Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu sách KNTT
Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu sách KNTT được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết bài viết dưới đây nhé.
Chủ đề: Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 10
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết
trình kết quả nghiên cứu sách KNTT
1. Chuẩn bị nói và nghe. Chuẩn bị nói:
- Dù đặt trọng tâm vào việc rèn luyện kỹ năng lắng nghe và phản hồi về nội dung
thuyết trình kết quả nghiên cứu, nhưng tiết Nói và nghe này không thể thiếu nội
dung nói. Nếu là người được chỉ định 2 được phân công thuyết trình Bạn cần thực
hiện đầy đủ các thao tác đã được hướng dẫn làm Bài 4, trong đó, việc đầu tiên là
phải xây dựng được một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu dựa trên bài 2 công
trình nghiên cứu đã có.
- Khi thuyết trình, dựa trên văn bản đã soạn, cần nêu rõ vấn đề nghiên cứu các luận
điểm chính được đề xuất, những bằng chứng và lý lẽ đã sử dụng để làm rõ hệ thống
luận điểm đặc biệt cần nhấn mạnh những phát hiện mới về vấn đề. Để viết thuyết
trình đạt hiệu quả cao thu hút được sự chú ý của người nghe bạn có thể sử dụng
thêm các phương tiện hỗ trợ như hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu,… nhằm cụ thể hóa trực
quan hóa nội dung bài thuyết trình. Chuẩn bị nghe
- Bạn cần tìm hiểu trước về tên của bài thuyết trình kết quả nghiên cứu, cũng là vấn
đề sẽ được trình bày để có định hướng nghe phù hợp. Cần hình dung hướng triển
khai của chính mình để dễ nhận ra nét riêng trong cách giải quyết nhiệm vụ nghiên
cứu mà tác giả bài thuyết trình đã thực hiện. Gõ thiếu VD
- Viết lại những điều bạn đã biết và muốn biết dựa trên sơ đồ K – W – L: K (What we know) W (What we want to L (What we learned) learn)
2. Thực hành nói và nghe Người nói:
- Mở đầu: nêu vấn đề nghiên cứu và lí do chọn vấn đề đó; trình bày ngắn gọn về
cách thức và quá trình thực hiện công việc nghiên cứu.
- Triển khai: dựa vào văn bản báo cáo kết quả nghiên cứu để trình bày tóm tắt các
luận điểm, thông tin chính có trong công trình nghiên cứu, kết hợp việc trình chiếu PowerPoint (nếu có).
- Kết luận: khái quát lại những kết quả nghiên cứu chính, khẳng định ý nghĩa của
vấn đề nghiên cứu và gợi mở những hướng tiếp cận mới. Người nghe:
- Nắm bắt được mục đích nghiên cứu của người thuyết trình (chú ý lắng nghe phần
mở đầu và kết thúc bản thuyết trình để có được những thông tin cần thiết).
- Nhận biết cấu trúc của bài thuyết trình kết quả nghiên cứu (luận điểm lớn, luận
điểm nhỏ, bằng chứng, hình ảnh, số liệu, ...). Khi lắng nghe thuyết trình, nên ghi lại
các từ khóa, dùng một số kí hiệu thông dụng để đánh dấu các luận điểm lớn, luận
điểm nhỏ và mối quan hệ giữa chúng.
- Theo dõi và đánh giá được tác dụng hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu, động tác hình thể
mà tác giả của bài hay báo cáo nghiên cứu đã sử dụng lúc thuyết trình.
- Phát hiện các tư liệu, bằng chứng nhưng chưa đủ độ tin cậy trong bài thuyết trình:
xem xét kĩ xuất xứ các dữ liệu, bằng chứng được cung cấp để kiểm chứng tính chính
xác, trung thực, đáng tin cậy của nguồn thông tin, phát hiện ra những điểm mâu
thuẫn trong lập luận của người thuyết trình.
