



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN LỊCH SỦ ĐẢNG
---------- BÀI THẢO LUẬN ĐỀ TÀI:
SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN 2/1930 VÀ LUẬN CƯƠNG
THÁNG 10/1930 CỦA ĐẢNG VÀ CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC MỚI 1939-1945
Nhóm: 3 Lớp học phần: 241_HCMI0131 _18
Người hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Diệp Hà Nội, 2025 lOMoAR cPSD| 47206071 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 2
NỘI DUNG .......................................................................................................................... 3
2.1.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) .............................................................. 3
2.1.2. Luận cương chính trị (10/1930) ......................................................................... 7
2.1.3. Chủ trương chiến lược mới (1939-1945)........................................................... 9
2.2. So sánh các văn kiện ............................................................................................. 12
2.2.1. So sánh điểm giống nhau ................................................................................. 12
2.2.2. So sánh điểm khác biệt .................................................................................... 14
2.3. Liên hệ thực tiễn .................................................................................................... 18
2.3.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) ........................................................... 18
2.3.2. Luận cương chính trị (10/1930) ...................................................................... 20
2.3.3. Chủ trương chiến lược mới (1939-1945) ........................................................ 22
2.4. Bài học rút ra ......................................................................................................... 23
2.4.1. Tính linh hoạt và khả năng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử .......................... 24
2.4.2. Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn ................................................................ 24
2.4.3. Tinh thần tự chủ và đoàn kết nội bộ ................................................................ 24
2.4.4. Tầm nhìn chiến lược và sự chủ động trong cách mạng ................................... 24
2.4.5. Giá trị của tư tưởng cách mạng và truyền thống lịch sử ................................ 25
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 25
2.1. Khái quát về bối cảnh lịch sử của từng giai đoạn, nội dung của từng văn kiện4 MỞ ĐẦU
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Luận cương chính trị (10/1930) và Chủ
trương chiến lược mới (1939-1945) là ba văn kiện lịch sử đặc biệt quan trọng, đánh dấu
những bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mỗi văn kiện ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, phản
ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam và thể hiện quá trình trưởng thành về mặt lý luận của Đảng. 2 lOMoAR cPSD| 47206071
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930)
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đặt nền móng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Tiếp đó,
Luận cương chính trị tháng 10/1930 được Ban Chấp hành Trung ương lâm thời thông qua,
bổ sung và phát triển những tư tưởng trong Cương lĩnh đầu tiên. Đến giai đoạn 19391945,
trước những biến động lớn của tình hình thế giới và trong nước, Đảng đã có sự điều chỉnh
quan trọng trong Chủ trương chiến lược mới, đặt nền tảng cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Việc so sánh ba văn kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ sự phát triển
tư duy lý luận của Đảng về nhiều vấn đề cốt lõi như: mục tiêu cách mạng, nhiệm vụ cách
mạng, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng và sự điều chỉnh chiến lược phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Từ Cương lĩnh đầu tiên đến Luận cương tháng 10 và đặc
biệt là Chủ trương chiến lược mới 1939-1945, đường lối cách mạng của Đảng ngày càng
hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu so sánh ba văn kiện này không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử
phát triển tư tưởng của Đảng mà còn thấy được khả năng vận dụng sáng tạo lý luận
MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đặc biệt, qua đó có thể thấy rõ sự chuyển
biến trong nhận thức về con đường cách mạng Việt Nam, từ tư tưởng "cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng" trong Cương lĩnh đầu tiên, đến "cách mạng tư sản dân
quyền" trong Luận cương tháng 10, và cuối cùng là sự điều chỉnh chiến lược trong giai
đoạn 1939-1945 với việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ quá trình trưởng thành về mặt lý luận của Đảng, từ
việc xác định đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam đến khả năng linh hoạt điều chỉnh
chiến lược, sách lược phù hợp với tình hình thực tế, góp phần quyết định vào thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và tiếp tục là bài học quý báu cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. NỘI DUNG
2.1. Khái quát về bối cảnh lịch sử của từng
giai đoạn, nội dung của từng văn kiện
2.1.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930)
Hoàn cảnh lịch sử
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt
Nam thành một đảng cộng sản duy nhất mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam (trong bài này,
gọi tắt là Hội nghị) đã được tổ chức tại Hương Cảng (Hồng Kông), Trung Quốc. “Với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan
đến phong trào cách mạng ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc đứng ra triệu tập và chủ trì 3 lOMoAR cPSD| 47206071
Hội nghị. Dự Hội nghị có “đại biểu của Quốc tế Cộng sản” là Nguyễn Ái Quốc; 2 đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh; 2 đại biểu của An
Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu; 2 người giúp việc (không phải là
đại biểu Hội nghị) là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu. Nội dung
Về mục tiêu: Cương lĩnh xác định mục tiêu hoạt động của Đảng là “làm cho thực hiện xã
hội cộng sản”. Đây là mục tiêu hoàn toàn mới tính đến thời điểm đó. Trước đó, các phong
trào cứu nước theo tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản đều bị thất bại. Bế tắc vẫn hoàn bế
tắc. Thực tế lịch sử hiện đại Việt Nam cho thấy: anh dũng thì có, vang dội khắp nước, lúc
âm ỉ, lúc như sóng dềnh biển cả, máu đào của các bậc tiên liệt đổ xuống, nhưng độc lập, tự
do vẫn không có kết quả. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử; nó là
một thực thể hiện hữu hợp quy luật tiến hóa của lịch sử Việt Nam cuối những năm 20 đầu
những năm 30 thế kỷ XX - khi các con đường cứu nước trước đó đi vào ngõ cụt.
