽ ảnh hưởng lớn tới lưu thông hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng
trưởng kinh tế thế giới. Bối cảnh này những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam,
tạo ra những khó khăn, thách thức cho Việt Nam; nhưng đồng thời, cũng tạo ra
hội cho Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vào
thị trường Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở xuất khẩu
vào những thị trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút
khỏi Trung Quốc thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam
sản xuất hàng hóa để xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng rào
thương mại của Mỹ với hàng hóa Trung Quốc.
- Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học công nghệ, trực tiếp hiện
nay cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học
công nghệ, tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát
triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, giảm
xuống. Với sự phát triển của hthống internet các mạng thông tin kết nối toàn
cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận truyền tri thức. Những điều
này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, nền
giáo dục phát triển; hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng
internet cao so với nhiều nước thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam,
hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu,
phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các nước tiên
tiến trên thế giới.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á, trở
thành khu vực phát triển năng động, vai trò ngày càng quan trọng đối với phát
triển kinh tế thế giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính,
khoa học – công nghệ mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu lớn. một
nước nằm trong khu vực phát triển năng động nay, thu hút được sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế, cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam.
- Việt Nam đất nước sự ổn định chính trị - hội cao, con người thông
minh, nhân hậu, mến khách, phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam
thắng cảnh nổi tiếng, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử sức thu
hút lớn, có nhiều món ăn và nghệ thuật ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau
nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu htầng giao thông, sân bay,
cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá
đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế
thị trường đã nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù
hợp với các thông lệ tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy
mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được
thu hẹp, ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được
lOMoARcPSD| 46836766
cải thiện, thông thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy
tín. Nền kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm mức cao hàng
đầu các quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức
thu nhập ngày càng được cải thiện, đang giai đoạn dân số vàng, thị trường địa
chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh
tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh,
bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao…
Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững
trong những năm tới.
Thách thức
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ hội,
còn không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý nhiều
thách thức trong đó lại xuất phát tnhững mặt khác của chính những yếu tố tạo ra
cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước.
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ thị trường nước
ngoài ngay cả thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp
Việt Nam phổ biến doanh nghiệp nhỏ vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực
i chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm
lực tài chính hùng hậu, những sản phẩm thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần
lớn những công đoạn trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp. Hội nhập
quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực tiếp, nhanh
chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị trường
khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền
có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc
tế nghiêm trọng hơn chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước
sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp ứng phó và nếu nội
lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với
những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống
dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất
là của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự
chủ của đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu
vào cho hoạt động của nền kinh tế (vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên
liệu) là nhập khẩu từ nước ngoài thị trường bên ngoài vai trò rất lớn, rất quan
trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng
hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa
trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách
lOMoARcPSD| 46836766
thức nếu hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi
thị trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước ngoài (vay
chính phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái
phiếu quốc tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngoài cũng càng có khả năng,
điều kiện tăng nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu
quả. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế
đất nước, tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn
thu ngoại tệ cho đất nước, nhưng thể trở thành thách thức lớn nếu quản thiếu
chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu
cho các nước phát triển, để các nhà đầu nước ngoài lợi dụng các chính sách ưu
đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước, khi hết thời hạn ưu đãi,
không còn thể khai thác tài nguyên tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ đi, để lại
nhiều gánh nặng đất nước phải giải quyết… - Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ cũng không phải chỉ tạo ra hội cho kinh tế Việt Nam phát triển, rút ngắn
khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách
thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những thách thức này mới nắm bắt được
hội, chuyển hội thành hiện thực. Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn
đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những
thay đổi, phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát
triển này đối với Việt Nam một thách thức lớn. n nữa, trong khi Việt Nam,
hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc
bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử tranh chấp,… việc quản các
hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư
còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học -
công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế
đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ
đơn giản, dễ dàng. Thách thức khác đối với Việt Nam trình độ khoa học - ng
nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế,
phạm vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt
được hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi
đất nước cũng phải trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, nguồn
nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết
kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý,
nếp sống của các tầng lớp hội, thay đổi tổ chức, quản của hệ thống chính quyền
các cấp, các ngành; đây không phải vấn đề dễ dàng, thật sự những thách
thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất
với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn, so với các nước khác
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á phát
triển năng động, nhưng cũng khu vực sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng
mạnh mẽ, kìm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt Mỹ và Trung Quốc. Đặc
biệt tranh chấp chquyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức căng
lOMoARcPSD| 46836766
thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất
nước, đồng thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế đất
nước là thách thức lớn đối với Việt Nam.
- Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân
sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ,
trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào
vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển
theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn
chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển biến
chậm.
Hiện nay, Việt Nam đang thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân số
vàng của Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh
nghiệm các nước cho thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt
qua bẫy thu nhập trung bình đều diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt
Nam không cất cánh được trong thời kỳ dân số vàng, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi
bẫy thu nhập trung bình, chưa giàu đã già. Đây là một thách thức lớn. Đời sống nhân
dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng hội xu hướng
mở rộng không chỉ ảnh hưởng tới ổn định hội còn ảnh hưởng tới sử dụng
hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường được
quan tâm ngăn ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được, vẫn có xu hướng tăng lên,
nguồn lực, chi phí cho bảo vmôi trường cũng ngày càng tăng lên. Kinh tế phát triển,
thu nhập bình quân đầu người tăng lên, điều kiện sống được cải thiện, nhưng môi
trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thoái, xuống cấp; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực hoạt động của các doanh
nghiệp. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế, là những
thách thức phải vượt qua.
- Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới sẽ chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (theo đánh giá của các tổ chức quốc tế).
Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra nhanh, tình trạng ớc biển xâm
nhập sâu vào các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long; sạt lở đê biển, sói lở bờ biển
xảy ra nhiều vùng; thiên tai, bão lũ cường độ lớn xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá
lớn hơn. Nhiệt độ trung bình hằng năm Việt Nam tăng lên, tình trạng hạn n, thiếu
nước khá nghiêm trọng đã xảy ra nhiều vùng. Đầu cho phòng, chống thiên tai,
ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Đây những thách thức rất lớn đối với
phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Trên đây những hội và thách thức lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam
trong những năm tới. Xác định hội thách thức là sở để Đảng, Nhà nước,
nhân dân Việt Nam quyết tâm nắm bắt hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng hội ch
lOMoARcPSD| 46836766
nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển,
có thu nhập cao, “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 2
Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của các thế hệ tương
lai trên sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững bao gồm 4 nội dung chính: tăng trưởng kinh tế; bảo đảm
công bằng xã hội; bảo vệ môi trường và tôn trọng các quyền con người. Khái
niệm phát triển bền vững được xây dựng trên một nguyên tắc chung của sự
tiến bộ loài người - nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ.
Phát triển bền vững thể hiện quan điểm nhân văn, hiện đại hơn hẳn so với quan
điểm "phát triển bằng bất kì giá nào", bởi phát triển bằng mọi giá, là khai thác
tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho hoạt động phát triển,
không tính đến sự ảnh hưởng của nó đến chính quá trình phát triển.
Như vậy, phát triển bền vững một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành,
liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được
cụ thể và rõ nét.
Phát triển bền vững, mang tính tất yếu mục tiêu cao đẹp của quá trình
phát triển. quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng
trưởng bền vững, hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và
môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.