Bài nói mẫu tham khảo
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường......... Chèo từ
lâu đã là một loại hình nghệ thuật dân gian đại diện cho tiếng nói của những người
dân bình thường trong xã hội xưa, là tấm gương phản chiếu cuộc sống con người
dưới chế độ phong kiến. Khác với Tuồng – bộ môn nghệ thuật mà các tích truyện
chủ yếu xoay quanh các bậc nam tử hán – Chèo lại vô cùng ưu ái khắc họa những
người phụ nữ thời xưa – tầng lớp chịu nhiều khổ đau trong xã hội. Điều này là do
khi Tuồng tập trung vào những đề tài tầm quốc gia đại sự – nơi dường như chỉ dành
cho đàn ông theo quan niệm xưa – thì Chèo lại miêu tả cuộc sống làng xóm, gia
đình nơi những người phụ nữ luôn hiện hữu trong xã hội cũ. Chính vì vậy, những vở
Chèo kinh điển thường xoay quanh cuộc sống vất vả, bất công của người phụ nữ
dưới xiềng xích của xã hội, nổi bật như vở ‘Quan Âm Thị Kính’, ‘Trương Viên’,
‘Kim Nham’… Trong đó trích đoạn “Xúy Vân giả dại” là một trích đoạn tiêu biểu
mà đã được đưa vào chương trình học trung học phổ thông. “Xúy Vân giả dại” là
trích đoạn thể hiện tập trung được bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của
nhân vật Xúy Vân một cách đặc sắc. Sự sáng tạo của dân gian trong lớp trò “Xuý
Vân giả dại” đã phả hơi thờ nhân văn vào tác phẩm, vào nhân vật. Hình tượng Xúy
Vân vừa mang nét đẹp của người phụ nữ truyền thống lại vừa phá cách mang lại tư
tưởng mới mẻ, vượt ra khỏi phong tục lễ giáo lạc hậu.
Giáo sư Trần Bàng đã khẳng định trong “Chèo – một hiện tượng sân khấu của
dân tộc”: “Tích trò của Chèo dành cho cuộc đời của những con người bình thường,
ca ngợi những tấm gương cao cả trong tình bạn, tình yêu chung thủy, lòng hiếu thảo,
lòng khao khát tự do trong tình yêu và cuộc sống. Giữ vị trí trung tâm trong các tích
Chèo là số phận người phụ nữ, tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất dưới chế độ phong
kiến.” Đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời, quan điểm này vừa chứa tính nhân
đạo, vừa mang lại tư tương tiến bộ. Chèo không chỉ ca ngợi trân trọng những con
người là hiện thân cho đạo đức xã hội như Thị Kính, Thị Phương… nhưng mặt khác
với nhân vật Thị Mầu, Xúy Vân chèo còn thể hiện sự cảm thông. Đối với chèo,
những nhân vật được hình thành là do hoàn cảnh xã hội, do khát vọng theo đuổi hạnh phúc cá nhân.
Nói đến nhân vật chèo, giáo sư Hà Văn Cầu cho rằng “mỗi nhân vật chủ đề
mang một khát vọng hoặc một niềm tin mãnh liệt và luôn luôn tích cực thể hiện khát
vọng và niềm tin ấy của mình. Cho dù búa rìu sấm sét họ cũng không thay đổi mục
đích phấn đấu của họ” [1, tr 167]. Các nhân vật khi xuất hiện lập tức giới thiệu
cho khán giả đặc điểm, tính chất của mình. Sự ổn định trong tính cách là đặc điểm
chung của các loại hình nghệ thuật sân khâu dân gian, có sự phân biệt rạch ròi yêu
ghét, tốt xấu. Ở Chèo, các nhân vật nữ được chia ra làm 3 nhóm bao gồm nữ chính,
nữ lệch và nữ pha. Nữ chính (chín) thì thường có cuộc đời lận đận và bất công dưới
chế độ nam quyền và xã hội phong kiến xưa, nhân vật Đào Chính vẫn giữ được
những phẩm chất cao đẹo: công dung ngôn hạnh, nhân hậu, luôn cam chịu và sẵn
lòng hi sinh vì chồng con. Nhân vật có kết thúc có hậu, qua đó thể hiện vẻ đẹp phẩm
chất của người phụ nữ và chân lí ở hiền gặp lành. Ngược lại với sự chuẩn mực của
Đào Chính, nữ Lệch ngang nhiên đối mặt với những lễ giáo phong kiến hà khắc,
phá cách, táo báo, dám lên tiếng cho số phận. Nữ Pha là sự kết hợp giữa hai nhân
vật trên: có lúc chịu khổ đau mà vẫn nhẫn nhục chịu đựng nhưng đến cuối cùng sẽ
phá cách táo bạo, thoát ra khỏi những khuôn mẫu ràng buộc của phong kiến.
