



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI --------- HỌC PHẦN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Chuyên đề thảo luận 1
Giáo viên hướng dẫn : TS.Đinh Thị Thanh Thủy
Mã lớp học phần : 2314TLAW0111 Nhóm thực hiện : 01
Hà Nội, 12/03/2023 Mục lục
Lời nói đầu.........................................................................................................................1
I. Lý thuyết.....................................................................................................................2
1. So sánh về khái niệm các hành vi vi phạm pháp luật...............................................2
2. So sánh về căn cứ pháp lý của vi phạm pháp luật....................................................3
3. So sánh về tính nguy hiểm cho xã hội......................................................................3
4. So sánh về các chế tài vi phạm pháp luật.................................................................3
5. So sánh về trách nhiệm pháp lý của các vi phạm pháp luật......................................4
6. So sánh về các yếu tố cấu thành của các vi phạm pháp luật.....................................6
7. Tình huống cụ thể..................................................................................................12
II. Bài tập.......................................................................................................................14
1. Tình huống 1..........................................................................................................14
2. Tình huống 2..........................................................................................................15
Lời kết..............................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo............................................................................................................18 Lời nói đầu
gay trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta, pháp luật luôn đóng một vai
trò vô cùng quan trọng trong việc điều hành xã hội hoạt động theo một cách
Ncông bằng và đúng đắn. Pháp luật tạo ra những quy tắc, tiêu chuẩn cho hành vi
và hoạt động của mỗi người dân chúng ta. Đây còn là một công cụ để nhà nước có thể dễ
dàng quản lý, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng là một cơ sở để các cơ quan pháp lý xử lý những cá nhân, tổ chức có hành vi không chuẩn mực.
Pháp luật bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm hình sự, dân sự, lao động, hành
chính, kinh tế và quốc tế... Chính vì vậy, việc nắm bắt và hiểu rõ sự khác nhau trong mỗi
lĩnh vực cũng là một cách để mỗi người dân chúng ta có thể trở thành những công dân
tốt, bảo vệ được quyền lợi của cá nhân và tránh những hành vi vi phạm pháp luật. Để từ
đó đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội, của đất nước.
Nắm bắt được tầm quan trọng trong việc hiểu biết, tuân thủ pháp luật của mỗi cá nhân,
bài tiểu luận của chúng tôi mang đến cho người đọc những tình huống cụ thể, gần gũi
trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó giúp cho người đọc có một góc nhìn cận cảnh hơn về
những lĩnh vực khác nhau của pháp luật. Dễ dàng hơn trong việc phân biệt các hành vi vi
phạm pháp luật, bao gồm hình sự, dân sự, hành chính,...
Ngoài ra, tình huống chia tài sản thừa kế hi vọng sẽ giúp cho người đọc có thêm cho
mình những hiểu biết về vấn đề này. Bảo vệ tối đa quyền lợi của bản thân, giải quyết các
tranh chấp tài sản trong quá trình phân phối tài sản – một vấn đề vốn đã rất nhạy cảm,
nhất là đối với những thành viên trong gia đình. 1 I. Lý thuyết
1. So sánh về khái niệm các hành vi vi phạm pháp luật
Trước hết, “Vi phạm pháp luật” là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp
luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý gây hậu quả thiệt hại cho xã hội.
a. Vi phạm pháp luật hình sự
Vi phạm hình sự (hay còn gọi là tội phạm) là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy
định cụ thể trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý. Hành vi vi phạm này xâm phạm đến:
-Độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
- Chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
- Quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức
- Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
b. Vi phạm pháp luật hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
c. Vi phạm pháp luật dân sự
Vi phạm dân sự là vi phạm pháp luật trong đó có những hành vi xâm phạm đến các quan
hệ nhân thân và tài sản được pháp luật bảo vệ bằng những chế tài có tính răn đe để bảo vệ
công lý, lẽ phải, quyền công bằng giữa cong người với nhau. Hành vi vi phạm dân sự chủ
yếu là vi phạm các nguyên tắc của bộ luật dân sự; vi phạm các điều cấm; vi phạm nghĩa
vụ dân sự; vi phạm nghĩa vụ dân sự; vi phạm hợp đồng dân sự; các loại vi phạm khác…
d. Vi phạm pháp luật kỉ luật
Vi phạm kỷ luật được hiểu là hành vi vi phạm những quy tắc, quy định chung, được đặt
ra và thống nhất thực hiện tại một môi trường nhất định, đảm bảo mang đến các lợi ích
tiếp cận hiệu quả của tập thể, cũng như quản lý nhân viên, thành viên trong tập thể đó. Đó 2
có thể là môi trường học tập, môi trường làm việc, cần đến sự quan lý, điều hành của một
nhóm người. Với công cụ được xác định quy định, nội quy mà thành viên cần tuân thủ.