Phát triển bền vững là niềm hi vọng của nhân loại vì:
Phát triển bền vững được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, mục tiêu trong toàn
bộ các chính sách phát triển kinh tế - hội, gắn liền với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hòa, ổn định, bền vững, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người
dân Việt Nam nói riêng và toàn nhân loại nói chung
Phát triển bền vững sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của
con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương
lai. Phát triển bền vững một phương hướng phát triển được các quốc gia trên
thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người
Liên hệ
a) Về kinh tế
Cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng trưởng
xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất
lOMoARcPSD| 46836766
tiêu dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp,
nông thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và đa phương.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,
phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất hàng hóa chất lượng
hiệu quả; gắn sản xuất với thị trường trong nước thị trường quốc tế
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên
Nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
các chính sách tài chính, tiền tệ. Chuyển đổi hình tăng trưởng chủ yếu
theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu trên cơ s
khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên các thành tựu khoa học
và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất lao động nâng cao sức cạnh tranh
của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
b) Về xã hội
Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển văn hoá
hài hoà với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam; y
dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cưlao động theo vùng; nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí trình độ nghề nghiệp
thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa phương…
c) Về tài nguyên môi trường
Nhà nước tăng cường các biện pháp nhằm chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả
bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài
nguyên nước; khai thác hợp sdụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên
khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo phát triển tài nguyên
biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn các đô
thị lớn và khu công nghiệp…
Câu 3
Nguồn lực là toàn bộ tài sản, tài nguyên, sức mạnh vốn có sẵn sàng đưa vào sử dụng
hoặc dự trữ để phục vụ cho sản xuất đời sống con người. Đối với một quốc gia,
một địa phương, hoặc một doanh nghiệp, nguồn lực được hiểu là toàn bộ tài nguyên
thiên nhiên, tài sản quốc gia, vị trí địa lý, quy mô thị trường, vốn, trình độ khoa học
- công nghệ, sức mạnh văn hóa, con người, thchế chính trị... tạo lợi thế, sức cạnh
tranh của quốc gia, của địa phương, của doanh nghiệp trong quản lý và phát triển.
lOMoARcPSD| 46836766
Có những loại nguồn lực do thiên nhiên ban tặng, thường gọi là nguồn lực tự nhiên,
như điều kiện địa lý, tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn nước, năng lượng mặt
trời, năng lượng gió và các loại tài nguyên sinh vật và phi sinh vật khác trên mặt đất,
trong lòng đất, dưới đại dương..., đóng vai trò là những yếu tố đầu vào cực kỳ quan
trọng cho sản xuất. Nguồn lực phi tự nhiên các loại nguồn lực chủ yếu được tạo ra
bởi chính bàn tay, khối óc của con người, như thể chế quản lý, nhân lực, vốn, giá trị
văn hóa, khát vọng phát triển, tư duy lãnh đạo, sở hữu trí tuệ,...
Phân biệt nguồn lực tự nhiên phi tự nhiên nêu trên chỉ tương đối, trong các
yếu tố phi tự nhiên nhiều khi lại chứa đựng tính tự nhiên; ngược lại, trong các nguồn
lực tự nhiên cũng luôn dấu ấn của con người. Chẳng hạn, yếu tố vị trí địa lý
nguồn lực tự nhiên, nhưng định hình vị trí địa lý trong lịch sử gắn liền với quá trình
dịch chuyển lãnh thổ luôn thể hiện ý chí, sức mạnh chính trị của các nhà nước, quốc
gia - dân tộc; hoặc nhân lực là nguồn lực phi tự nhiên cấu tạo nên những con người
với phẩm chất, năng lực khác nhau luôn chứa đựng trong đó các yếu tố tự nhiên bẩm
sinh; hoặc kinh tế tuần hoàn đang làm thay đổi quan niệm về nguồn lực khi nhiều
thứ trước đây được xem phế thải thì ngày nay, lại trở thành nguồn lực đầu vào cho
các ngành sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, con người, thể chế và khoa học - công nghệ vai trò quan
trọng hàng đầu của nguồn lực phát triển. Bởi lẽ, các nguồn lực tự nhiên đang ngày
càng cạn kiệt, khan hiếm, các nguồn lực con người gắn với khoa học - công nghệ,
đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển, sức cạnh tranh thực hiện tự chủ chiến
lược của mỗi quốc gia. Bản thân các nguồn lực tự nhiên, như vị trí địa lý, đất đai,
nước, khoáng sản,... sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững hay không đều tùy thuộc
vào chất lượng nguồn nhân lực, thể chế ứng dụng khoa học - công nghệ; các nguồn
lực vốn, lao động sử dụng như thế nào đều do thể chế con người quyết định. Nhiều
nguồn tài nguyên sinh vật phi sinh vật trong tự nhiên chỉ trở thành nguồn lực đóng
góp cho sản xuất và đời sống khi có sự tham gia của khoa học - công nghệ, nhờ đó,
tạo ra những năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (như năng lượng
mặt trời, năng lượng gió, năng lượng hydro, năng lượng sóng biển, năng lượng sinh
khối) hay vật liệu mới. Kể cả kinh tế tuần hoàn cũng chỉ phát huy tác dụng khi có sự
phát triển tương xứng của khoa học - ng nghệ. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến
nhiều quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng tạo được bứt phá phát triển, đều
nhờ vào các nguồn lực phi tnhiên, trước hết chất lượng con người, chất lượng
thể chế trình độ, khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, n các quốc
gia thất bại thường rơi vào “lời nguyền tài nguyên”.
Vì vậy, cơ chế bảo đảm cho nguồn lực hữu hình từ tiềm năng biến thành động năng,
rồi chuyển hóa thành các yếu tố đầu vào cho phát triển, chính thông qua con người,
thể chế, khoa học - công nghệ. Thông qua đó, nhân lực, thchế, khoa học - công
nghệ không chỉ hiện diện với cách chuyển tải các nguồn lực vật chất khác, bản
lOMoARcPSD| 46836766
thân cũng trở thành nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển. Vì vậy, đột phá vào
thể chế phát triển, vào nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ luôn phải được xem
đột phá chiến lược. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
quốc gia về tốc độ và chất lượng phát triển thì cạnh tranh nhân tài cạnh tranh khoa
học - công nghệ đang nổi lên trở thành tâm điểm của cạnh tranh chiến lược.
Động lực động thúc đẩy, dẫn dắt một nhân hay một tổ chức theo một mục
tiêu nào đó, ý nghĩa kích thích nhu cầu, hướng dẫn hành vi một cách tích cực nhất,
nhờ đó mà con người được giải phóng năng lực thể chất và năng lượng tinh thần để
tạo nên các đột biến năng suất lao động đổi mới sáng tạo. Động lực hữu hình
thường đồng nhất với các cơ chế kích thích, thỏa mãn các lợi ích vật chất kinh tế của
con người; còn động lực vô hình là các cơ chế kích thích giá trị tinh thần. Động lực
chỉ phát huy tác dụng khi đối tượng được kích thích thay đổi hẳn ý thức, trách nhiệm,
hành vi đối với công việc thực hiện, như hứng thú với công việc, làm việc năng suất
hơn, đam mê với snghiệp, dấn thân cho tưởng, thường xuyên tìm i phương
thức cải tiến kỹ thuật,... Đó xét động lực với mỗi nhân, còn động lực cho một
tập thể, một cộng đồng dân tộc có khi được hình thành từ những phong trào thi đua
được kích hoạt bởi một biểu tượng được ảnh hưởng lan truyền từ cá nhân ra tập thể,
từ nhóm ra cộng đồng, từ cộng đồng nhỏ ra cộng đồng lớn.