Trên thực tế không phải các nhân vật đều tuân theo quy luật định hình về tính
cách, chèo đã xây dựng các nhân vật có tính phức tạp và chiều sâu. Điển hình là
nhân vật Xúy Vân, hình tượng của Xúy Vân từ cô gái ngoan ngoãn “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” trở thành một nữ lệch phá các, mang tư tưởng mới. Qua đó ta thấy
được quá trình biến đổi trong tâm lí và tâm trạng của nhân vật. Nhân vật Xúy Vân
không chỉ chuyển tải thông điệp về người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa mà còn để lại
cho người đọc nhiều suy nghĩ về tiếng nói đề cao khát vọng chính đáng trong cuộc đời.
Cụ thể vở kịch Kim Nham kể về một người học trò có quê tại Nam Định. Với
mong muốn theo nghiệp đèn sách, anh đã lên Tràng An (Hà Nội) xin trọ học, và
được Huyện Tể gả con gái của mình là Xuý Vân cho. Xuý Vân là một cô gái thơm
thảo, thuỳ mị và đảm đang với một ước mơ tha thiết về một hạnh phúc gia đình giản
đơn “chồng cầy vợ cấy”. Thế nhưng ngay sau khi kết tóc xe tơ, Xuý Vân bị nhà
chồng thờ ơ và Kim Nham thì quay lại Tràng An để tiếp tục “dùi mài kinh sử” suốt
mấy năm liền, để lại nàng trong sự cô đơn tột cùng. Tuy lúc đầu Xuý Vân nhất
quyết không từ bỏ lòng chung thuỷ, chống lại những cám dỗ và quyết tâm chờ đợi
Kim Nham suốt mấy năm ròng, chàng chưa đỗ đạt được làm quan và tiếp tục học
hành không trở về nhà. Sống trong cảnh “chăn đơn gối lẻ” kéo dài như vậy, Xuý
Vân cảm thấy ước nguyện cả đời của nàng về một mái ấm gia đình dần dần biến
mất và tuổi thanh xuân như bị phí hoài. Vậy nên khi Trần Phương – một gã nhà giàu
nổi tiếng phong tình ở Đông Ngàn – gặp nàng và trao cho nàng lời hứa về hạnh
phúc mà cô đã ao ước bao lâu nay, Xuý Vân đã theo lời hắn giả dại để thoát khỏi
Kim Nham. Xúy Vân giả điên, Kim Nham chạy chữa không được đành phải trả tự
do cho nàng. Thế nhưng rồi Trần Phương bội hứa khiến Xuý Vân trở nên đau khổ
và tủi nhục đến mức không dám trở về nhà. Từ chốn giả điên thì giờ nàng đã trở nên
điên thật. Kim Nham sau mãi sau một thời gian dài mới đỗ đạt, được bổ làm quan.
Nhận ra vợ cũ điên dại phải đi ăn xin, Kim Nham đã bỏ nén bạc vào nắm cơm sai
người đem cho. Thấy trong nắm cơm có bạc, Xuý Vân đã ngộ ra về số phận trớ trêu
của cô mà từ đó xấu hổ nhảy xuống sông tự vẫn.
Không giống như nhiều người con gái trong thế giới nhân vật của chèo cổ,
Xúy Vân vốn xuất thân trong gia đình có cha là “Huyện tể, Nhà cự phú quốc gia vô
địch”. Cái nguồn gốc xuất thân ấy dễ khiến ta liên tưởng đến sự giàu sang, bề thế,
đến phép nhà nền nếp gia phong. Xuý Vân, một đào pha trứ danh, một nhân vật “nổi
loạn”, nhưng trước hết lai là hiện thân của chữ Tòng trong đạo đức quan Nho giáo
tam tòng. Vân cũng giống như bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến “tại gia”
đã “tòng phụ”. Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang và nàng lúc nào cũng
mang trong mình khát khao hạnh phúc. Nhưng trong chế độ phong kiến xưa, Xúy
Vân nói riêng mà những người con gái sống dưới chế độ ấy nói chung đều không có
cái quyền tự định liệu cho hạnh phúc, lựa chọn cho mình tình yêu cũng như đối
tượng mà mình cảm mến, mọi chuyện tình yêu, hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt
theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Cuộc hôn nhân của Xúy Vân với
Kim Nham đều do một tay của cha mẹ nàng sắp xếp, mà sự sắp đặt này cũng không
hề được định liệu sẵn mà hết sức vội vàng, và điều tất yếu là giữa hai người không
hề có tình yêu. Ở giai đoạn này, Xúy Vân hoàn toàn là hình mẫu cho vẻ đẹp của
người phụ nữ thời xưa – một cô thôn nữ xinh đẹp, nết na, kết duyên với chàng Kim
theo sự sắp xếp của cha mẹ. Nàng ý thức phận làm vợ phải nâng khăn sửa áo cho
chồng giống như bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Và nếu cứ chấp nhận
cuộc sống như thế thì cuộc đời Xúy Vân cũng chẳng khác gì các cô gái khi đã lấy
chồng gánh trên vai nhiều trách nhiệm và phải biết hy sinh để làm tròn bổn phận.