2. So sánh về căn cứ pháp lý của vi phạm pháp luật
a. Vi phạm hình sự
Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Luật tố tụng hình sự 2015
b. Vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
Luật tố tụng hành chính 2015 c. Vi phạm dân sự Bộ luật Dân sự 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
d. Vi phạm kỷ luật dân sự
Luật cán bộ, công chức 2008
3. So sánh về tính nguy hiểm cho xã hội
Vi phạm hình sự: Tính nguy hiểm cho xã hội ở mức cao nhất.
Vi phạm hành chính: Tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với vi phạm hình sự.
Vi phạm dân sự: Tính nguy hiểm cho xã hội thấp.
Vi phạm kỷ luật nhà nước: Tính nguy hiểm cho xã hội thấp.
4. So sánh về các chế tài vi phạm pháp luật
Do mỗi ngành có các nguyên tắc điều chỉnh khác nhau nên khi có vi phạm thì chế tài cũng khác nhau.
Chế tài hành chính là bộ phận của quy phạm pháp luật hành chính xác định biện
pháp xử lý của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự. Các hình thức xử phạt hành chính gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có
thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính; Trục xuất. 3
Chế tài hình sự là bộ phận hợp thành của quy phạm pháp luật hình sự, xác định
loại và giới hạn mức độ hình phạt có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi
phạm tội được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự đó.
Chế tài dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự khi họ thực hiện, thực hiện không
đúng các nghĩa vụ dân sự.
Chế tài kỷ luật là biện pháp xử lý của Nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ
thể có hành vi vi phạm quy định về kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc vi
phạm pháp luật đã bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan có thẩm quyền kết luận
bằng văn bản về hành vi vi phạm pháp luật. Các chế tài kỷ luật bao gồm: Khiển
trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc.
Nhìn chung, các chế tài hành chính và hình sự mang tính bảo vệ lợi ích công, lợi ích của
Nhà nước. Dựa vào mức độ nghiêm trọng thì chế tài hành chính áp dụng đối với các hành
vi ít nghiêm trọng hơn chế tài hình sự, do đó các hình thức xử phạt hành chính cũng ít
nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội phạm.
Mặt khác, đối với chế tài dân sự, nó được đặt ra để bảo vệ quyền và lợi ích mang tính tư
giữa các chủ thể trong xã hội với nhau, là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho cam kết
giữa các bên được thực hiện.
5. So sánh về trách nhiệm pháp lý của các vi phạm pháp luật a. Giống nhau
Đều là hậu quả bất lợi do Nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp
luật, theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài được quy định
tại phần chế tài của quy phạm pháp luật. b. Khác nhau Tiêu Hình sự Dân sự Hành chính Kỷ luật chí Khái Trách nhiệm
Trách nhiệm dân Trách nhiệm hành Trách nhiệm kỷ niệm
hình sự là trách sự là trách nhiệm chính là loại trách luật là trách nhiệm nhiệm pháp lý pháp lý mang
nhiệm pháp lý đặt pháp lý áp dụng 4
áp dụng đối với tính tài sản được ra đối với các cá đối với cán bộ, các cá nhân, áp dụng đối với nhân, tổ chức vi công chức, viên pháp nhân người vi phạm phạm hành chính chức do vi phạm thương mại vi
pháp luật dân sự hay nói cách khác kỷ luật, vi phạm
phạm pháp luật nhằm bù đắp về TNHC là trách quy tắc hay nghĩa
phải chịu những tổn thất vật chất, nhiệm thi hành vụ trong hoạt động
hậu quả pháp lý tinh thần cho nghĩa vụ do pháp công vụ hoặc vi bất lợi về hành người bị hại. luật hành chính phạm pháp luật mà vi phạm tội của quy định và trách chưa đến mức truy mình.