Các hình thức kích thích lợi ích vật chất - kinh tế, ntăng lương, thưởng hiện vật,
phân phối theo kết quả lao động, theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế,... tạo
động lực có hiệu ứng tức thì cho phát triển. Trong những năm đầu đổi mới, chỉ bằng
cách áp dụng một số kích thích lợi ích vật chất đã tạo ra động lực mạnh mẽ giải
phóng sức sản xuất, như khoán trong các nghiệp quốc doanh, phân phối theo kết
quả lao động, giao quyền tchủ cho hộ gia đình sản xuất nông nghiệp. Nhưng sau
hơn 35 năm đổi mới, nhiều chính sách đã gặp giới hạn, không còn tạo động lực cho
phát triển, cần phải tiếp tục đổi mới, nhất là chính sách tiền lương, chính sách phân
bổ nguồn lực. Động lực vật chất - kinh tế cũng chỉ phát huy trong thời gian nhất định,
khi người lao động nhận thấy muốn giành được lợi ích nhất định thì phải nỗ lực phấn
đấu. Còn khi người lao động cảm thấy việc hưởng các lợi ích vật chất kinh tế như là
sự đương nhiên, giảm sút ý chí nỗ lực vươn lên, thì ý nghĩa động lực không còn.
Điều đó cho thấy, động lực vật chất - kinh tế phải được kết nối, liên thông, phối hợp
đồng bộ với động lực tinh thần thì mới tạo được hệ động lực cho phát triển.
Các hình thức kích thích năng lượng tinh thần của con người lại gần như không
giới hạn, như phát huy tinh thần dân tộc, lương tâm nghề nghiệp, nhu cầu khẳng định
mình, khát vọng cống hiến, định hướng giá trị, sử dụng hiệu ứng lan tỏa để cổ vũ,
động viên, khích lệ,... thông qua giáo dục, tuyên truyền, vận động, thi đua khen
thưởng. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, chính tinh thần yêu nước - động
lực tinh thần đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp chúng ta chuyển hóa thành sức mạnh
vật chất để chiến thắng các thế lực đế quốc, thực dân. Hệ động lực tinh thần lúc đó
lOMoARcPSD| 46836766
được khơi dậy thông qua nhiều chế, như hình thành phong trào yêu nước sâu rộng;
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo tiền bối trở thành biểu tượng truyền cảm
hứng, khát vọng cho toàn dân tộc; lựa chọn, tôn vinh các nhân tố anh hùng xả thân
nước tiêu biểu tạo ra hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, lấy giá trị cao nhất giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hệ động lực trong thời kỳ mới, bên cạnh những cách
làm truyền thống, cần chú ý đến nhu cầu khẳng định nhân con người trên từng
lĩnh vực, ngành, nghề; lương tâm nghề nghiệp, khát vọng cống hiến dựa trên tôn
trọng, phát huy năng khiếu, sở trường từng cá nhân; tuyên truyền, cổ vũ, tạo nên các
phong trào thi đua - yêu nước kích hoạt trúng các giá trị của con người Việt Nam để
nhân lên sức mạnh gấp bội; xây dựng biểu tượng, nhân tố mới có sức ảnh hưởng lan
tỏa trong từng ngành, nghề, giới, lớp tuổi, thế hệ. Tuy nhiên, động lực tinh thần nếu
không đi kèm với động lực vật chất - kinh tế dễ dẫn tới duy ý chí, khó duy tlâu bền
các tính năng của động lực, nhất trong điều kiện kinh tế thị trường. vậy, phối
hợp linh hoạt giữa phát huy các động lực vật chất - kinh tế mà bản chất là kích thích
lợi ích vật chất, với phát huy các động lực văn a - tinh thần bản chất định
hướng giá trị sống, lao động, cống hiến - đây là yêu cầu đặt ra khi xây dựng hệ động
lực cho phát triển.
Một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực
Thứ nhất: Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu. Theo đó, hoàn thiện thể chế,
xây dựng cơ chế chính sách và quy định liên quan đến quản trị dữ liệu; chính
sách thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và tạo lập dữ liệu
đóng góp vào hạ tầng dữ liệu quốc gia; quản lý dữ liệu xuyên quốc gia; b
sung các quy định về bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, giao dịch điện tử pháp
luật về thương mại điện tử thuế. Bên cạnh việc triển khai Chiến lược dữ
liệu quốc gia, cần đồng thời soát, sửa đổi, ban hành mới quy định, chính
sách về tài sản dữ liệu, mua, bán, chuyển nhượng dữ liệu, cung cấp dịch vụ dữ
liệu,.... để tạo thị trường dữ liệu phát triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp
luật. Rà soát, sửa đổi quy định, chính sách về tài chính, phí, lệ phí để cơ quan
nhà nước cung cấp dữ liệu cho doanh nghiệp, tạo nguồn thu hợp pháp để duy
trì, phát triển dữ liệu và có cơ chế thu mua dữ liệu từ doanh nghiệp.
Thứ hai, khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh tế.
Cụ thể, sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Khai thác dữ liệu
để nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc; cắt giảm các hoạt động thủ công,
giấy tờ thay bằng các hệ thống thông tin, xử trên dữ liệu số. Thực hiện chỉ
đạo điều hành trên dữ liệu, quyết định chỉ đạo phải có thuyết minh lấy dữ liệu
làm sở lựa chọn phương án. Tăng cường sử dụng các công nghtrí tuệ nhân
tạo, dữ liệu lớn trong hoạt động quản trị nhà nước, hỗ trợ ra quyết định….
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu các doanh nghiệp dữ liệu. Trong
đó hình thành những doanh nghiệp chuyên vdữ liệu thuộc các nhóm, nh
vực: vấn chiến lược quản trị dữ liệu; cung cấp nội dung số; cung cấp nền
lOMoARcPSD| 46836766
tảng, dịch vụ quản trị dữ liệu. Ưu tiên thúc đẩy các ngành nghề mới về dữ liệu
mới theo nhu cầu phát triển. Xây dựng dữ liệu vườn ươm doanh nghiệp….
Thứ tư, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực. Tăng
cường hợp tác quốc tế về dữ liệu. Trước mắt là hợp tác với các nước ASEAN
triển khai sáng kiến quản trị dữ liệu xuyên biên giới để thúc đẩy dòng chảy dữ
liệu giữa các nước an toàn và phù hợp với quy định pháp luật của từng nước.
Bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số,
phát triển nhân lực về dữ liệu, phát triển đội ngũ khoa học về dữ liệu trong các
lĩnh vực.