Về con đường để đạt mục tiêu: Mục tiêu chỉ có một, nhưng có nhiều con đường được
lựa chọn để đi tới mục tiêu. Cương lĩnh xác định con đường cách mạng Việt Nam là “Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng”. Về sau, Đảng có nhiều diễn đạt khác: làm cách mạng phản đế và phản
phong, hoặc làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa cộng sản, giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Khi nói tới thuật ngữ “cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới”, mà trong Cương lĩnh
viết là “tư sản dân quyền cách mạng” thì hiển nhiên trong đó đã bao hàm cả “thổ địa cách
mạng” rồi, hà tất phải nêu về thổ địa cách mạng. Nhưng, “thừa” còn hơn thiếu, Cương lĩnh
nêu “tư sản dân quyền cách mạng”, nhưng lại tách riêng ra một vế “thổ địa cách mạng”, xét
về thực tế, thì rất cần thiết.
Về lý luận chính trị dẫn đường: Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã làm rất nhiều việc, trong đó có việc lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên và mở các lớp huấn luyện những người yêu nước Việt Nam từ trong nước sang Quảng
Châu (Trung Quốc) từ năm 1925 đến năm 1927. Tổ chức này được Nguyễn Ái Quốc gọi
là: “quả trứng mà từ đó nở ra con chim non cộng sản (Đảng Cộng sản)”.
Hội Tuyên truyền Liên hiệp các dân tộc bị áp bức đã tập hợp lại những bài giảng của
Người đưa xuất bản năm 1927 bằng tiếng Việt với tên Đường kách mệnh. Ngay ở trang bìa,
Nguyễn Ái Quốc dẫn quan điểm của V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có
cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm
nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc viết rằng,
đảng cách mạng “phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”, “Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, 4 lOMoAR cPSD| 47206071
tàu không có bàn chỉ nam... Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Đến Cương lĩnh, ở hai văn bản là Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn
tắt của Đảng tuy không ghi rõ lý luận mà Đảng phải theo, nhưng trong Điều lệ vắn tắt của
Đảng ghi: “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản”. Mà đã
ghi như thế thì đích thị lý luận chính trị mà Đảng phải theo chính là chủ nghĩa Mác Lênin.
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: Cương lĩnh khẳng định lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam là giai cấp công nhân Việt Nam, mà đội tiên phong của giai cấp này là Đảng
Cộng sản Việt Nam. “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”, “Đảng là đội tiên phong
của đạo quân vô sản”. Cách nêu này hoàn toàn trùng khớp quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (sau này, Đảng ta có nhiều cách diễn đạt về vấn đề “Đảng của ai”).
Về lực lượng tham gia cách mạng: Cương lĩnh xác định rằng, lực lượng cách mạng
gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước: công nhân; nông dân; tiểu tư sản; trung, tiểu
địa chủ; tư sản dân tộc yêu nước. Chính đây là vấn đề khác với quan điểm tả khuynh của
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản cuối năm 1928, và cũng từ đây Nguyễn Ái Quốc bị hiểu sai.
Trong khi Quốc tế Cộng sản, có lẽ dựa vào kinh nghiệm của Ấn Độ và Trung Quốc, cho
rằng, địa chủ, giai cấp tư sản dân tộc là đối tượng cần đánh đổ, còn đối với tiểu tư sản thì
không được phép tập hợp, nhưng Cương lĩnh chủ trương tập hợp cả “phú nông, trung, tiểu
địa chủ”, “Đảng tập hợp và lôi kéo... tư sản và tư sản bậc trung” vì “tư bản bản xứ không
có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được”; “Đảng lôi kéo tiểu tư sản...
về phía giai cấp vô sản”. Như vậy là ngoài hai lực lượng rất cơ bản là công nông, Đảng chủ
trương tập hợp tất cả lực lượng yêu nước khác vào cuộc đấu tranh cách mạng. Điều này
hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, khi tất cả các
giai tầng đều có một “mẫu số chung” là yêu cầu giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc và
những người tham gia thành lập Đảng đã nhìn vấn đề này rõ hơn và đúng hơn so với Quốc tế Cộng sản khóa VI.
Về phương pháp cách mạng: Cương lĩnh khẳng định Đảng dùng phương pháp cách
mạng bạo lực để đánh đổ ách xâm lược cũng như chế độ phong kiến tay sai. Trong các văn
bản của Cương lĩnh, những từ ngữ sau đây thường được đề cập: “đánh đổ”, “đánh trúc”,
“lật đổ”, “tiêu trừ” đế quốc và phong kiến. Thực dân và phong kiến tay sai ở Việt Nam
không bao giờ chịu “nhường” bộ máy chính quyền cho lực lượng cách mạng. Cần nhấn
mạnh rằng, chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng xã hội; khi đã giành được chính
quyền thì coi như cách mạng xã hội kết thúc thành công.
Khi đế quốc không tự nguyện từ bỏ ý chí xâm lược và thế lực độc tài quân chủ phong
kiến, không chịu từ bỏ chế độ cai trị ở Việt Nam thì việc sử dụng bạo lực chính là phương
pháp cách mạng duy nhất đúng. Trong bộ Tư bản, C.Mác cho rằng: “Bạo lực là bà đỡ của 5 lOMoAR cPSD| 47206071
một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”(23). Đến tác phẩm Chống Đuyrinh,
Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực còn đóng một vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng;
nói theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo
lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những
hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”. Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề: không
có bạo lực cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Nếu có thể so sánh, không sợ bị khập khiễng, thì phương pháp của Phan Châu Trinh
là phương pháp cải cách “bất bạo động” giống như Mahatma Gandhi thành công tại Ấn Độ,
một môi trường thuộc địa của Anh, khác dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam,
tuy Anh hay Pháp đều là đế quốc. Điều này giải thích hiện tượng một số người ngày nay
thấy tiếc nuối, cứ đặt lại vấn đề là cách mạng Việt Nam nên theo phương pháp của Phan
Châu Trinh. Thật ra, khi đặt vấn đề như vậy thì họ đã thoát ly hẳn bối cảnh lịch sử cụ thể,
như thể chẳng khác nào họ muốn nước ta bây giờ nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa,
con đường mà thực tế lịch sử Việt Nam đã không lựa chọn vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Về phác thảo một xã hội tương lai sau khi cách mạng thành công: Cương lĩnh định
hướng một xã hội Việt Nam trong tương lai: độc lập, tự do, hạnh phúc trên ba phương diện:
1) Về xã hội thì nhân dân được tự do, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục; 2) Về chính
trị thì đất nước được hoàn toàn độc lập, lập nên chính phủ công – nông - binh(25), tổ chức
quân đội công - nông; 3) Về kinh tế thì quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế lớn, kể cả ruộng đất,
bỏ sưu thuế cho dân nghèo, mở mang công nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ, v.v...
Những điều trên đây chưa phải là chi tiết, mới chỉ là phác thảo về một xã hội mới,
nhưng phản ánh được tính ưu việt.
Về quan hệ quốc tế của Đảng: Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt
Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”. Điều này hoàn toàn phù hợp với khẩu
hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới, đoàn kết lại!” do Đại
hội các dân tộc miền Đông họp ở Bacu (Liên Xô) năm 1920 nêu lên sau Đại hội II Quốc tế
Cộng sản. Đó cũng là điều hợp logic mà Nguyễn Ái Quốc đã nêu trước khi thành lập Đảng
rằng: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách
mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2-1930 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn. Nó phản ánh một cách cơ bản các quan điểm của Đảng về cách mạng Việt Nam; thể
hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã
hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam lúc 6 lOMoAR cPSD| 47206071
đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn thái độ của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược đúng
đắn, phương pháp phù hợp, nhiệm vụ sát thực và lực lượng vừa rộng, vừa chắc để thực hiện
đường lối chiến lược đề ra.
2.1.2. Luận cương chính trị (10/1930)
Hoàn cảnh lịch sử
Tháng 4/1930, đồng chí Trần Phú về nước; đến tháng 10/1930, đồng chí được bầu
làm Tổng Bí thư của Đảng. Trong thời gian này, đồng chí Trần Phú đã làm việc không mệt
mỏi, vượt qua những nguy hiểm, khó khăn để tìm hiểu thực tế, tiếp cận với phong trào đấu
tranh trong nước ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng…
Qua thực tiễn cuộc sống, kết hợp với những ý kiến chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và
kế thừa, phát triển “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc đề ra
trong Hội nghị thành lập Đảng, Trần Phú đã soạn thảo và hoàn thiện bản Luận cương Chính
trị để Trung ương Đảng cho ý kiến và thông qua ở Hội nghị lần thứ nhất họp từ ngày 14
đến ngày 31/10/1930 tại Hồng Kông (Trung Quốc). Có thể nói Luận cương
Chính trị là văn kiện lịch sử quan trọng, khẳng định năng lực và tầm nhìn chiến lược của
Đảng ta trong việc vạch ra đường lối cách mạng, dẫn dắt quần chúng đứng dậy đánh đổ
thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc và tiến lên XHCN.
Luận cương Chính trị cũng thể hiện tư duy sáng tạo, tầm vóc trí tuệ, ý chí cách mạng
của Trần Phú, là sự đóng góp và cống hiến to lớn của đồng chí vào kho tàng lý luận của
Đảng ta. Khi nói về giá trị của Luận cương Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong
bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy
rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng
đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các
đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo
của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Nội dung
Luận cương chính trị của Đảng (thường gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) gồm ba phần:
1.Tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương.
2. Những đặc điểm về tình hình ở Đông Dương.
3. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương. 7 lOMoAR cPSD| 47206071
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới và Đông Dương, Luận
cương chính trị nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền.
Cách mạng tư sản dân quyền là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, bỏ qua thời
kỳ tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc
Pháp, giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho
nông dân. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ khăng khít với nhau.
“Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động
lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được".
Luận cương cũng phân tích rõ vai trò địa vị của mỗi giai cấp:
Đối với các đảng phái quốc gia cải lương, Đảng phải kiên quyết vạch trần tính chất
nguy hiểm, lừa gạt và phá hoại phong trào cách mạng công nông. Đối với các đảng phái
tiểu tư sản, Đảng có thể tạm thời hợp tác, với điều kiện là họ phải thật sự chống đế quốc,
không ngăn trở công tác tuyên truyền cộng sản trong công nông, Đảng phải luôn giữ tính
chất độc lập về tuyên truyền và tổ chức của mình và phê phán tính do dự của họ. Luận
cương chính trị khẳng định, cách mạng Đông Dương phải có một Đảng Cộng sản vững mạnh lãnh đạo.
"Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải
có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật tập trung mật thiết liên lạc
với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản
giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài,
chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra
tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Luận cương còn chỉ rõ: muốn giành được thắng lợi Đảng phải thu phục được đông
đảo quần chúng lao động bằng cách tổ chức ra các đoàn thể cách mạng như Công hội, Nông hội...
Ngoài những vấn đề về đường lối chiến lược, Luận cương đã vạch ra những vấn đề
hình thức và phương pháp cách mạng. Luận cương chỉ rõ khi chưa có tình thế cách mạng,
phải đặt khẩu hiệu "phần ít" như tăng cường giảm giờ làm, chống thuế… qua cuộc đấu
tranh hàng ngày giáo dục cho quần chúng ý thức đánh đổ đế quốc giành độc lập, đánh đổ
phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
Nhiệm vụ của Đảng là "phải lấy những sự nhu yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt
vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng". 8 lOMoAR cPSD| 47206071
Về thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Luận cương viết: “Đến lúc sức
cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn
bỏ về phe cách mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sanh phấn
đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và
giành lấy chánh quyền cho công nông".
Về phương pháp cách mạng, Luận cương cho rằng khởi nghĩa "không phải là một
việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại theo khuôn phép nhà
binh… Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu; nhưng
kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang
bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công, v.v.,
để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này".
Luận cương cũng nhắc nhở nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày càng gần, cho nên
phải làm cho khẩu hiệu chống chiến tranh đế quốc ăn sâu trong quần chúng như khẩu hiệu
"đổi chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng”, "phản đối binh bị"...; đồng thời tăng
cường công tác vận động binh lính địch, tổ chức tự vệ của công nông.
Cuối cùng, Luận cương chánh trị của Đảng chỉ rõ: cách mạng Đông Dương là một
bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý
luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song, Luận
cương còn một số mặt hạn chế, không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không nêu được nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng
đầu. Do vậy, chưa phát huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận thức được đầy đủ
vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực lượng yêu nước. Luận
cương chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tinh thần yêu nước
của tư bản dân tộc và một bộ phận địa chủ nhỏ.
2.1.3. Chủ trương chiến lược mới (1939-1945)
Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến
với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu
Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực
lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp
tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. 9 lOMoAR cPSD| 47206071
Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-61941,
quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến
tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột
với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
Tình hình trong nước
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương
và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài
vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó,
đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách
thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng
nshìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành
được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện
chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến
tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và
đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ
dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa
dân tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết Nội dung
Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội
nghị lần thứ tám (tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh
thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được
giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc 10 lOMoAR cPSD| 47206071
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung
ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay
bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia
lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trung
ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay
cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội
cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu
nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng
cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ
địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực
lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán,
dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở
cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước
ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà
đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần
trong từng địa phương cũng có thể dành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm
nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán
bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. 11 lOMoAR cPSD| 47206071
2.2. So sánh các văn kiện
2.2.1. So sánh điểm giống nhau Tiêu chí Cương lĩnh chính Luận cương chính trị Chủ trương chiến
trị đầu tiên (2/1930) (10/1930) lược mới (1939- 1945) Giống n hau 1.
Đều xác định Xác định đường lối Cách mạng Đông Khẳng định dứt Phương cách
mạng chiến lược của cách Dương lúc đầu là một khoát chủ trương hướng
Việt Nam là mạng Việt Nam
cuộc “cách mạng tư “phải thay đổi chiến
cách mạng “chủ trương làm tư sản dân quyền” – một chiến lược” và lược
dân tộc dân sản dân quyền cách trong những nhiệm vụ xác định nhiệm chủ,
nhằm mạng và thổ địa cốt lõi là “đánh đổ đế vụ trước mắt
đánh đổ thực cách mạng để đi tới quốc chủ nghĩa Pháp, chính là giải
dân Pháp, tay xã hội cộng sản”. làm cho Đông Dương phóng dân tộc.
sai và phong Và nhiệm vụ trước hoàn toàn độc lập, “có “Bước đường
kiến, giành mắt là “Đánh đổ đế tính chất thổ địa và sinh tồn của các
độc lập dân quốc chủ nghĩa phản đế”. Sau đó sẽ dân tộc Đông tộc.
Pháp và bọn phong tiếp tục phát triển bỏ Dương không
kiến”, “Làm cho qua thời kỳ tư bản chủ còn con đường
nước Nam hoàn nghĩa tiến thẳng lên nào khác hơn là toàn độc lập”. con đường xã hội chủ nghĩa. con đường đánh đổ đế quốc Pháp” 12 lOMoAR cPSD| 47206071 2. Lực
Đều xác định Phải đoàn kết công Giai cấp vô sản và Tập hợp rộng rãi lượng lực
lượng nhân, nông dân – nông dân là hai động mọi lực lượng cách cách
mạng đây là lực lượng cơ lực chính của cách dân tộc “ai có mạng
bao gồm giai bản, trong đó giai mạng tư sản dân lòng yêu nước cấp
công cấp công nhân lãnh quyền, trong đó giai thương nòi sẽ
nhân, nông đạo; đồng thời chủ cấp vô sản là động lực cùng nhau thống
dân và các trương đoàn kết tất chính và mạnh. nhất mặt trận, thu
tầng lớp yêu cả các giai cấp, các góp toàn lực đem
nước khác, lực lượng tiến bộ, tất cả ra giành trong đó công yêu nước quyền độc lập, tự - nông là lực do cho lượng chủ yếu. dân tộc”
3. Lãnh Đều khẳng Đảng Cộng sản Việt Khẳng định “cách Đảng cộng sản đạo
định vai trò Nam giữ vai trò mạng ở Đông Dương Đông Dương là cách
lãnh đạo của lãnh đạo “Đảng là là cần phải có một người tổ chức và mạng
Đảng Cộng đội tiên phong của Đảng cộng sản có một lãnh đạo cách
sản, với giai đạo quân vô sản đường chánh trị đúng mạng. cấp
công gồm một số lớn của có kỷ luật tập trung, nhân
làm giai cấp công nhân mật thiết liên lạc với nòng cốt.
và làm cho họ có đủ quần chúng” năng lực lãnh đạo quần chúng 13 lOMoAR cPSD| 47206071 4. Đoàn Đều
nhấn Cách mạng Việt Cách mạng Đông Nhấn mạnh đoàn kết quốc mạnh
cách Nam liên lạc mật Dương là một bộ phận kết quốc tế nhưng tế mạng
Việt thiết và là một bộ của cách mạng vô sản linh hoạt hơn,
Nam là một phận của cách mạng thế giới, phải mật thiết liên kết với các phần của vô sản thế giới.
liên hệ với phong trào lực lượng chống cách mạng
cách mạng ở các nước phát xít trên thế thế giới, cần
thuộc địa và nửa thuộc giới, tận dụng đoàn kết với địa. mâu thuẫn giữa phong trào các đế quốc. cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. 5. Đều
chủ Khẳng định phải Nêu rõ phải ra sức Xác định chuẩn Phương trương
sử bằng con đường bạo chuẩn bị cho quần bị khởi nghĩa vũ pháp
dụng bạo lực lực cách mạng của chúng về con đường trang là nhiệm vụ cách
cách mạng, quần chúng, trong “võ trang bạo động”, trung tâm của mạng
kết hợp đấu bất cứ hoàn cảnh “phải tuân theo khuôn Đảng và nhân
tranh chính nào cũng không phép nhà binh” dân
trị và đấu được thỏa hiệp tranh vũ trang để giành chính quyền.
2.2.2. So sánh điểm khác biệt
2.2.2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930)
Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ngay khi Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập. Văn kiện này đặt mục tiêu hàng đầu là giành độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày, xác định cách mạng Việt Nam có tính chất dân tộc và dân chủ,
không chỉ chống đế quốc mà còn chống phong kiến. Cương lĩnh cũng đề cao tinh thần đoàn
kết dân tộc, xác định lực lượng cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí
thức và cả trung, tiểu địa chủ có tinh thần yêu nước. Phương pháp đấu tranh kết hợp đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, với định hướng thành lập chính phủ công nông binh
sau khi cách mạng thắng lợi. Cương lĩnh có tính thực tiễn cao khi chú trọng đến mâu thuẫn
dân tộc và chủ trương tập hợp lực lượng rộng rãi. 14 lOMoAR cPSD| 47206071
2.2.2.2. Luận cương chính trị (10/1930)
Luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo vào tháng 10/1930 có nhiều điểm khác
biệt so với Cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc. Văn kiện này tập trung vào đấu tranh giai cấp,
xác định cách mạng Việt Nam mang tính cách mạng tư sản dân quyền, là bước chuẩn bị
tiến lên cách mạng vô sản. Luận cương không đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu
mà xem đây là hệ quả của đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy, văn kiện này không đánh giá
cao vai trò của tư sản dân tộc và các tầng lớp tiểu tư sản, địa chủ yêu nước, mà chỉ nhấn
mạnh vai trò công nhân và nông dân. Phương pháp đấu tranh chủ yếu là cách mạng bạo lực,
hướng đến việc thiết lập chính quyền Xô Viết công nông. Vì có tư tưởng đấu tranh giai cấp
cứng nhắc, Luận cương chưa phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ, khi mâu thuẫn chủ yếu vẫn là mâu thuẫn dân tộc với thực dân Pháp.
2.2.2.3. Chủ trương chiến lược mới (1939-1945)
Trước bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp suy yếu, phát xít Nhật
xâm lược Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có sự điều chỉnh quan trọng trong
đường lối cách mạng. Chủ trương chiến lược mới đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, thay đổi quan điểm cứng nhắc trong Luận cương 1930. Đảng chủ trương tập hợp toàn
dân tộc đoàn kết đấu tranh, thành lập Mặt trận Việt Minh, bao gồm cả tư sản dân tộc và địa
chủ yêu nước để cùng chống Pháp - Nhật. Phương pháp đấu tranh cũng linh hoạt hơn, sử
dụng khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa, thay vì chỉ dựa vào đấu tranh giai cấp.
Hình thức chính quyền sau cách mạng được xác định là chính phủ dân chủ nhân dân, phù
hợp với xu hướng phát triển của cách mạng thế giới. Đảng cũng có chính sách mềm dẻo về
ruộng đất, chưa vội tịch thu toàn bộ đất đai của địa chủ mà điều chỉnh
sao cho có thể tập hợp lực lượng kháng chiến rộng rãi. Chính nhờ sự thay đổi hợp lý
này, Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám 1945. Tiêu chí
Cương lĩnh chính trị Luận cương chính Chủ trương chiến đầu tiên (2/1930) trị (10/1930) lược mới (19391945)
Bối cảnh ra Thành lập Đảng Cộng sản Sau khi Đảng đổi tên Chiến tranh thế giới đời Việt Nam (3/2/1930)
thành Đảng Cộng sản thứ hai bùng nổ, Đông Dương, Trần Nhật xâm lược Phú soạn thảo Đông Dương (1940) 15 lOMoAR cPSD| 47206071
Tác giả Nguyễn Ái Quốc Trần Phú Ban Chấp hành chính Trung ương Đảng (Trường Chinh, Hồ Chí Minh)
Mục tiêu Đánh đổ đế quốc Pháp và Đánh đổ phong kiến Giành độc lập, đánh cách mạng
phong kiến, giành độc lập và đế quốc, tiến lên đuổi Pháp - Nhật,
dân tộc, thành lập chính chủ nghĩa xã hội thành lập chính phủ công nông binh quyền dân chủ nhân dân
Lực lượng Công nhân, nông dân, Nhấn mạnh vai trò của Toàn dân đoàn kết, cách mạng
tiểu tư sản, trí thức, trung công nhân và nông đặc biệt là Mặt trận
và tiểu địa chủ có tinh dân, ít coi trọng tầng Việt Minh thần yêu nước lớp tư sản dân tộc Nhiệm vụ
Độc lập dân tộc và ruộng Đấu tranh giai cấp, Giải phóng dân tộc hàng đầu đất cho dân cày
đánh đổ phong kiến, là nhiệm vụ cấp bách cách mạng tư sản dân quyền
Vai trò của Có thể tham gia cách Không coi trọng, xem Liên minh với tư sản tư sản dân mạng nếu có tinh thần là không thể đồng dân tộc để tộc yêu nước hành chống Pháp - Nhật Phương
Đấu tranh chính trị kết Đấu tranh vũ trang và Khởi nghĩa từng pháp đấu
hợp vũ trang, xây dựng cách mạng bạo lực phần, tiến tới Tổng tranh các tổ chức cách mạng khởi nghĩa 16 lOMoAR cPSD| 47206071 Hình
thái Chính phủ công nông
Chính quyền Xô Viết Chính phủ dân chủ nhà nước binh công nông nhân dân sau cách mạng
Quan điểm Chia lại ruộng đất cho dân Tịch thu ruộng đất của Chia lại ruộng đất về ruộng cày địa chủ phong kiến nhưng có điều chỉnh đất để tập hợp lực lượng kháng chiến Cách tiếp
Đặt cách mạng Việt Nam Hoàn toàn dựa vào Kết hợp cách mạng
cận quốc tế trong phong trào cộng
cách mạng vô sản thế dân tộc với phong sản quốc tế giới trào chống phát xít quốc tế
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Đông Việt Minh và Đảng lãnh đạo lãnh đạo Dương lãnh đạo lãnh đạo Nhận xét chung: •
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930): Do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, văn kiện
này xác định mục tiêu đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, giành độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày. Cương lĩnh đề cao sự đoàn kết của các giai cấp yêu nước,
bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức, và cả trung, tiểu địa chủ có tinh
thần yêu nước. Phương pháp đấu tranh được xác định là kết hợp giữa đấu tranh chính
trị và vũ trang, xây dựng các tổ chức cách mạng để tiến tới thành lập chính phủ công nông binh. •
Luận cương chính trị (10/1930): Do Trần Phú soạn thảo, Luận cương tập trung vào
đấu tranh giai cấp, xác định nhiệm vụ chủ yếu là đánh đổ phong kiến và đế quốc,
tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện nhấn mạnh vai trò của giai cấp công
nhân và nông dân, ít coi trọng tầng lớp tư sản dân tộc và các giai cấp khác. Phương
pháp đấu tranh chủ yếu là vũ trang và cách mạng bạo lực, hướng tới thiết lập chính
quyền Xô Viết công nông. •
Chủ trương chiến lược mới (1939-1945): Trước bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ
hai và sự xâm lược của Nhật Bản vào Đông Dương, Đảng đã điều chỉnh chiến lược, 17 lOMoAR cPSD| 47206071
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ trương này kêu gọi toàn dân đoàn
kết, đặc biệt thông qua Mặt trận Việt Minh, bao gồm cả tư sản dân tộc, để chống
Pháp và Nhật. Phương pháp đấu tranh linh hoạt, bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần,
tiến tới Tổng khởi nghĩa, nhằm thành lập chính phủ dân chủ nhân dân. Quan điểm
về ruộng đất cũng được điều chỉnh để thu hút và tập hợp rộng rãi các lực lượng trong cuộc kháng chiến.
Sự khác biệt giữa các văn kiện này phản ánh sự phát triển trong tư duy chiến lược
của Đảng, từ việc tập trung vào đấu tranh giai cấp đến ưu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
phù hợp với bối cảnh lịch sử và yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn.
2.3. Liên hệ thực tiễn
2.3.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930)
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình
khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân
dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi theo Cương lĩnh ấy,
trong suốt 9 thập kỷ qua, dân tộc Việt Nam đã giành những thắng lợi vĩ đại, tạo nên những
kỳ tích làm thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng
bước khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
2.3.1.1. Những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng sự lãnh đạo của Đảng, qua
hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những
thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục
phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; vai trò và vị thế của nước ta
trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80
năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ năm
1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi
của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.” 18 lOMoAR cPSD| 47206071
2.3.1.2. Cương lĩnh chính trị đặt nền móng cho chiến lược cách mạng
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập,
tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Những luận điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên vừa đặt
nền móng rất cơ bản và toàn diện, vừa tạo sự khởi đầu cho quá trình bổ sung phát triển
đường lối chiến lược và sách lược, cho sức sáng tạo phương pháp lãnh đạo và cách thức
tiến hành cách mạng trên các chặng đường hoạt động của Đảng, là dấu mốc xuất phát của
tiến trình Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực tổ chức để Đảng đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
2.3.1.3. Bối cảnh quốc tế và thách thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Hiện nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến
đổi to lớn và sâu sắc với đặc điểm nổi bật của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình
độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách nhưng sẽ có những bước tiến
mới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là con đường mới mẻ, chưa có tiền
lệ, chúng ta phải vừa đi vừa dò đường, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; không ít vấn đề mới
nảy sinh cần được nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là bằng chứng không thể bác bỏ những giá
trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Những luận điểm đúng
đắn, sáng tạo tiếp tục được vận dụng và phát triển trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Vì thế cần phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh của Đảng trong
từng giai đoạn cách mạng để Cương lĩnh của Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng
ta nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội dung được
đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể khẳng định rằng, đây là lần đầu
tiên cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng quy luật phát triển của
xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách 19 lOMoAR cPSD| 47206071
của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Chính nhờ có Cương lĩnh chính trị
đúng đắn và sáng tạo nên ngay từ khi mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng
trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường
cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân đã lựa chọn, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của
đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công
nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”.
Tóm lại, dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhất là những
định hướng về những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng được đề cập trong Cương
lĩnh chính là nền móng, cơ sở quan trọng để Đảng đã không ngừng cụ thể hóa và có bổ
sung, phát triển trong đường lối, chủ trương; trong tổ chức chỉ đạo thực tiễn của Đảng ở
từng giai đoạn lịch sử, dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác ghềnh để đi đến
những thắng lợi. Điều này đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử và
qua những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhất là trong bối cảnh những năm
đầu thập niên 90 thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được xác lập tại Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: “đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có
độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng”.Vì
thế, cần phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo các giá trị lý luận và thực tiễn của
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng để Cương lĩnh của
Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội XIII của cách mạng Việt Nam hiện nay.
2.3.2. Luận cương chính trị (10/1930)
2.3.2.1. Những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng
Sau khi Luận cương được Hội nghị Trung ương lần thứ nhất thông qua, Tổng Bí thư
Trần Phú và BTV Trung ương đã kịp thời lãnh đạo cách mạng theo tinh thần của Luận
cương, tập trung vào 2 nhiệm vụ cần kíp phải giải quyết, đó là củng cố tổ chức đảng và duy
trì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng chống khủng bố trắng của kẻ thù.
Trong những tháng cuối năm 1930, hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến địa
phương cơ bản được xây dựng xong. Các kỳ ủy lâm thời ở 3 kỳ tổ chức hội nghị để bầu xứ
ủy, thiết lập các ban chuyên môn. Trong khoảng từ tháng 12/1930 - 1/1931, các Xứ ủy Nam
Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ đã chính thức được thành lập và từng bước được củng cố. Phong 20