nhiệm phát sinh do cứu trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ hình sự. đó. Chủ Nhà nước Nhà nước Nhà nước Thủ trưởng, cơ thể áp quan đơn vị, xí dụng nghiệp Chủ Cá nhân, pháp
Áp dụng đối với Các chủ thể trong Cá nhân khi thực
thể bị nhân thương chủ thể vi phạm trách nhiệm hành hiện hành vi vi áp mại có hành vi
pháp luật dân sự. chính là Nhà nước pham kỷ luật hoặc dụng vi phạm pháp
đối với tổ chức, cá vi phạm pháp luật luật hình sự bị
nhân có hành vi vi khác mà theo quy coi là tội phạm phạm pháp luật định phải chịu theo quy định hành chính. trách nhiệm kỷ của luật hình sự. luật. Mục
Trừng trị người, Buộc người có Xử lý vi phạm Đảm bảo trật tự đích pháp nhân hành vi vi phạm hành chính, loại nội bộ của cơ thương mại pháp luật vào
trừ những vi phạm quan, tổ chức. phạm tội mà nghĩa vụ bồi pháp luật, ổn định
còn giáo dục họ thường cho trật tự quản lý trên
ý thức tuân theo người bị tổn hại các lĩnh vực quản 5
pháp luật và các do hành vi đó lý hành chính nhà quy tắc của gây ra nhằm khắc nước.
cuộc sống, ngăn phục những tổn ngừa họ phạm thất đã gây ra. tội mới,… Các Phạt chính Bồi thường Cảnh cáo Khiển trách hình Phạt bổ sung thiệt hại; Phạt tiền Cảnh cáo thức Các biện Các biện pháp Hạ bậc lương xử lý pháp khắc khắc phục. Hạ ngạch phục. Cách chức
Trình Được áp dụng Được áp dụng Được áp dụng Được áp dụng theo tự áp theo trình tự tư theo trình tự tư theo trình tự tư trình tự tư pháp dụng pháp pháp pháp
6. So sánh về các yếu tố cấu thành của các vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. a. Khách quan Vi phạm Hình sự
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp tất cả những biểu hiện của tội phạm diễn ra và
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Dĩ nhiên, không phải mọi trường hợp phạm tội, các
biểu hiện này đều hiện diện trên thực tế.
Các biểu hiện bên ngoài của tội phạm tạo thành mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả; Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm (công cụ, phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…phạm tội).
Thứ nhất: Hành vi khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của tội phạm là tất cả
những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức
nhất định (hành động hoặc không hành động) gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho 6
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành vi giết người theo quy định tại điều
123 bộ luật hình sự có thể là hành vi hành động hoặc không hành động. Hành vi hành
động để giết người như người phạm tội thực hiện hành vi đâm, chém, bắn, đánh, bóp cổ,
treo cổ, ... với người bị hại.
Thứ hai: Hành vi gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của người phạm tội phải
là hành vi gây ra hậu quả và hậu quả đó gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu hành vi không
gây ra hậu quả, tức hành vi chỉ trong suy nghĩ thì không thể được coi là mặt khách quan
của tội phạm được. Hành vi giết người theo điều 123 đã xâm phạm tính mạng con người
và gây ra cái chết cho nạn nhân. Hậu quả xâm hại quan hệ xã hội là tính mạng con người
được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hành vi khách quan và trái pháp
luật phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Ví như tội giết người thì hành vi đâm,
chém, bóp cổ, … gây ra chết người, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng
dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người.
Thứ tư: Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm như công cụ, phương tiện, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…phạm tội. Các yếu tố này có thể tùy thuộc từng tội
phạm khác nhau mà biểu hiện khác nhau.
Vi phạm Hành chính
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm hành
chính. Nói một cách đơn giản, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm
phạm đến nguyên tắc quản lý nhà nước, đã được pháp luật ngăn không cho thực hiện
bằng cách quy định nó trong văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt hành chính. Theo
đó, Nhà nước sẽ chỉ ra rằng, hành vi nào là không được làm, bị cấm thực hiện, khi vi
phạm sẽ bị phạt như thế nào. Như vậy, khi xem xét, đánh giá hành vi của các tổ chức, cá
nhân có phải vi phạm hành chính hay không đều phải xác định được hành vi đó vi phạm
điều gì trong các văn bản quy phạm pháp luật, có căn cứ pháp lý rõ ràng.
Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính
chất phức tạp hơn. Không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu trái pháp luật mà còn có thể có
nhiều yếu tố đi kèm khác như:
-Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. 7
-Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm.
-Công cụ phương tiện vi phạm.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Nhìn chung, hậu quả của vi phạm hành chính không
nhất thiết phải là thiệt hại cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi của cá nhân,
tổ chức bị voi là vi phạm hành chính khi hành vi đó đã gây ra những thiệt hại cụ thể trên
thực tế. Việc các định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính với thiệt
hại cụ thể xảy ra là cần thiết để bảo đảm nguyên tắc cá nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách
nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra. b. Chủ quan Vi phạm Hình sự
Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý. Lỗi là trạng thái
tâm lý của tội phạm được đánh giá dưới các góc nhìn về động cơ và mục đích của hành vi.
Vi phạm hành chính
Về cơ bản, dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi
của chủ thể vi phạm. Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối
với hậu quả xấu trong hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi
của mình mà vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….)
tại thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó.
Như vậy, lỗi chỉ là những gì được hình thành trong suy nghĩ, tâm trí của chủ thể vi phạm hành chính.
Cần lưu ý rằng, trên thực tế, khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm
hành chính, còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lỗi của tổ chức. Ý kiến thứ nhất xác
định, bởi vi phạm hành chính được áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức vi phạm, song lỗi
lại là “trạng thái tâm lý” còn đối với tổ chức thì khó có thể xác định được tâm lý bởi nó
không phải một cá nhân cụ thể. Đối với ý kiến còn lại lại cho rằng, cần phải xác định lỗi
của tổ chức khi vi phạm thì mới có đầy đủ cơ sở để xử phạt vi phạm. Do vậy, lỗi của tổ
chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện
nhiệm vụ được tổ chức giao. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định chung
rằng tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi hành vi do mình gây ra. c. Chủ thể 8
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã
thực hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng
tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vi phạm hình sự
Chủ thể tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm hai đối tượng: cá
nhân và pháp nhân thương mại.
Chủ thể của tội phạm là cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, có đủ khả năng nhận thức và
chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, đạt độ tuổi theo luật định. Hành vi đó được
quy định theo pháp luật hình sự.
Pháp luật hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178,
248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Ngoài những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều luật
nêu trên thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm cũng có thể là pháp nhân thương mại. Việc pháp nhân
thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự
của cá nhân. Cá nhân trong pháp nhân thương mại có hành vi trái pháp luật vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, dù cho pháp nhân do cá nhân đó làm chủ đã chịu trách nhiệm hình sự.
Vi phạm hành chính
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có đầy đủ năng lực
chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. 9
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể vi phạm hành chính phải là người không
mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều
chỉnh hành vi của mình, và trong độ tuổi pháp luật quy định:
-Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể vi phạm hành chính trong trường hợp
thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, chỉ khi nào họ thực hiện hành vi trái pháp
luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành
vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Hoặc thực hiện một hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi
đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra thì mới bị xử phạt hành chính.
-Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp
Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác
được thành lập theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. Vi phạm dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan hệ đó.
Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân, (công dân
Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân.
Để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các chủ thể phải có đủ tư cách chủ
thể. Cho nên, có loại quan hệ chủ thể là công dân như công dân có quyền để lại di sản
thừa kế còn các tổ chức chỉ được hưởng thừa kế theo di chúc; có loại chủ thể chỉ được
tham gia vào loại quan hệ nhất định như hộ gia đình được tham gia trong các quan hệ sử
dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hay Nhà nước là chủ sở hữu (thực hiện quyền
của chủ sở hữu) đối với các tài nguyên thiên nhiên và đất đai... Trong phần lớn các quan
hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia là công dân, pháp nhân như các quan hệ vê
quyền sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại... 10
Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể quyền luôn luôn được xác định, chủ thể nghĩa vụ
có thể là một “người” cụ thể, cũng có thể là tất cả những người còn lại.
Vi phạm kỉ luật nhà nước
Chủ thể cùa Vi phạm Kỷ luật nhà nước là cá nhân và cá nhân ấy thì phải có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. d. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành
vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu
tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những căn cứ để
phân loại hành vi vi phạm pháp luật. Vi phạm hình sự
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm. Bất cứ hành vi phạm tội
nào cũng đều gây thiệt hại hoặc hướng tới gây thiệt hại cho quan hệ xã hội nhất định
được luật hình sự bảo vệ. Không gây thiệt hại hoặc hướng tới gây thiệt hại cho đối tượng
là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì hành vi khách quan không có tính gây thiệt
hại và do vậy cũng không có tội phạm.
Theo Bộ luật hình sự 2015 thì những khách thể của tội phạm bao gồm: độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên mức độ khái quát của các quan hệ xã hội có thể chia khách thể của tội phạm
thành ba loại, bao gồm: Khách thể chung của tội phạm, Khách thể loại của tội phạm,
Khách thể trực tiếp của tội phạm.
Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính là
hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật
hành chính quy định và bảo vệ. Nói cách khác, vi phạm hành chính là hành vi trái với các 11
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội như quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự, an toàn xã hội, … Điều đó đã được
quy định trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vi phạm dân sự
Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành 5 nhóm sau:
1) Tài sản: bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá được bằng tiền và
các quyền tài sản - nhóm khách thể của quan hệ pháp luật về sở hữu;
2) Hành vi (bao gồm cả hành vi hành động và hành vi không hành động).
Đây là nhóm khách thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự;
3) Các kết quả của hoạt động tỉnh thần, sáng tạo là nhóm khách thể của quyền sở hữu trí tuệ;
4) Các giá trị nhân thân là nhóm khách thể của quyền nhân thân được pháp luật dân sự bảo vệ;
5) Quyền sử dụng đất, là nhóm khách thể có tính chất đặc thù trong các
quan hệ pháp luật dân sự về chuyển quyền sử dụng đất.
Vi phạm kỉ luật nhà nước
Khách thể của Vi phạm Kỷ luật là cá nhân (học tập, làm việc trong Tổ chức, cơ quan,
trường học) vi phạm Kỷ luật trong quá trình học tập, làm việc. 7. Tình huống cụ thể a. Tình huống
An (20 tuổi), nhận thức bình thường. Bách (26 tuổi) là hàng xóm của An. An, Bách có
nhà liền kề nhau nên nhiều lần xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp về đất đai. Vào 16h32’
ngày 14/02/2023 trong một lần cãi nhau về việc tranh chấp này, An cho rằng Bách xây
lấn sang đất nhà An, anh Bách đã bị anh An trong lúc nóng giận dùng gậy đánh bị thương
với tỷ lệ thương tích sức khỏe là 25%. 12 b. Phân tích
Xác định hành vi vi phạm pháp luật - Dựa trên 4 dấu hiệu:
oHành vi cụ thể: An dùng gậy đánh Bách bị thương.
oHành vi của An trái pháp luật.
oAn có lỗi - chủ thể An có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý (20 tuổi, nhận thức bình thường).
→ Hành vi của An là hành vi vi phạm pháp luật.
Xác định yếu tố cấu thành
- Chủ thể của vi phạm pháp luật: Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có
năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật. – Khách thể của
vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp
luật xâm hại tới. Ở đây, chủ thể của vi phạm pháp luật là An có năng lực chịu trách
nhiệm pháp lý (20 tuổi, nhận thức bình thường).
- Khách thể của vi phạm pháp luật: Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của
khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong
hành vi trái pháp luật. Ở đây, khách thể của vi phạm pháp luật là sức khỏe của Bách
được pháp luật bảo vệ bị An xâm phạm: An nóng giận dùng gậy đánh Bách bị thương
với tỷ lệ thương tích 25%.
- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: Mă ƒt khách quan của vi phạm pháp luâ ƒt là
những biểu hiê ƒn ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luâ ƒt. Nó bao gồm
hành vi trái pháp luâ ƒt, sự thiê ƒt hại cho xã hô ƒi và quan hê ƒ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luâ ƒt và sự thiê ƒt hại cho xã hô ƒi, thời gian, địa điểm, công cụ vi phạm.
oHành vi vi phạm pháp luật: An dùng gậy đánh Bách bị thương.
oHậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra: Bách bị thương với tỷ lệ thương tích sức khỏe là 25%.
oMối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả: hành vi của An
trực tiếp gây ra hậu quả Bách bị thương.
oThời gian: 16h32’ ngày 14/02/2023. oCông cụ: gậy. 13
- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Mă ƒt chủ quan của vi phạm pháp luâ ƒt gồm lỗi, đô ƒng
cơ, mục đích vi phạm pháp luâ ƒt
oLỗi: Cố ý trực tiếp vì An nhận thức rõ tính chất của hành vi dùng gậy đánh người
là nguy hiểm, hành vi đó có thể gây ra tổn hại cho sức khoẻ của Bách và An muốn
gây ra tổn hại cho sức khoẻ của Bách.
oĐộng cơ: An và Bách mâu thuẫn, xích mích về chuyện đất đai, An cho rằng Bách
xây nhà lấn sang đất nhà mình.
oMục đích vi phạm pháp luật: An muốn giải quyết mâu thuẫn với Bách bằng bạo
lực để giải tỏa tâm lý nóng giận. II. Bài tập
Tình huống: Vợ chồng ông Nam, bà Mai kết hôn năm 2010, có bốn người con chung là
anh Hòa (2012), chị Thanh (2014), Phượng (2016) và Hoa (2020). Do tính cách ko hợp
nhau, ông Nam và bà Mai thường xuyên to tiếng với nhau và đã nhiều lần bà Mai bị ông
Nam đánh đập, hành hạ.
Do bị bệnh hiểm nghèo, bà Mai qua đời tháng 5/2021, có để lại di chúc truất quyền thừa
kế của ông Nam và cho anh Hoà hưởng ½ di sản, còn ½ di sản chia đều cho chị Thanh, Phượng và Hoa.
Sau khi bà Mai qua đời, ông Nam kiện đến toà án, xin được chia di sản của bà Mai. Toà
án xác định được tài sản chung hợp nhất của ông Nam, bà Mai là 3 tỷ đồng.
1. Tình huống 1: Anh chị hãy chia thừa kế trong trường hợp trên.
2. Tình huống 2: Giả sử trước khi chết, bà Mai lập di chúc miệng cho Hoa hưởng ½
tài sản. Hãy chia thừa kế trong trường hợp trên. 1. Tình hu n ố g 1
Di chúc của bà Mai có hiệu lực, ta tiến hành chia thừa kế theo di chúc.
Theo quy định tại Điều 612, Bộ Luật dân sự năm 2015, đối với sở hữu chung hợp nhất có
thể phân chia (như sở hữu chung của vợ chồng) thì về nguyên tắc khi một bên chết trước
thì một nửa khối tài sản chung đó là tài sản của người chết và sẽ được coi là di sản để
phân chia thừa kế. Toà án xác định được tài sản chung hợp nhất của ông Nam, bà Mai là
3 tỷ đồng. Đây là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, do đó, 1.5 tỷ đồng là di sản để
phân chia thừa kế, 1.5 tỷ đồng còn lại được chia cho ông Nam. 14
Điều 621, Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm
tính mạng, sức khỏe hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó sẽ không được hưởng di sản.
Trong trường hợp này, ông Nam đã nhiều lần đánh đập, hành hạ bà Mai. Tuy nhiên tại
thời điểm chia di sản, ông Nam không bị kết án về hành vi này. Do vậy ông Nam không
phải người không có quyền được hưởng di sản.
Trước khi chết, bà Mai có để lại di chúc truất quyền thừa kế của ông Nam. Theo điều
644, Bộ Luật dân sự năm 2015, đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc bao gồm vợ hoặc chồng của người chết; cha, mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi; con
chưa thành niên (con trai, con gái, con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú mà dưới
18 tuổi); con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) không có khả năng lao động. Những
người này phải được hưởng ⅔ của một suất thừa kế theo pháp luật nếu không được người
lập di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng nhưng giá trị phần di sản được hưởng là quá ít.
Theo đó, những người được hưởng di sản ở đây là ông Nam, anh Hòa (2012), chị Thanh
(2014), Phượng (2016) và Hoa (2020).
Giả sử di sản được theo pháp luật, ⅔ một suất thừa kế có giá trị 1.5/5 x ⅔ = 200 triệu.
Theo di chúc, ông Nam bị truất quyền thừa kế, anh Hoà hưởng ½ di sản có giá trị lớn hơn
1 suất thừa kế, còn ½ di sản chia đều cho chị Thanh, Phượng và Hoa. Tức nếu theo chia
theo di chúc của bà Mai, ông Nam không được hưởng di sản 1.5 tỉ của bà Mai, Hòa được
hưởng 750 triệu, Thanh, Phượng và Hoa hưởng 250 triệu. Ông Nam được hưởng ít hơn 1 suất thừa kế.
Vậy, theo điều 644, Bộ Luật dân sự năm 2015, ông Nam được hưởng ⅔ của một suất
thừa kế và bằng 200 triệu. Còn lại 1.3 tỉ đồng, chia theo di chúc của bà Mai. Anh Hòa
được hưởng 650 triệu đồng, chị Thanh, Phượng và Hoa, mỗi người hưởng 216,667 triệu đồng. 2. Tình huống 2
Di chúc của bà Mai có hiệu lực, ta tiến hành chia thừa kế theo di chúc.
Theo quy định tại Điều 612, BLDS 2015, đối với sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia
(như sở hữu chung của vợ chồng) thì về nguyên tắc khi một bên chết trước thì một nửa
khối tài sản chung đó là tài sản của người chết và sẽ được coi là di sản để phân chia thừa 15
kế. Toà án xác định được tài sản chung hợp nhất của ông Nam, bà Mai là 3 tỷ đồng. Đây
là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, do đó, 1.5 tỷ đồng là di sản để phân chia thừa
kế, 1.5 tỷ đồng còn lại được chia cho ông Nam.
Điều 621, Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm
tính mạng, sức khỏe hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó sẽ không được hưởng di sản.
Trong trường hợp này, ông Nam đã nhiều lần đánh đập, hành hạ bà Mai. Tuy nhiên tại
thời điểm chia di sản, ông Nam không bị kết án về hành vi này. Do vậy ông Nam không
phải người không có quyền được hưởng di sản.
Theo quy định tại Điều 644 Bộ Luật dân sự năm 2015, đối tượng được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc bao gồm vợ hoặc chồng của người chết; cha,
mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi; con chưa thành niên (con trai, con gái, con nuôi, con trong giá thú,
con ngoài giá thú mà dưới 18 tuổi); con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) không có
khả năng lao động. Những người này phải được hưởng ⅔ của một suất thừa kế theo pháp
luật nếu không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng nhưng giá trị
phần di sản được hưởng là quá ít. Theo đó, những người được hưởng di sản ở đây là ông
Nam, anh Hòa (2012), chị Thanh (2014), Phượng (2016) và Hoa (2020).
Theo di chúc miệng, Hoa được hưởng ½ di sản: 1,5 tỷ : 2 = 750tr. Số di sản còn lại
không được định đoạt sẽ được chia theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 651 Bộ Luật
dân sự năm 2015, ông Nam và 4 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên được
hưởng phần di sản bằng nhau là: 750tr : 5 = 150tr.
Giả sử di sản của bà Mai được theo pháp luật, khi đó ⅔ một suất thừa kế có giá trị 1.5/5
x ⅔ = 200 triệu. Vậy nên phần di sản được nhận bị thiếu của ông Nam, Hòa, Thanh và
Phượng, mỗi người 50 triệu sẽ được bù từ phần của Hoa.
Vậy Hoa được hưởng 700 triệu, ông Nam được hưởng 1,7 tỷ; Thanh, Hòa, Phượng được hưởng 200tr. 16 Lời kết
Với tình hình kinh tế, xã hội trong và ngoài nước ngày càng phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, pháp luật đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Điều này đòi hỏi chúng
ta cần phải nghiên cứu, nhìn nhận nó một cách kỹ lưỡng và thường xuyên cập nhật những
cái mới, những điều chính của nhà nước.
Hi vọng những góc nhìn mới qua những tình huống cụ thể nêu trên sẽ giúp độc giả có
thêm những hiểu biết và nâng cao nhận thức của mình. Khi chúng ta tuân thủ pháp luật,
chúng ta đang bảo vệ quyền lợi của mình và đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Ngược
lại, khi vi phạm pháp luật, chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm và hậu quả của hành động của mình. 17 Tài liệu tham khảo
- Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Giáo trình Pháp luật đại cương Trường Đại học Thương Mại.
- Ngô Thị Phương Trang, Ngô Thị Thu Hà, Phạm Mai Ngân, Hoàng Thị Phương Thảo &
Lê Nguyễn Thành Đạt. (2021). Phân biệt các loại vi phạm pháp luật. Truy cập
09/03/2023, từ https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/phap-
luat-dai-cuong/phan-biet-cac-loai-vi-pham-phap-luat-nhom-4/20901140 18