Câu 4
Con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội vì:
Trên sở tổng kết 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991 (Đại hội VII), Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
(12)
. Theo
đó, mục tiêu phát triển con người được cụ thể hóa hơn nữa việc chú ý tới quyền
con người. Phải đảm bảo quyền con người, quyền công dân để mọi người được phát
triển toàn diện. Nâng cao năng lực tạo chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ, nhất dân chủ trực tiếp đphát huy mạnh mmọi khả năng sáng tạo
đảm bảo đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực để phát triển đất nước. Phát huy
lợi thế dân số con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng
dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 một lần nữa chỉ ra 9 giải pháp
để hiện thực hóa quan điểm con người vừa mục tiêu, vừa động lực trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa động lực trong phát triển
của xã hội, cũng nghĩa con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng
thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền lợi ích của dân tộc, đất nước quyền làm chủ của nhân dân. Kết
hợp phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động,
các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ,
lao động giỏi; sống văn hóa, nghĩa tình; tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự tế bào lành mạnh của hội, môi
trường trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công
tác, học tập, chiến đấu phải môi trường rèn luyện tác phong làm việc kỷ luật,
năng suất hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân
cách con ngươic và nền văn hóa Việt Nam
(13)
. Như vậy, trong ơng lĩnh 2011 của
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc kế thừa những quan điểm từ các Cương lĩnh
quan điểm của các Đại hội trước đó, Đại hội XI nhận thức sâu sắc hơn khi cho
lOMoARcPSD| 46836766
rằng con quyền con người trong phát triển kinh tế gắn với lợi ích của đất nước,
việc phát triển kinh tế phải trở thành môi trường để hình thành và bồi đắp các giá trị
con người Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa ơng lĩnh phát triển
đất nước 2011, xét riêng về quan điểm con người vừa mục tiêu, vừa là động lực
trong phát triển kinh tế, Đại hội XII làm hơn nữa nội dung về nhận thức về con
người trong phát triển: Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển bền
vững quản lý phát triển hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; giải
quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; bảo đảm hài hòa về lợi ích, về quan
hệ xã hội, quan tâm thích đáng tới các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng
bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu.
Về nhiệm vụ, Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hội nhập quốc tế; tạo môi trường để hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mvề nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân
tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các
giá trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp
hèn, lạc hậu, chống các quan điểm hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu làm tha
hóa con người. Có giải pháp khắc phục sự xuống cấp vđạo đức xã hội, khắc phục
những mặt hạn chế của con người Việt Nam
(14)
.
Nhấn mạnh thêm về con người động lực của sphát triển, Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người và
nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tquốc. Xây dựng tạo môi trường điều kiện hội thuận lợi
nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm thào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam trung tâm, mục tiêu động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi mới
phát triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập trung
nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa
chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hgiá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu
niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn hiệu quả sự
xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo v
và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy
lOMoARcPSD| 46836766
mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ
môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa
thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân.
Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng thực hiện các chế tài, quy định,
quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về hội thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự
chênh lệch vtrình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai
tầng hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, các khu công nghiệp... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng.
Phê phán ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng thực
hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường
văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩyi bệnh quan liêu, bè
phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
doanh nhân và kinh doanh
(15)
.
Cụ thể hóa tinh thần đó, Chiến lược phát triển đất nước 10 năm 2021-2030 khẳng
định nội dung về phát huy nhân tố con người trong snghiệp phát triển Việt Nam là:
Xây dựng con người Việt Nam phat triển toàn diện, sức khỏe, trình độ, ý thức,
trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực, nhất nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Như vậy, kể từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay, sau hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng phát
triển đất nước, từ chỗ quan niệm về nhân tố con người còn sơ khai, khái quát, đến
nay duy nhận thức về nhân tố nhân dân, con người trong mục tiêu lãnh đạo
cách mạng và phát triển đất nước của Đảng ngày càng trở nên hoàn thiện. Trong mô
hình phát triển của Việt Nam, con người vừa mục tiêu, vừa động lực, trung
tâm, là động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vị trí của nhân tố con người trở thành trung tâm của sự phát triển kinh tế nói
riêng quá trình phát triển toàn diện nói chung. Đó sự nhất quán xuyên suốt trong
tiến trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Một là, tiếp tục đổi mới quản Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy quản
phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng
lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân
lực. Đổi mới các chính sách, chế, công cụ phát triển và quản nguồn nhân
lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu
lOMoARcPSD| 46836766
nhập, bảo hiểm, bảo trợ hội, điều kiện nhà các điều kiện sinh sống,
định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân
tài.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ sử dụng hợp lý Ngân sách
Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng
kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực
hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công
bằng hội. Đẩy mạnh hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho
phát triển nhân lực. Nhà nước chế, chính sách để huy động các nguồn
vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình
thức: (i) Trực tiếp đầu tư xây dựng sở giáo dục, đào tạo, sở y tế, văn hoá,
thể dục thể thao; (ii) Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy
động, phát huy vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân
lực; (iii) Đẩy mạnh tạo chế phù hợp đthu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); (iv) Thu hút đầu trực tiếp (FDI)
của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu trực tiếp xây dựng các sở
giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ
yếu, quốc sách hàng đầu đphát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ
nay đến 2020 những thời kỳ tiếp theo. Một snội dung chính trong quá
trình đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (i) Hoàn thiện
hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời xây dựng xã hội học tập; (ii) Mở rộng giáo
dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học sở với chất lượng
ngày càng cao. Phát triển mạnh nâng cao chất lượng các trường dạy nghề
đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch thực hiện quy hoạch mạng lưới
trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước; ( iii ) Đổi mới mạnh mẽ
nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo
bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy học tất cả các
cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng
thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào
tạo ngoại ngữ; (iv) Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc
học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo tất cả các bậc học.
Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi đánh giá kết quả giáo
dục đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; (v) Đổi mới chính
sách đối với nhà giáo, cán bộ quản giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên
cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào giáo dục đào tạo; (vi) Phát
triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực chất
lượng cao một đột phá chiến lược. Chú trọng phát hiện, bồi ỡng, phát huy
nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
lOMoARcPSD| 46836766
Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh
doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực
chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng bản là: (i) Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật vphát triển nguồn nhân lực phù hợp
với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lluật
pháp quốc tế về lĩnh vực này chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện;
(ii) Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực thế giới. Xây
dựng lộ trình nội dung, chương trình phương pháp giáo dục đào tạo để
đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc
thù Việt Nam; (iii) Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực
hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi
về giáo dục đào tạo đại học, sau đại học các đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học, công nghệ giữa các sở giáo dục đại học Việt Nam thế giới;
(iv) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học tài năng kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam nước ngoài
tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học nghiên cứu khoa học, công
nghệ tại các sở giáo dục đại học Việt Nam; (v) Tiếp tục thực hiện chính
sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi
đầu nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề đẳng cấp quốc tế
vào Việt Nam hoạt động.
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46836766 lOMoAR cPSD| 46836766
Trường Đại Học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội
………………..…….. ……………………….. SEMINAR LẦN 1
Môn: Địa lý kinh tế Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Văn Đình Hiếu MSV: 2621230652 Lớp: QL26.02 Đề tài: 1.
Xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay và những cơ hội - thách thức của Việt Nam? 2.
Tại sao phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại? Hãy liên hệ với thực tiễn Việt Nam. lOMoAR cPSD| 46836766 3.
Việt Nam có thực sự có lợi thế về các nguồn lực tự nhiên không ? Hãy đề xuất
một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó? 4.
Suy cho cùng, con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế -
xã hội. Tại sao? Hãy đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân
lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Câu 1.
Nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất, đa dạng, nhưng phát triển không
đều và chứa đựng nhiều mâu thuẫn

Sau sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu vào cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của thế kỷ XX và sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh, nền kinh tế
thế giới trở nên đa dạng với các nền kinh tế khu vực, quốc gia có những đặc điểm,
tính chất và con đường phát triển khác nhau
Nền kinh tế thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các nước phương
Bắc giàu có với các nước phương Nam nghèo đói, mâu thuẫn giữa các nước phương
Tây phát triển với các nước phương Đông chậm phát triển, mâu thuẫn giữa liên minh
Châu Âu (EU) với Hoa Kỳ, Nhật Bản,…; mâu thuẫn trong nội bộ từng khối. Tuy
nhiên, đó là những mâu thuẫn tất yếu trong quá trình phát triển; nền kinh tế của các
quốc gia ngày càng liên quan và phụ thuộc lẫn nhau, biểu hiện sự thống nhất trong đa dạng
Xu hướng liên kết kinh tế trong khu vực ngày càng phát triển đã có tác dụng tích cực
tới sự tăng trưởng kinh tế của từng nước trong các nhóm nước và xu thế toàn cầu hoá
đã tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, góp phần làm thay đổi bộ mặt thế giới
Xu hướng nền kinh tế thế giới
Lạm phát và lãi suất vẫn ở mức cao
Lạm phát toàn cầu dự kiến giảm vào năm 2023 nhưng vẫn duy trì ở mức cao.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán lạm phát toàn cầu sẽ đạt 6,5% vào năm 2023,
giảm từ mức 8,8% vào năm 2022. Lạm phát ở các nền kinh tế đang phát triển sẽ thấp
hơn, dự kiến chỉ ở mức 8,1% vào năm 2023.
Ông Alexander Tziamalis, giảng viên kinh tế cấp cao tại Đại học Sheffield Hallam,
nhận định: “Có khả năng lạm phát sẽ vẫn cao hơn mức 2% mà hầu hết các ngân hàng
trung ương phương Tây đã dự báo”.
Tăng trưởng chậm và nguy cơ suy thoái
Vào năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế chắc chắn sẽ chậm lại và lãi suất sẽ tăng lên. lOMoAR cPSD| 46836766
IMF ước tính rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng 2,7% vào năm 2023, giảm
từ mức 3,2% vào năm 2022. Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) đã dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn, ở mức 2 ,2% trong
năm 2023, so với mức 3,1% vào năm 2022.
Nhiều nhà kinh tế bi quan hơn và tin rằng suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra
vào năm 2023, chỉ ba năm sau cuộc suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra.
Cơ hội hồi phục khi Trung Quốc tái mở cửa
Sau gần 3 năm phong tỏa, xét nghiệm hàng loạt và đóng cửa biên giới, Trung Quốc
đầu tháng này đã bắt đầu dỡ bỏ chính sách “không COVID” nghiêm ngặt. Động thái
tái mở cửa của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ tạo động lực mới cho quá trình phục hồi toàn cầu.
Quá trình phục hồi nhu cầu của người tiêu dùng Trung Quốc sẽ tạo động lực cho các
nhà xuất khẩu lớn - như Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Singapore. Bên cạnh đó,
động thái gỡ bỏ các hạn chế phòng dịch cũng được coi là cơ hội phát triển cho các
thương hiệu toàn cầu - từ Apple đến Tesla - vốn đang bị gián đoạn hoạt động do
chiến lược “không COVID”.
Làn sóng phá sản tăng
Bất chấp nền kinh tế bị tàn phá do COVID-19, các vụ phá sản trên thực tế đã giảm ở
nhiều quốc gia vào năm 2020 và 2021 nhờ các thỏa thuận bên ngoài với các chủ nợ
và gói kích thích lớn của các chính phủ.
Chẳng hạn, tại Mỹ, 16.140 doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản vào năm 2021 và
22.391 doanh nghiệp đã có động thái tương tự vào năm 2020. Năm 2019, con số này
ở mức 22.910. Xu hướng này dự kiến sẽ đảo ngược vào năm 2023 trong bối cảnh giá
năng lượng và lãi suất tăng cao.
Cômg ty bảo hiểm Allianz Trade ước tính tỷ lệ phá sản trên toàn cầu sẽ tăng hơn 10
% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023, vượt mức trước đại dịch.
Toàn cầu hoá "chết dần"
Sau khi bùng nổ dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump, cuộc chiến
thương mại và công nghệ Mỹ - Trung đang ngày càng sâu sắc dưới thời Tổng thống Mỹ Joe Biden.
Hồi tháng 8, ông Biden đã ký Đạo luật Khoa học và Chip nhằm ngăn chặn xuất khẩu
chip và các thiết bị sản xuất tiên tiến sang Trung Quốc. Động thái này nhằm kìm hãm
ngành bán dẫn Trung Quốc và thúc đẩy khả năng tự cung tự cấp trong lĩnh vực sản xuất chip. lOMoAR cPSD| 46836766
Bước đi là minh chứng mới nhất về xu hướng chuyển từ tự do thương mại và tự do
hóa kinh tế sang chủ nghĩa bảo hộ và khả năng tự cung tự cấp, đặc biệt là trong các
ngành quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia./.
Những cơ hội và thách thức của Việt Nam Cơ hội
Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình quốc tế
ngày nay tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam
thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của
thời đại. Việt Nam là một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày
nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác, đã nêu
ra: loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn
đề đó đã xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
đã tạo ra cơ hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có
thể phát triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung
của tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các
nước đều có thể lưu thông, luân chuyển trên quy mô toàn cầu; phân công và hợp tác
sản xuất cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên quy mô toàn cầu; doanh nghiệp
của một nước có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu… Toàn cầu hóa tạo ra cơ
hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm phát triển. Việt Nam,
trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội
nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam
đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ
chức quốc tế có uy tín, toàn cầu và khu vực (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại
quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp
định thương mại tự do song phương, đa phương, trong đó có những hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành
tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm
qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế quốc tế đã xây dựng
được, những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ có hiệu lực và những
hiệp định sẽ được ký kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp tục phát triển.
Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi lên
của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước,
cản trở toàn cầu hóa ở một số nước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ lOMoAR cPSD| 46836766
Trung Quốc, đang và sẽ ảnh hưởng lớn tới lưu thông hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng
trưởng kinh tế thế giới. Bối cảnh này có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam,
tạo ra những khó khăn, thách thức cho Việt Nam; nhưng đồng thời, cũng tạo ra cơ
hội cho Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vào
thị trường Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở xuất khẩu
vào những thị trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút
khỏi Trung Quốc và thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam
sản xuất hàng hóa để xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng rào
thương mại của Mỹ với hàng hóa Trung Quốc. -
Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện
nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học –
công nghệ, tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát
triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia, giảm
xuống. Với sự phát triển của hệ thống internet và các mạng thông tin kết nối toàn
cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và truyền bá tri thức. Những điều
này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, có nền
giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng
internet cao so với nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam, cơ
hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu,
phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới. -
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, trở
thành khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát
triển kinh tế thế giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính,
khoa học – công nghệ mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, có những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu tư lớn. Là một
nước nằm trong khu vực phát triển năng động nay, thu hút được sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế, cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam. -
Việt Nam là đất nước có sự ổn định chính trị - xã hội cao, con người thông
minh, nhân hậu, mến khách, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam
thắng cảnh nổi tiếng, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử có sức thu
hút lớn, có nhiều món ăn và nghệ thuật ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau
nhiều năm phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay,
cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá
đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế
thị trường đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù
hợp với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy
mạnh, các quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được
thu hẹp, ngày càng công khai, minh bạch; môi trường kinh doanh ngày càng được lOMoAR cPSD| 46836766
cải thiện, thông thoáng, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy
tín. Nền kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao hàng
đầu các quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức
thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa
chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh
tế Việt Nam đang được cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh,
bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao…
Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới. Thách thức
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ có cơ hội, mà
còn có không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều
thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra
cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước. -
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước
ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp
Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực
tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm
lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần
lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp. Hội nhập
quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực tiếp, nhanh
chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động trên thị trường
khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những đồng tiền
có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc
tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất nước
sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp ứng phó và nếu nội
lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với
những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống
dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất
là của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự
chủ của đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu
vào cho hoạt động của nền kinh tế (vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên
liệu) là nhập khẩu từ nước ngoài và thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan
trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng
hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa
trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách lOMoAR cPSD| 46836766
thức nếu hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi
thị trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước ngoài (vay
chính phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái
phiếu quốc tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngoài cũng càng có khả năng,
điều kiện tăng nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu
quả. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế
đất nước, tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn
thu ngoại tệ cho đất nước, nhưng có thể trở thành thách thức lớn nếu quản lý thiếu
chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu
cho các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng các chính sách ưu
đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước, khi hết thời hạn ưu đãi,
không còn có thể khai thác tài nguyên và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ đi, để lại
nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải quyết… - Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh tế Việt Nam phát triển, rút ngắn
khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách
thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những thách thức này mới nắm bắt được
cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn
đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những
thay đổi, phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát
triển này đối với Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam,
hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc
bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các
hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư
còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học -
công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế
đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ
đơn giản, dễ dàng. Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - công
nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế,
phạm vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt
được cơ hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi
đất nước cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn
nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết
kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý,
nếp sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền
các cấp, các ngành; đây không phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách
thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất
với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn, so với các nước khác -
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát
triển năng động, nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng
mạnh mẽ, kìm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đặc
biệt là tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức căng lOMoAR cPSD| 46836766
thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất
nước, đồng thời phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế đất
nước là thách thức lớn đối với Việt Nam. -
Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân
sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ,
trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào
vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển
theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao còn
chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển biến chậm.