Thiếp xin về tần tảo sớm khuya
Trực phòng không là phận nữ nhi
Khuyên chàng sẽ gắng công đèn sách
Xúy Vân mang trong mình khao khát về một hạnh phúc giản dị, một gia đình
ấm áp. Vì luôn ấp ủ những khát khao hạnh phúc nên khi mới về nhà chồng nàng
cũng muốn làm một người con dâu ngoan của bố mẹ chồng, một người vợ tốt của
Kim Nham, điều này được thể hiện ra ngay lời hát múa của Xúy Vân khi giả dại,
nàng mua điệu quay tơ, dệt cửi, vớt bèo, khâu vá…rất sinh động và khéo léo.
Những công việc lao động mà Xúy Vân làm hàng ngày chứng tỏ cô hay lam hay
làm, đảm đang khéo léo, đẹp người, đẹp nết. Là một cô gái lao động nên ước mong
của Xúy Vân thật nhỏ bé, bình thường, cụ thể. Đó là một gia đình có vợ chồng đầm
ấm, chồng cày vợ cấy, đến mùa lúa chín thì chồng đi gặt, vợ mang cơm:
“Chờ cho lúa chín bông vàng
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm”.
Nhân duyên của Kim Nham, Xúy Vân ràng buộc, gắn bó, dắt díu với nhau nhưng
những ước mơ, ao ước của họ hoàn toàn khác xa nhau, vì vậy mà khó có thể dung
hợp, cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể hạnh phúc. Tâm trạng ấm ức, bế tắc, cô
đơn của Xúy Vân được thể hiện qua hình ảnh: “Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu
– để cho năm bảy cần câu châu vào” Hình ảnh gợi bóng gió về một không gian nhỏ
hẹp, và đầy bất trắc. Đó cũng chính là tình cảnh thực tại của Xúy Vân. Sau mỗi lời
bộc bạch lại là điệp ngữ: “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” cho thấy nỗi cô
đơn và khát khao hạnh phúc của nàng không thể chia sẻ được bất cứ ai, láng giềng
không, mà ngay cả với cha mẹ – người yêu thương và hiểu nàng nhất thì cũng
không thể thấu hiểu được nỗi lòng của nàng.
Xúy Vân ước mơ một hạnh phúc giản dị "chồng cày vợ cấy", còn chồng nàng
- chàng Kim Nham lại mơ ước hạnh phúc là con đường học vấn công danh. Họ
không gặp nhau trong mơ ước. Sự xô đẩy của số phận và sự xuất hiện của những nhân vật mới như Mụ
Quán, Trần Phương, đặc biệt là Trần Phương - đã không cho nàng tuân theo những
phạm trù đạo đức đó nữa. Hay nói khác đi, Xuý Vân đã bị bật ra khỏi cái quỹ đạo
của đạo đức quan phong kiến, lễ giáo phong kiến. Từ đây, cuộc đời của Xuý Vân đã
ngoặt sang một bến bờ mới, phụ Kim Nham mà say đắm Trần Phương. Vì không
thể chịu đựng được nên nàng từ giả dại sang phát điên vì tình, có thể nói hoàn cảnh
của người phụ nữ này vô cùng éo le, tuy đáng trách khi bỏ Kim Nham theo Trần
Phương nhưng nàng cũng vô cùng đáng thương vì tin tưởng người khác một cách
đầy dại khờ. Xúy Vân đã tự hát về mình : “Tôi không trăng gió nhưng gặp người
gió trăng”, nàng không phải người lẳng lơ, nhưng nàng lại không hề có tình yêu với
chồng của mình là Kim Nham, Trần Phương là người đầu tiên nàng yêu, hơn nữa
còn yêu say đắm. Xúy Vân đã đi trên con đường phá bỏ những ràng buộc của đạo
đức quan, của dư luận xã hội. Xuý Vân cũng như những người phụ nữ bình dị khác
chỉ đòi hỏi quyền yêu và được yêu. Ta vừa cảm thông cho Xúy Vân, vừa lo lắng cho
nàng vì ta biết rõ điều gì sẽ chờ nàng ở phía trước. Kim Nham đã trả lại tự do cho
Xúy Vân. Xúy Vân mừng rỡ chạy theo người tình.