Hiện nay, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân số
vàng của Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh
nghiệm các nước cho thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt
qua bẫy thu nhập trung bình đều diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt
Nam không cất cánh được trong thời kỳ dân số vàng, Việt Nam sẽ khó thoát khỏi
bẫy thu nhập trung bình, chưa giàu đã già. Đây là một thách thức lớn. Đời sống nhân
dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội có xu hướng
mở rộng không chỉ ảnh hưởng tới ổn định xã hội mà còn ảnh hưởng tới sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường được
quan tâm ngăn ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được, vẫn có xu hướng tăng lên,
nguồn lực, chi phí cho bảo vệ môi trường cũng ngày càng tăng lên. Kinh tế phát triển,
thu nhập bình quân đầu người tăng lên, điều kiện sống được cải thiện, nhưng môi
trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thoái, xuống cấp; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hoạt động của các doanh
nghiệp. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế, là những
thách thức phải vượt qua. -
Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới sẽ chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (theo đánh giá của các tổ chức quốc tế).
Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra nhanh, tình trạng nước biển xâm
nhập sâu vào các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long; sạt lở đê biển, sói lở bờ biển
xảy ra ở nhiều vùng; thiên tai, bão lũ cường độ lớn xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá
lớn hơn. Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Việt Nam tăng lên, tình trạng hạn hán, thiếu
nước khá nghiêm trọng đã xảy ra ở nhiều vùng. Đầu tư cho phòng, chống thiên tai,
ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng cao. Đây là những thách thức rất lớn đối với
phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Trên đây là những cơ hội và thách thức lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam
trong những năm tới. Xác định cơ hội và thách thức là cơ sở để Đảng, Nhà nước,
nhân dân Việt Nam quyết tâm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ lOMoAR cPSD| 46836766
nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển,
có thu nhập cao, “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Câu 2
Khái niệm phát triển bền vững
• Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của các thế hệ tương
lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
• Phát triển bền vững bao gồm 4 nội dung chính: tăng trưởng kinh tế; bảo đảm
công bằng xã hội; bảo vệ môi trường và tôn trọng các quyền con người. Khái
niệm phát triển bền vững được xây dựng trên một nguyên tắc chung của sự
tiến bộ loài người - nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ.
• Phát triển bền vững thể hiện quan điểm nhân văn, hiện đại hơn hẳn so với quan
điểm "phát triển bằng bất kì giá nào", bởi phát triển bằng mọi giá, là khai thác
tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho hoạt động phát triển,
không tính đến sự ảnh hưởng của nó đến chính quá trình phát triển.
• Như vậy, phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành,
liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét.
• Phát triển bền vững, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình
phát triển. Là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng
trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và
môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.
Phát triển bền vững là niềm hi vọng của nhân loại vì:
• Phát triển bền vững được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, mục tiêu trong toàn
bộ các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hòa, ổn định, bền vững, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người
dân Việt Nam nói riêng và toàn nhân loại nói chung
• Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của
con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương
lai. Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia trên
thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người Liên hệ a) Về kinh tế
• Cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng trưởng
xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và lOMoAR cPSD| 46836766
tiêu dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp,
nông thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương.
• Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,
phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất hàng hóa có chất lượng
và hiệu quả; gắn sản xuất với thị trường trong nước và thị trường quốc tế
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên
• Nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
các chính sách tài chính, tiền tệ. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu
theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở
khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và các thành tựu khoa học
và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh
của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. b) Về xã hội
• Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển văn hoá
hài hoà với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam; xây
dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng; nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp
thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa phương…
c) Về tài nguyên môi trường
• Nhà nước tăng cường các biện pháp nhằm chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả
và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài
nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên
khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên
biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đô
thị lớn và khu công nghiệp… Câu 3
Nguồn lực là toàn bộ tài sản, tài nguyên, sức mạnh vốn có sẵn sàng đưa vào sử dụng
hoặc dự trữ để phục vụ cho sản xuất và đời sống con người. Đối với một quốc gia,
một địa phương, hoặc một doanh nghiệp, nguồn lực được hiểu là toàn bộ tài nguyên
thiên nhiên, tài sản quốc gia, vị trí địa lý, quy mô thị trường, vốn, trình độ khoa học
- công nghệ, sức mạnh văn hóa, con người, thể chế chính trị... tạo lợi thế, sức cạnh
tranh của quốc gia, của địa phương, của doanh nghiệp trong quản lý và phát triển. lOMoAR cPSD| 46836766
Có những loại nguồn lực do thiên nhiên ban tặng, thường gọi là nguồn lực tự nhiên,
như điều kiện địa lý, tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn nước, năng lượng mặt
trời, năng lượng gió và các loại tài nguyên sinh vật và phi sinh vật khác trên mặt đất,
trong lòng đất, dưới đại dương..., đóng vai trò là những yếu tố đầu vào cực kỳ quan
trọng cho sản xuất. Nguồn lực phi tự nhiên là các loại nguồn lực chủ yếu được tạo ra
bởi chính bàn tay, khối óc của con người, như thể chế quản lý, nhân lực, vốn, giá trị
văn hóa, khát vọng phát triển, tư duy lãnh đạo, sở hữu trí tuệ,...
Phân biệt nguồn lực tự nhiên và phi tự nhiên nêu trên chỉ là tương đối, vì trong các
yếu tố phi tự nhiên nhiều khi lại chứa đựng tính tự nhiên; ngược lại, trong các nguồn
lực tự nhiên cũng luôn có dấu ấn của con người. Chẳng hạn, yếu tố vị trí địa lý là
nguồn lực tự nhiên, nhưng định hình vị trí địa lý trong lịch sử gắn liền với quá trình
dịch chuyển lãnh thổ luôn thể hiện ý chí, sức mạnh chính trị của các nhà nước, quốc
gia - dân tộc; hoặc nhân lực là nguồn lực phi tự nhiên cấu tạo nên những con người
với phẩm chất, năng lực khác nhau luôn chứa đựng trong đó các yếu tố tự nhiên bẩm
sinh; hoặc kinh tế tuần hoàn đang làm thay đổi quan niệm về nguồn lực khi nhiều
thứ trước đây được xem là phế thải thì ngày nay, lại trở thành nguồn lực đầu vào cho các ngành sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, con người, thể chế và khoa học - công nghệ có vai trò quan
trọng hàng đầu của nguồn lực phát triển. Bởi lẽ, các nguồn lực tự nhiên đang ngày
càng cạn kiệt, khan hiếm, các nguồn lực con người gắn với khoa học - công nghệ,
đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển, sức cạnh tranh và thực hiện tự chủ chiến
lược của mỗi quốc gia. Bản thân các nguồn lực tự nhiên, như vị trí địa lý, đất đai,
nước, khoáng sản,... sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững hay không đều tùy thuộc
vào chất lượng nguồn nhân lực, thể chế và ứng dụng khoa học - công nghệ; các nguồn
lực vốn, lao động sử dụng như thế nào đều do thể chế và con người quyết định. Nhiều
nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong tự nhiên chỉ trở thành nguồn lực đóng
góp cho sản xuất và đời sống khi có sự tham gia của khoa học - công nghệ, nhờ đó,
tạo ra những năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (như năng lượng
mặt trời, năng lượng gió, năng lượng hydro, năng lượng sóng biển, năng lượng sinh
khối) hay vật liệu mới. Kể cả kinh tế tuần hoàn cũng chỉ phát huy tác dụng khi có sự
phát triển tương xứng của khoa học - công nghệ. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến
nhiều quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng tạo được bứt phá phát triển, đều
nhờ vào các nguồn lực phi tự nhiên, trước hết là chất lượng con người, chất lượng
thể chế và trình độ, khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, còn các quốc
gia thất bại thường rơi vào “lời nguyền tài nguyên”.
Vì vậy, cơ chế bảo đảm cho nguồn lực hữu hình từ tiềm năng biến thành động năng,
rồi chuyển hóa thành các yếu tố đầu vào cho phát triển, chính là thông qua con người,
thể chế, khoa học - công nghệ. Thông qua đó, nhân lực, thể chế, khoa học - công
nghệ không chỉ hiện diện với tư cách chuyển tải các nguồn lực vật chất khác, mà bản lOMoAR cPSD| 46836766
thân nó cũng trở thành nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển. Vì vậy, đột phá vào
thể chế phát triển, vào nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ luôn phải được xem
là đột phá chiến lược. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
quốc gia về tốc độ và chất lượng phát triển thì cạnh tranh nhân tài và cạnh tranh khoa
học - công nghệ đang nổi lên trở thành tâm điểm của cạnh tranh chiến lược.
Động lực là động cơ thúc đẩy, dẫn dắt một cá nhân hay một tổ chức theo một mục
tiêu nào đó, có ý nghĩa kích thích nhu cầu, hướng dẫn hành vi một cách tích cực nhất,
nhờ đó mà con người được giải phóng năng lực thể chất và năng lượng tinh thần để
tạo nên các đột biến năng suất lao động và đổi mới sáng tạo. Động lực hữu hình
thường đồng nhất với các cơ chế kích thích, thỏa mãn các lợi ích vật chất kinh tế của
con người; còn động lực vô hình là các cơ chế kích thích giá trị tinh thần. Động lực
chỉ phát huy tác dụng khi đối tượng được kích thích thay đổi hẳn ý thức, trách nhiệm,
hành vi đối với công việc thực hiện, như hứng thú với công việc, làm việc năng suất
hơn, đam mê với sự nghiệp, dấn thân cho lý tưởng, thường xuyên tìm tòi phương
thức cải tiến kỹ thuật,... Đó là xét động lực với mỗi cá nhân, còn động lực cho một
tập thể, một cộng đồng dân tộc có khi được hình thành từ những phong trào thi đua
được kích hoạt bởi một biểu tượng được ảnh hưởng lan truyền từ cá nhân ra tập thể,
từ nhóm ra cộng đồng, từ cộng đồng nhỏ ra cộng đồng lớn.
Các hình thức kích thích lợi ích vật chất - kinh tế, như tăng lương, thưởng hiện vật,
phân phối theo kết quả lao động, theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế,... tạo
động lực có hiệu ứng tức thì cho phát triển. Trong những năm đầu đổi mới, chỉ bằng
cách áp dụng một số kích thích lợi ích vật chất đã tạo ra động lực mạnh mẽ giải
phóng sức sản xuất, như khoán trong các xí nghiệp quốc doanh, phân phối theo kết
quả lao động, giao quyền tự chủ cho hộ gia đình sản xuất nông nghiệp. Nhưng sau
hơn 35 năm đổi mới, nhiều chính sách đã gặp giới hạn, không còn tạo động lực cho
phát triển, cần phải tiếp tục đổi mới, nhất là chính sách tiền lương, chính sách phân
bổ nguồn lực. Động lực vật chất - kinh tế cũng chỉ phát huy trong thời gian nhất định,
khi người lao động nhận thấy muốn giành được lợi ích nhất định thì phải nỗ lực phấn
đấu. Còn khi người lao động cảm thấy việc hưởng các lợi ích vật chất kinh tế như là
sự đương nhiên, giảm sút ý chí nỗ lực vươn lên, thì ý nghĩa động lực không còn.
Điều đó cho thấy, động lực vật chất - kinh tế phải được kết nối, liên thông, phối hợp
đồng bộ với động lực tinh thần thì mới tạo được hệ động lực cho phát triển.
Các hình thức kích thích năng lượng tinh thần của con người lại gần như không có
giới hạn, như phát huy tinh thần dân tộc, lương tâm nghề nghiệp, nhu cầu khẳng định
mình, khát vọng cống hiến, định hướng giá trị, sử dụng hiệu ứng lan tỏa để cổ vũ,
động viên, khích lệ,... thông qua giáo dục, tuyên truyền, vận động, thi đua khen
thưởng. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, chính tinh thần yêu nước - động
lực tinh thần đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp chúng ta chuyển hóa thành sức mạnh
vật chất để chiến thắng các thế lực đế quốc, thực dân. Hệ động lực tinh thần lúc đó lOMoAR cPSD| 46836766
được khơi dậy thông qua nhiều cơ chế, như hình thành phong trào yêu nước sâu rộng;
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo tiền bối trở thành biểu tượng truyền cảm
hứng, khát vọng cho toàn dân tộc; lựa chọn, tôn vinh các nhân tố anh hùng xả thân
vì nước tiêu biểu tạo ra hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, lấy giá trị cao nhất là giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hệ động lực trong thời kỳ mới, bên cạnh những cách
làm truyền thống, cần chú ý đến nhu cầu khẳng định cá nhân con người trên từng
lĩnh vực, ngành, nghề; lương tâm nghề nghiệp, khát vọng cống hiến dựa trên tôn
trọng, phát huy năng khiếu, sở trường từng cá nhân; tuyên truyền, cổ vũ, tạo nên các
phong trào thi đua - yêu nước kích hoạt trúng các giá trị của con người Việt Nam để
nhân lên sức mạnh gấp bội; xây dựng biểu tượng, nhân tố mới có sức ảnh hưởng lan
tỏa trong từng ngành, nghề, giới, lớp tuổi, thế hệ. Tuy nhiên, động lực tinh thần nếu
không đi kèm với động lực vật chất - kinh tế dễ dẫn tới duy ý chí, khó duy trì lâu bền
các tính năng của động lực, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì vậy, phối
hợp linh hoạt giữa phát huy các động lực vật chất - kinh tế mà bản chất là kích thích
lợi ích vật chất, với phát huy các động lực văn hóa - tinh thần mà bản chất là định
hướng giá trị sống, lao động, cống hiến - đây là yêu cầu đặt ra khi xây dựng hệ động lực cho phát triển.
Một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực
Thứ nhất: Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu. Theo đó, hoàn thiện thể chế,
xây dựng cơ chế chính sách và quy định liên quan đến quản trị dữ liệu; chính
sách thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và tạo lập dữ liệu
và đóng góp vào hạ tầng dữ liệu quốc gia; quản lý dữ liệu xuyên quốc gia; bổ
sung các quy định về bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, giao dịch điện tử và pháp
luật về thương mại điện tử và thuế. Bên cạnh việc triển khai Chiến lược dữ
liệu quốc gia, cần đồng thời rà soát, sửa đổi, ban hành mới quy định, chính
sách về tài sản dữ liệu, mua, bán, chuyển nhượng dữ liệu, cung cấp dịch vụ dữ
liệu,.... để tạo thị trường dữ liệu phát triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp
luật. Rà soát, sửa đổi quy định, chính sách về tài chính, phí, lệ phí để cơ quan
nhà nước cung cấp dữ liệu cho doanh nghiệp, tạo nguồn thu hợp pháp để duy
trì, phát triển dữ liệu và có cơ chế thu mua dữ liệu từ doanh nghiệp.
Thứ hai, khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh tế.
Cụ thể, sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Khai thác dữ liệu
để nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc; cắt giảm các hoạt động thủ công,
giấy tờ thay bằng các hệ thống thông tin, xử lý trên dữ liệu số. Thực hiện chỉ
đạo điều hành trên dữ liệu, quyết định chỉ đạo phải có thuyết minh lấy dữ liệu
làm cơ sở lựa chọn phương án. Tăng cường sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân
tạo, dữ liệu lớn trong hoạt động quản trị nhà nước, hỗ trợ ra quyết định….
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu và các doanh nghiệp dữ liệu. Trong
đó hình thành những doanh nghiệp chuyên về dữ liệu thuộc các nhóm, lĩnh
vực: tư vấn chiến lược quản trị dữ liệu; cung cấp nội dung số; cung cấp nền lOMoAR cPSD| 46836766
tảng, dịch vụ quản trị dữ liệu. Ưu tiên thúc đẩy các ngành nghề mới về dữ liệu
mới theo nhu cầu phát triển. Xây dựng dữ liệu vườn ươm doanh nghiệp….
Thứ tư, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực. Tăng
cường hợp tác quốc tế về dữ liệu. Trước mắt là hợp tác với các nước ASEAN
triển khai sáng kiến quản trị dữ liệu xuyên biên giới để thúc đẩy dòng chảy dữ
liệu giữa các nước an toàn và phù hợp với quy định pháp luật của từng nước.
Bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số,
phát triển nhân lực về dữ liệu, phát triển đội ngũ khoa học về dữ liệu trong các lĩnh vực. Câu 4
Con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội vì:
Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991 (Đại hội VII), Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển(12). Theo
đó, mục tiêu phát triển con người được cụ thể hóa hơn nữa ở việc chú ý tới quyền
con người. Phải đảm bảo quyền con người, quyền công dân để mọi người được phát
triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và
đảm bảo đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực để phát triển đất nước. Phát huy
lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng
dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 một lần nữa chỉ ra 9 giải pháp
để hiện thực hóa quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển
của xã hội, cũng có nghĩa là con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng
thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết
hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động,
các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ,
lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công
tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện tác phong làm việc có kỷ luật,
năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân
cách con ngươic và nền văn hóa Việt Nam(13). Như vậy, trong Cương lĩnh 2011 của
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc kế thừa những quan điểm từ các Cương lĩnh
và quan điểm của các Đại hội trước đó, Đại hội XI nhận thức sâu sắc hơn khi cho lOMoAR cPSD| 46836766
rằng con quyền con người trong phát triển kinh tế gắn bó với lợi ích của đất nước,
việc phát triển kinh tế phải trở thành môi trường để hình thành và bồi đắp các giá trị con người Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa Cương lĩnh phát triển
đất nước 2011, xét riêng về quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
trong phát triển kinh tế, Đại hội XII làm rõ hơn nữa nội dung về nhận thức về con
người trong phát triển: Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển bền
vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; giải
quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; bảo đảm hài hòa về lợi ích, về quan
hệ xã hội, quan tâm thích đáng tới các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng
bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu.
Về nhiệm vụ, Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường để hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân
tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các
giá trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp
hèn, lạc hậu, chống các quan điểm hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu làm tha
hóa con người. Có giải pháp khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục
những mặt hạn chế của con người Việt Nam(14).
Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người và
nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi
nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi mới
phát triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập trung
nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu
niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự
xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ
và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy lOMoAR cPSD| 46836766
mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ
môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa
thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân.
Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định,
quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự
chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai
tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, các khu công nghiệp... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng.
Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực
hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường
văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè
phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
doanh nhân và kinh doanh(15).
Cụ thể hóa tinh thần đó, Chiến lược phát triển đất nước 10 năm 2021-2030 khẳng
định nội dung về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển Việt Nam là:
Xây dựng con người Việt Nam phat triển toàn diện, có sức khỏe, trình độ, có ý thức,
trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Như vậy, kể từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay, sau hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và phát
triển đất nước, từ chỗ quan niệm về nhân tố con người còn sơ khai, khái quát, đến
nay tư duy và nhận thức về nhân tố nhân dân, con người trong mục tiêu lãnh đạo
cách mạng và phát triển đất nước của Đảng ngày càng trở nên hoàn thiện. Trong mô
hình phát triển của Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là trung
tâm, là động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vị trí của nhân tố con người trở thành trung tâm của sự phát triển kinh tế nói
riêng và quá trình phát triển toàn diện nói chung. Đó là sự nhất quán xuyên suốt trong
tiến trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy quản
lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng
lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân
lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn nhân
lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu lOMoAR cPSD| 46836766
nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống,
định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách
Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng
kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực
hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công
bằng xã hội. Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho
phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn
vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình
thức: (i) Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá,
thể dục thể thao; (ii) Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy
động, phát huy vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân
lực; (iii) Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); (iv) Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI)
của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở
giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ
yếu, là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ
nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong quá
trình đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (i) Hoàn thiện
hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; (ii) Mở rộng giáo
dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng
ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề
và đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới
trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước; ( iii ) Đổi mới mạnh mẽ
nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo
ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các
cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng
thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào
tạo ngoại ngữ; (iv) Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc
học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học.
Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo
dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; (v) Đổi mới chính
sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên
cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo; (vi) Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy
nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức. lOMoAR cPSD| 46836766
Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh
doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực
chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là: (i) Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp
với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật
pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện;
(ii) Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây
dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để
đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc
thù Việt Nam; (iii) Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực
hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi
về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới;
(iv) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công
nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; (v) Tiếp tục thực hiện chính
sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi
đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế
vào Việt Nam hoạt động.