Tác giả dân gian đã phê phán Xuý Vân “phụ Kim Nham, say đắm Trần
Phương”. Nhưng với cái nhìn cảm thông thì sẽ thấy Xuý Vân đến với Trần Phương
là một hành động mạnh mẽ, dám vì tình yêu. Chính cái ước mơ chính đáng và tình
cảnh bế tắc, cô đơn giữa gia đình nhà chồng đã đẩy Xuý Vân đến sự lựa chọn tự do
nhưng đầy bi kịch. Đó là con đường đi tìm hạnh phúc trong tình yêu và gia đình, cái
hạnh phúc không có chỗ trong xã hội mà nàng sống. Bi kịch của nàng cũng từ đây
mà ra. Nguyện vọng giải phóng để theo đuổi khát vọng tình yêu hạnh phúc gần kề
lại phải trả giá bằng hành động giả điên đã gợi lên trong lòng ta bao nỗi chua xót.
Những câu hát ngược của Xúy Vân minh chứng cho trạng thái tâm lí khác của nhân
vật được bộc lộ. Những câu nói ngược, đầy những phi lí, nghịch dị khơi gợi về một
thực trạng nội tâm xáo trộn, bất ổn, đầy trớ trêu. Bi kịch tiếp theo trong cuộc đời của
Xúy Vân là bị Trần Phương phụ bạc, Xúy Vân đã điên thật. Điên vì sự đời đảo điên.
"Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu/ Để cho năm bảy cái cần câu châu vào". Xúy
Vân đáng thương biết bao, từ chỗ là người đàn bà có phẩm hạnh, có gia đình, giờ
đây nàng đã mất tất cả, chẳng có ai cảm thông và chia sẻ nổi với nàng. Khi Xúy Vân
đến Tràng An, tình cờ gặp lại Kim Nham, nhận nắm cơm do lòng thương hai mà
người chồng cũ đã bố thí cho, Xúy Vân đau đớn quá. Nàng đã tìm đến cái chết.
Những thứ nghịch lý ngang trái đó thể hiện cuộc đời Xúy Vân chỉ toàn những bất
hạnh khổ đau. Nỗi cô đơn và hoàn cảnh đẩy đưa đã dẫn đến kết cục đau đớn.
Tóm lại, chèo Kim Nham là một tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian. Sự lựa
chọn tự do của Xúy Vân đã cho thấy, chừng nào người phụ nữ còn muốn vượt ra
ngoài khuôn khổ, tự do lựa chọn tình yêu, thì chừng đó còn phải chấp nhận những
trái đắng của số phận, và có thể phải nhận lấy cả cái chết. Những thông điệp như thế
còn quá nhiều ý nghĩa đối với những phụ nữ hiện đại trong cuộc sống hôm nay.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ
giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của nhiều những tác phẩm chèo khác. 3. Trao đổi Người nghe
- Đặt các câu hỏi với thái độ tìm hiểu chân thành đề nghị người thuyết trình làm rõ
thêm một số vấn đề trong nội dung bài thuyết trình.
- Phản biện những điểm còn mơ hồ, mâu thuẫn, thiếu chính xác trong bài thuyết
trình với thái độ xây dựng; chỉ ra những lỗi về lập luận, đối chiếu các dữ liệu được
trình bày với các dữ liệu từ các nguồn thông tin khác để giúp người nói chỉnh sửa và
hoàn thiện bài thuyết trình.
- Đánh giá khái quát về nội dung bài thuyết trình và sự thuyết trình, chỉ ra được
những điểm tích cực và điểm chưa hợp lí.
- Trình bày góc nhìn, cách kiến giải khác về vấn đề được bài thuyết trình đề cập (có
thể cung cấp tài liệu của các tác giả khác hoặc đưa ra quan điểm, góc nhìn riêng bạn về vấn đề này). Người nói:
- Tiếp nhận ý kiến, phản hồi và trao đổi với các thành viên khác trong nhóm, lớp với
thái độ cầu thị (bảo lưu hoặc tiếp thu, nêu ra phương án sửa chữa, hoàn thiện,…)
- Để tự đánh giá và đánh giá được một các khách quan, toàn diện về bài thuyết trình,
có thể tham khảo các tiêu chí và nội dung đánh giá trong bảng sau đây: