Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu sách KNTT

Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu sách KNTT được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Son bài Lng nghe và phn hi v ni dung mt bài thuyết
trình kết qu nghiên cu sách KNTT
1. Chun b nói và nghe.
Chun b nói:
- đặt trng m vào vic rèn luyn k năng lắng nghe phn hi v ni dung
thuyết trình kết qu nghiên cứu, nhưng tiết Nói nghe y không th thiếu ni
dung nói. Nếu người được ch định 2 đưc phân công thuyết trình Bn cn thc
hiện đầy đủ các thao tác đã được ng dẫn làm Bài 4, trong đó, việc đầu tiên
phi xây dng được mt bài thuyết trình kết qu nghiên cu da trên bài 2 công
trình nghiên cứu đã có.
- Khi thuyết trình, dựa trên văn bản đã soạn, cn nêu vấn đề nghiên cu các lun
điểm chính được đề xut, nhng bng chng l đã sử dụng để làm h thng
luận điểm đặc bit cn nhn mnh nhng phát hin mi v vấn đề. Để viết thuyết
trình đạt hiu qu cao thu hút đưc s chú ý của người nghe bn th s dng
thêm các phương tin h tr như hình ảnh, sơ đồ, bng biểu,… nhằm c th hóa trc
quan hóa ni dung bài thuyết trình.
Chun b nghe
- Bn cn tìm hiểu trưc v tên ca bài thuyết trình kết qu nghiên cứu, cũng vấn
đề s được trình y đ định hướng nghe phù hp. Cn hình dung ng trin
khai của chính mình để d nhn ra nét riêng trong cách gii quyết nhim v nghiên
cu mà tác gi bài thuyết trình đã thc hin. Gõ thiếu VD
- Viết li những điều bạn đã biết và mun biết da trên sơ đ K W L:
K (What we know)
W (What we want to
learn)
L (What we learned)
2. Thc hành nói và nghe
Ngưi nói:
- M đầu: nêu vấn đ nghiên cu do chn vấn đề đó; trình y ngn gn v
cách thc và quá trình thc hin công vic nghiên cu.
- Trin khai: dựa vào văn bản báo cáo kết qu nghiên cứu để trình y tóm tt các
luận điểm, thông tin chính trong công trình nghiên cu, kết hp vic trình chiếu
PowerPoint (nếu có).
- Kết lun: khái quát li nhng kết qu nghiên cu chính, khẳng định ý nghĩa của
vấn đề nghiên cu và gi m những hướng tiếp cn mi.
Ngưi nghe:
- Nm bắt được mục đích nghiên cu của ngưi thuyết trình (chú ý lng nghe phn
m đầu và kết thúc bn thuyết trình để có được nhng thông tin cn thiết).
- Nhn biết cu trúc ca bài thuyết trình kết qu nghiên cu (luận điểm ln, lun
điểm nh, bng chng, hình nh, s liu, ...). Khi lng nghe thuyết trình, nên ghi li
các t khóa, dùng mt s hiu thông dụng để đánh dấu các luận điểm ln, lun
điểm nh và mi quan h gia chúng.
- Theo dõi đánh giá đưc tác dng hình ảnh, đ, bng biểu, động tác hình th
mà tác gi ca bài hay báo cáo nghiên cứu đã sử dng lúc thuyết trình.
- Phát hiện các liu, bng chứng nhưng chưa đủ đ tin cy trong bài thuyết trình:
xem xét kĩ xuất x các d liu, bng chứng đưc cung cấp để kim chng tính chính
xác, trung thực, đáng tin cậy ca ngun thông tin, phát hin ra những điểm mâu
thun trong lp lun ca ngưi thuyết trình.
Bài nói mu tham kho
Kính chào thy cô và các bn. Tôi tên là............học sinh.........trưng......... Chèo t
lâu đã một loi hình ngh thuật dân gian đại din cho tiếng nói ca những người
dân bình thường trong hi xưa, tấm gương phản chiếu cuc sống con người
dưới chế độ phong kiến. Khác vi Tung b môn ngh thut các tích truyn
ch yếu xoay quanh c bc nam t hán Chèo lại cùng ưu ái khắc ha nhng
người ph n thời xưa tng lp chu nhiu kh đau trong hội. Điều y do
khi Tung tp trung vào nhng đề tài tm quốc gia đi s nơi dường như chỉ dành
cho đàn ông theo quan niệm xưa thì Chèo li miêu t cuc sng làng xóm, gia
đình nơi những người ph n luôn hin hu trong xã hội cũ. Chính vì vy, nhng v
Chèo kinh điển thưng xoay quanh cuc sng vt v, bt công ca người ph n
dưới xing xích ca hi, ni bật như vở ‘Quan Âm Thị nh’, ‘Trương Viên’,
‘Kim Nham’… Trong đó trích đoạn “Xúy Vân giả dại” một trích đoạn tiêu biu
đã được đưa vào chương trình hc trung hc ph thông. “Xúy Vân giả dại”
trích đoạn th hin tập trung được bi kch tình yêu nội m đầy mâu thun ca
nhân vt y Vân một cách đặc sc. S sáng to ca dân gian trong lớp trò “Xuý
Vân gi dại” đã phả hơi th nhân văn vào tác phm, vào nhân vật. Hình ng y
Vân vừa mang nét đẹp của người ph n truyn thng li va phá cách mang lại
ng mi mẻ, vượt ra khi phong tc l giáo lc hu.
Giáo sư Trần Bàng đã khẳng định trong “Chèo mt hiện tượng sân khu ca
dân tộc”: “Tích trò của Chèo dành cho cuộc đời ca những con người bình thường,
ca ngi nhng tấm gương cao cả trong tình bn, tình yêu chung thy, lòng hiếu tho,
lòng khao khát t do trong tình yêu và cuc sng. Gi v trí trung tâm trong các tích
Chèo s phận ngưi ph n, tng lp chu nhiều đau khổ nhất dưới chế độ phong
kiến.” Đặt trong hoàn cnh hội đương thời, quan đim này va cha tính nhân
đạo, va mang lại tương tiến b. Chèo không ch ca ngi trân trng nhng con
người là hiện thân cho đạo đức xã hội như Th Kính, Th Phương… nhưng mặt khác
vi nhân vt Th Mu, Xúy Vân chèo còn th hin s cảm thông. Đi vi chèo,
nhng nhân vật đưc hình thành do hoàn cnh hi, do khát vọng theo đuổi
hnh phúc cá nhân.
Nói đến nhân vật chèo, giáo n Cu cho rằng “mỗi nhân vt ch đề
mang mt khát vng hoc mt nim tin mãnh lit và luôn luôn tích cc th hin khát
vng nim tin y ca mình. Cho búa rìu sm sét h cũng không thay đi mc
đích phấn đấu ca họ” [1, tr 167]. Các nhân vt khi xut hin lp tc gii thiu
cho khán gi đặc điểm, tính cht ca mình. S ổn định trong tính cách đặc điểm
chung ca các loi hình ngh thut sân khâu dân gian, s phân bit rch ròi yêu
ghét, tt xu. Chèo, các nhân vt n được chia ra làm 3 nhóm bao gm n chính,
n lch n pha. N chính (chín) thì thường cuộc đời lận đận bất công dưới
chế độ nam quyn hi phong kiến xưa, nhân vật Đào Chính vẫn gi được
nhng phm chất cao đẹo: công dung ngôn hnh, nhân hu, luôn cam chu sn
lòng hi sinh vì chng con. Nhân vt có kết thúc có hậu, qua đó thể hin v đẹp phm
cht của người ph n chân hin gặp lành. Ngược li vi s chun mc ca
Đào Chính, nữ Lệch ngang nhiên đi mt vi nhng l giáo phong kiến khc,
phá cách, táo báo, m lên tiếng cho s phn. N Pha s kết hp gia hai nhân
vt trên: lúc chu kh đau vẫn nhn nhc chịu đựng nhưng đến cui cùng s
phá cách táo bo, thoát ra khi nhng khuôn mu ràng buc ca phong kiến.
Trên thc tế không phi các nhân vật đều tuân theo quy luật đnh hình v tính
cách, chèo đã y dng các nhân vt tính phc tp chiều sâu. Điển hình
nhân vật y Vân, hình tưng ca Xúy Vân t cô gái ngoan ngoãn “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” trở thành mt n lệch phá các, mang tưởng mới. Qua đó ta thấy
được quá trình biến đổi trong m tâm trng ca nhân vt. Nhân vt Xúy Vân
không ch chuyn tải thông điệp v người ph n đẹp trong xã hội xưa mà còn để li
cho người đọc nhiều suy nghĩ về tiếng nói đề cao khát vọng chính đáng trong cuộc
đời.
C th v kch Kim Nham k v một người hc trò có quê tại Nam Định. Vi
mong mun theo nghiệp đèn sách, anh đã lên Tràng An (Hà Ni) xin tr hc,
được Huyn T g con gái ca mình Xuý Vân cho. Xuý Vân một gái thơm
tho, thu m đảm đang với một ước mơ tha thiết v mt hạnh phúc gia đình giản
đơn “chồng cy v cấy”. Thế nhưng ngay sau khi kết tóc xe tơ, Xuý Vân b nhà
chng th ơ Kim Nham thì quay lại Tràng An để tiếp tục “dùi mài kinh sử” suốt
mấy năm liền, để li nàng trong s đơn tột cùng. Tuy lúc đu Xuý Vân nht
quyết không t b lòng chung thu, chng li nhng cám d quyết m ch đợi
Kim Nham sut my năm ròng, chàng chưa đ đạt được làm quan tiếp tc hc
hành không tr v nhà. Sng trong cảnh “chăn đơn gi lẻ” kéo dài như vậy, Xuý
Vân cm thy ước nguyn c đời ca ng v mt mái ấm gia đình dần dn biến
mt và tuổi thanh xuân như b phí hoài. Vy nên khi Trần Phương – mt gã nhà giàu
ni tiếng phong tình Đông Ngàn gp nàng trao cho nàng li ha v hnh
phúc đã ao ước bao lâu nay, Xuý Vân đã theo li hn gi dại để thoát khi
Kim Nham. y Vân gi điên, Kim Nham chạy chữa không được đành phi tr t
do cho nàng. Thế nhưng rồi Trần Phương bội ha khiến Xuý Vân tr nên đau khổ
và ti nhục đến mc không dám tr v nhà. T chn gi điên thì giờ nàng đã trở nên
điên thật. Kim Nham sau mãi sau mt thi gian dài mới đỗ đạt, được b làm quan.
Nhn ra v điên dại phải đi ăn xin, Kim Nham đã b nén bc o nm cơm sai
người đem cho. Thấy trong nm cơm có bạc, Xuý Vân đã ngộ ra v s phn tr trêu
ca cô mà t đó xấu h nhy xung sông t vn.
Không giống như nhiều ngưi con gái trong thế gii nhân vt ca chèo c,
Xúy Vân vn xut thân trong gia đình cha Huyn t, Nhà c pquc gia
địch”. Cái nguồn gc xut thân y d khiến ta liên ởng đến s giàu sang, b thế,
đến phép nhà nn nếp gia phong. Xuý Vân, một đào pha trứ danh, mt nhân vt “ni
loạn”, nhưng trước hết lai hin thân ca ch Tòng trong đạo đức quan Nho giáo
tam tòng. Vân cũng giống như bao người ph n trong hi phong kiến “tại gia”
đã “tòng phụ”. y Vân một gái xinh đẹp, đảm đang nàng lúc nào cũng
mang trong mình khát khao hạnh phúc. Nhưng trong chế độ phong kiến xưa, y
Vân nói riêng mà những người con gái sống dưới chế độ y nói chung đều không có
cái quyn t định liu cho hnh phúc, la chọn cho mình tình yêu cũng nđối
ng mình cm mến, mi chuyện tình yêu, hôn nhân đu do cha m sắp đt
theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Cuộc n nhân ca y Vân vi
Kim Nham đu do mt tay ca cha mng sp xếp, mà s sắp đặt này cũng không
h được định liu sn hết sc vội vàng, điều tt yếu giữa hai người không
h tình yêu. giai đoạn này, Xúy Vân hoàn toàn hình mu cho v đẹp ca
người ph n thời xưa mt thôn n xinh đẹp, nết na, kết duyên vi chàng Kim
theo s sp xếp ca cha m. Nàng ý thc phn m v phải nâng khăn sửa áo cho
chng giống như bao người ph n trong hi phong kiến. nếu c chp nhn
cuc sng như thế thì cuộc đời y n cũng chẳng khác các cô gái khi đã ly
chng gánh trên vai nhiu trách nhim và phi biết hy sinh để làm tròn bn phn.
Thiếp xin v tn to sm khuya
Trc phòng không là phn n nhi
Khuyên chàng s gng công đèn sách
Xúy Vân mang trong mình khao khát v mt hnh phúc gin d, một gia đình
m áp. luôn p nhng khát khao hnh phúc nên khi mi v nhà chng nàng
cũng muốn làm một ngưi con dâu ngoan ca b m chng, một ngưi v tt ca
Kim Nham, điều y đưc th hin ra ngay li hát múa ca y Vân khi gi di,
nàng mua điệu quay tơ, dt ci, vớt bèo, khâu vá…rất sinh động khéo léo.
Nhng công việc lao động mà y Vân làm hàng ngày chng t hay lam hay
làm, đảm đang khéo léo, đẹp người, đẹp nết. một gái lao động nên ưc mong
ca y Vân tht nh bé, bình thường, c th. Đó một gia đình vợ chồng đầm
m, chng cày v cấy, đến mùa lúa chín thì chồng đi gặt, v mang cơm:
“Chờ cho lúa chín bông vàng
Để anh đi gt, đ nàng mang cơm”.
Nhân duyên ca Kim Nham, Xúy Vân ràng buc, gn bó, dt díu với nhau nhưng
những ước mơ, ao ưc ca h hoàn toàn khác xa nhau, vy kth dung
hp, cuc sng v chồng cũng khó thể hnh phúc. Tâm trng m c, bế tc,
đơn của y Vân được th hin qua hình ảnh: “Con nằm giữa vũng chân trâu
để cho năm bảy cần câu châu vào” Hình nh gi bóng gió v mt không gian nh
hẹp, đầy bt trắc. Đó cũng chính tình cnh thc ti ca y Vân. Sau mi li
bc bch lại điệp ng: “Láng giềng ai hay, c bởi xuân huyên” cho thy ni
đơn khát khao hạnh phúc ca nàng không th chia s được bt c ai, láng ging
không, ngay c vi cha m người yêu thương hiu nàng nhất thì cũng
không th thu hiểu được ni lòng ca nàng.
Xúy Vân ước một hnh phúc gin d "chng cày v cy", còn chng nàng
- chàng Kim Nham li ưc hạnh phúc con đưng hc vn công danh. H
không gặp nhau trong ưc. S đẩy ca s phn s xut hin ca nhng
nhân vt mới như M
Quán, Trần Phương, đặc bit Trần Phương - đã không cho nàng tuân theo nhng
phạm trù đạo đức đó nữa. Hay nói khác đi, Xuý Vân đã b bt ra khi cái qu đạo
của đạo đức quan phong kiến, l giáo phong kiến. T đây, cuộc đời của Xuý Vân đã
ngot sang mt bến b mi, ph Kim Nham say đm Trần Phương. không
th chịu đựng được n nàng t gi dại sang phát điên tình, th nói hoàn cnh
của người ph n y cùng éo le, tuy đáng trách khi bỏ Kim Nham theo Trn
Phương nhưng nàng cũng cùng đáng thương tin ng người khác mt cách
đầy di khờ. y Vân đã tự hát v mình : “Tôi không trăng gió nhưng gặp người
gió trăng”, nàng không phải ngưi lng lơ, nhưng nàng li không h tình yêu vi
chng ca mình Kim Nham, Trần Phương người đầu tiên ng yêu, hơn nữa
còn yêu say đắm. y Vân đã đi trên con đưng phá b nhng ràng buc của đạo
đức quan, của luận hội. Xuý n cũng như những người ph n bình d khác
ch đòi hỏi quyền yêu và được yêu. Ta va cm thông cho Xúy Vân, va lo lng cho
nàng ta biết rõ điều s ch nàng phía trước. Kim Nham đã tr li t do cho
Xúy Vân. Xúy Vân mng r chy theo người tình.
Tác gi dân gian đã p phán Xuý Vân “ph Kim Nham, say đm Trn
Phương”. Nhưng vi cái nhìn cm thông thì s thy Xuý Vân đến vi Trn Phương
một hành động mnh mẽ, dám tình yêu. Chính cái ước chính đáng tình
cnh bế tắc, đơn giữa gia đình nhà chồng đã đẩy Xuý Vân đến s la chn t do
nhưng đầy bi kịch. Đó là con đường đi tìm hạnh phúc trong tình yêu và gia đình, cái
hnh phúc không ch trong hi ng sng. Bi kch của nàng cũng từ đây
ra. Nguyn vng giải phóng đ theo đui khát vng tình yêu hnh phúc gn k
li phi tr giá bằng hành động gi điên đã gi lên trong lòng ta bao ni chua xót.
Những câu hát ngược ca Xúy Vân minh chng cho trng thái tâm khác ca nhân
vật được bc l. Những câu nói ngược, đầy nhng phi lí, nghch d khơi gi v mt
thc trng ni tâm xáo trn, bt ổn, đầy tr trêu. Bi kch tiếp theo trong cuc đi ca
Xúy Vân là b Trần Phương ph bạc, Xúy Vân đã điên thật. Điên vì sự đời đảo điên.
"Con nm giữa vũng chân trâu/ Để cho m bảy cái cn câu châu vào". y
Vân đáng thương biết bao, t ch người đàn phẩm hạnh, gia đình, gi
đây nàng đã mất tt c, chng có ai cm thông và chia s ni vi nàng. Khi Xúy Vân
đến Tràng An, tình c gp li Kim Nham, nhn nm m do lòng thương hai
người chồng đã bố thí cho, Xúy Vân đau đớn quá. Nàng đã tìm đến cái chết.
Nhng th nghịch ngang trái đó thể hin cuộc đời Xúy Vân ch toàn nhng bt
hnh kh đau. Nỗi cô đơn và hoàn cảnh đẩy đưa đã dẫn đến kết cục đau đớn.
Tóm li, chèo Kim Nham mt tác phẩm ý nghĩa t thi gian. S la
chn t do của y Vân đã cho thấy, chừng nào ngưi ph n n muốn t ra
ngoài khuôn kh, t do la chn tình yêu, thì chừng đó còn phải chp nhn nhng
trái đắng ca s phn, và có th phi nhn ly c cái chết. Những thông điệp như thế
còn quá nhiều ý nghĩa đối vi nhng ph n hiện đại trong cuc sng hôm nay.
Cảm ơn thầy các bn đã lắng nghe. Tôi rt vinh hnh nếu được nghe chia s
gii thiệu, đánh giá v ni dung, ngh thut ca nhiu nhng tác phm chèo khác.
3. Trao đổi
Ngưi nghe
- Đặt các câu hi với thái độ tìm hiu chân thành đ ngh người thuyết trình làm rõ
thêm mt s vấn đề trong ni dung bài thuyết trình.
- Phn bin những điểm còn hồ, mâu thun, thiếu chính xác trong bài thuyết
trình với thái độ y dng; ch ra nhng li v lp luận, đi chiếu c d liệu đưc
trình bày vi các d liu t các ngun thông tin khác để giúp ngưi nói chnh sa và
hoàn thin bài thuyết trình.
- Đánh giá khái quát về ni dung bài thuyết trình s thuyết trình, ch ra được
những điểm tích cc và điểm chưa hợp lí.
- Trình bày góc nhìn, cách kiến gii khác v vấn đề được bài thuyết trình đề cp (có
th cung cp tài liu ca các tác gi khác hoặc đưa ra quan điểm, góc nhìn riêng bn
v vấn đề này).
Ngưi nói:
- Tiếp nhn ý kiến, phn hồi và trao đổi vi các thành viên khác trong nhóm, lp vi
thái đ cu th (bảo lưu hoặc tiếp thu, nêu ra phương án sửa cha, hoàn thiện,…)
- Để t đánh giá và đánh giá được mt các khách quan, toàn din v bài thuyết trình,
có th tham kho các tiêu chí và nội dung đánh giá trong bảng sau đây:
| 1/8

Preview text:

Soạn bài Lắng nghe và phản hồi về nội dung một bài thuyết
trình kết quả nghiên cứu sách KNTT
1. Chuẩn bị nói và nghe. Chuẩn bị nói:
- Dù đặt trọng tâm vào việc rèn luyện kỹ năng lắng nghe và phản hồi về nội dung
thuyết trình kết quả nghiên cứu, nhưng tiết Nói và nghe này không thể thiếu nội
dung nói. Nếu là người được chỉ định 2 được phân công thuyết trình Bạn cần thực
hiện đầy đủ các thao tác đã được hướng dẫn làm Bài 4, trong đó, việc đầu tiên là
phải xây dựng được một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu dựa trên bài 2 công
trình nghiên cứu đã có.
- Khi thuyết trình, dựa trên văn bản đã soạn, cần nêu rõ vấn đề nghiên cứu các luận
điểm chính được đề xuất, những bằng chứng và lý lẽ đã sử dụng để làm rõ hệ thống
luận điểm đặc biệt cần nhấn mạnh những phát hiện mới về vấn đề. Để viết thuyết
trình đạt hiệu quả cao thu hút được sự chú ý của người nghe bạn có thể sử dụng
thêm các phương tiện hỗ trợ như hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu,… nhằm cụ thể hóa trực
quan hóa nội dung bài thuyết trình. Chuẩn bị nghe
- Bạn cần tìm hiểu trước về tên của bài thuyết trình kết quả nghiên cứu, cũng là vấn
đề sẽ được trình bày để có định hướng nghe phù hợp. Cần hình dung hướng triển
khai của chính mình để dễ nhận ra nét riêng trong cách giải quyết nhiệm vụ nghiên
cứu mà tác giả bài thuyết trình đã thực hiện. Gõ thiếu VD
- Viết lại những điều bạn đã biết và muốn biết dựa trên sơ đồ K – W – L: K (What we know) W (What we want to L (What we learned) learn)
2. Thực hành nói và nghe Người nói:
- Mở đầu: nêu vấn đề nghiên cứu và lí do chọn vấn đề đó; trình bày ngắn gọn về
cách thức và quá trình thực hiện công việc nghiên cứu.
- Triển khai: dựa vào văn bản báo cáo kết quả nghiên cứu để trình bày tóm tắt các
luận điểm, thông tin chính có trong công trình nghiên cứu, kết hợp việc trình chiếu PowerPoint (nếu có).
- Kết luận: khái quát lại những kết quả nghiên cứu chính, khẳng định ý nghĩa của
vấn đề nghiên cứu và gợi mở những hướng tiếp cận mới. Người nghe:
- Nắm bắt được mục đích nghiên cứu của người thuyết trình (chú ý lắng nghe phần
mở đầu và kết thúc bản thuyết trình để có được những thông tin cần thiết).
- Nhận biết cấu trúc của bài thuyết trình kết quả nghiên cứu (luận điểm lớn, luận
điểm nhỏ, bằng chứng, hình ảnh, số liệu, ...). Khi lắng nghe thuyết trình, nên ghi lại
các từ khóa, dùng một số kí hiệu thông dụng để đánh dấu các luận điểm lớn, luận
điểm nhỏ và mối quan hệ giữa chúng.
- Theo dõi và đánh giá được tác dụng hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu, động tác hình thể
mà tác giả của bài hay báo cáo nghiên cứu đã sử dụng lúc thuyết trình.
- Phát hiện các tư liệu, bằng chứng nhưng chưa đủ độ tin cậy trong bài thuyết trình:
xem xét kĩ xuất xứ các dữ liệu, bằng chứng được cung cấp để kiểm chứng tính chính
xác, trung thực, đáng tin cậy của nguồn thông tin, phát hiện ra những điểm mâu
thuẫn trong lập luận của người thuyết trình.
Bài nói mẫu tham khảo
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường......... Chèo từ
lâu đã là một loại hình nghệ thuật dân gian đại diện cho tiếng nói của những người
dân bình thường trong xã hội xưa, là tấm gương phản chiếu cuộc sống con người
dưới chế độ phong kiến. Khác với Tuồng – bộ môn nghệ thuật mà các tích truyện
chủ yếu xoay quanh các bậc nam tử hán – Chèo lại vô cùng ưu ái khắc họa những
người phụ nữ thời xưa – tầng lớp chịu nhiều khổ đau trong xã hội. Điều này là do
khi Tuồng tập trung vào những đề tài tầm quốc gia đại sự – nơi dường như chỉ dành
cho đàn ông theo quan niệm xưa – thì Chèo lại miêu tả cuộc sống làng xóm, gia
đình nơi những người phụ nữ luôn hiện hữu trong xã hội cũ. Chính vì vậy, những vở
Chèo kinh điển thường xoay quanh cuộc sống vất vả, bất công của người phụ nữ
dưới xiềng xích của xã hội, nổi bật như vở ‘Quan Âm Thị Kính’, ‘Trương Viên’,
‘Kim Nham’… Trong đó trích đoạn “Xúy Vân giả dại” là một trích đoạn tiêu biểu
mà đã được đưa vào chương trình học trung học phổ thông. “Xúy Vân giả dại” là
trích đoạn thể hiện tập trung được bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của
nhân vật Xúy Vân một cách đặc sắc. Sự sáng tạo của dân gian trong lớp trò “Xuý
Vân giả dại” đã phả hơi thờ nhân văn vào tác phẩm, vào nhân vật. Hình tượng Xúy
Vân vừa mang nét đẹp của người phụ nữ truyền thống lại vừa phá cách mang lại tư
tưởng mới mẻ, vượt ra khỏi phong tục lễ giáo lạc hậu.
Giáo sư Trần Bàng đã khẳng định trong “Chèo – một hiện tượng sân khấu của
dân tộc”: “Tích trò của Chèo dành cho cuộc đời của những con người bình thường,
ca ngợi những tấm gương cao cả trong tình bạn, tình yêu chung thủy, lòng hiếu thảo,
lòng khao khát tự do trong tình yêu và cuộc sống. Giữ vị trí trung tâm trong các tích
Chèo là số phận người phụ nữ, tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất dưới chế độ phong
kiến.” Đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời, quan điểm này vừa chứa tính nhân
đạo, vừa mang lại tư tương tiến bộ. Chèo không chỉ ca ngợi trân trọng những con
người là hiện thân cho đạo đức xã hội như Thị Kính, Thị Phương… nhưng mặt khác
với nhân vật Thị Mầu, Xúy Vân chèo còn thể hiện sự cảm thông. Đối với chèo,
những nhân vật được hình thành là do hoàn cảnh xã hội, do khát vọng theo đuổi hạnh phúc cá nhân.
Nói đến nhân vật chèo, giáo sư Hà Văn Cầu cho rằng “mỗi nhân vật chủ đề
mang một khát vọng hoặc một niềm tin mãnh liệt và luôn luôn tích cực thể hiện khát
vọng và niềm tin ấy của mình. Cho dù búa rìu sấm sét họ cũng không thay đổi mục
đích phấn đấu của họ” [1, tr 167]. Các nhân vật khi xuất hiện lập tức giới thiệu
cho khán giả đặc điểm, tính chất của mình. Sự ổn định trong tính cách là đặc điểm
chung của các loại hình nghệ thuật sân khâu dân gian, có sự phân biệt rạch ròi yêu
ghét, tốt xấu. Ở Chèo, các nhân vật nữ được chia ra làm 3 nhóm bao gồm nữ chính,
nữ lệch và nữ pha. Nữ chính (chín) thì thường có cuộc đời lận đận và bất công dưới
chế độ nam quyền và xã hội phong kiến xưa, nhân vật Đào Chính vẫn giữ được
những phẩm chất cao đẹo: công dung ngôn hạnh, nhân hậu, luôn cam chịu và sẵn
lòng hi sinh vì chồng con. Nhân vật có kết thúc có hậu, qua đó thể hiện vẻ đẹp phẩm
chất của người phụ nữ và chân lí ở hiền gặp lành. Ngược lại với sự chuẩn mực của
Đào Chính, nữ Lệch ngang nhiên đối mặt với những lễ giáo phong kiến hà khắc,
phá cách, táo báo, dám lên tiếng cho số phận. Nữ Pha là sự kết hợp giữa hai nhân
vật trên: có lúc chịu khổ đau mà vẫn nhẫn nhục chịu đựng nhưng đến cuối cùng sẽ
phá cách táo bạo, thoát ra khỏi những khuôn mẫu ràng buộc của phong kiến.
Trên thực tế không phải các nhân vật đều tuân theo quy luật định hình về tính
cách, chèo đã xây dựng các nhân vật có tính phức tạp và chiều sâu. Điển hình là
nhân vật Xúy Vân, hình tượng của Xúy Vân từ cô gái ngoan ngoãn “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” trở thành một nữ lệch phá các, mang tư tưởng mới. Qua đó ta thấy
được quá trình biến đổi trong tâm lí và tâm trạng của nhân vật. Nhân vật Xúy Vân
không chỉ chuyển tải thông điệp về người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa mà còn để lại
cho người đọc nhiều suy nghĩ về tiếng nói đề cao khát vọng chính đáng trong cuộc đời.
Cụ thể vở kịch Kim Nham kể về một người học trò có quê tại Nam Định. Với
mong muốn theo nghiệp đèn sách, anh đã lên Tràng An (Hà Nội) xin trọ học, và
được Huyện Tể gả con gái của mình là Xuý Vân cho. Xuý Vân là một cô gái thơm
thảo, thuỳ mị và đảm đang với một ước mơ tha thiết về một hạnh phúc gia đình giản
đơn “chồng cầy vợ cấy”. Thế nhưng ngay sau khi kết tóc xe tơ, Xuý Vân bị nhà
chồng thờ ơ và Kim Nham thì quay lại Tràng An để tiếp tục “dùi mài kinh sử” suốt
mấy năm liền, để lại nàng trong sự cô đơn tột cùng. Tuy lúc đầu Xuý Vân nhất
quyết không từ bỏ lòng chung thuỷ, chống lại những cám dỗ và quyết tâm chờ đợi
Kim Nham suốt mấy năm ròng, chàng chưa đỗ đạt được làm quan và tiếp tục học
hành không trở về nhà. Sống trong cảnh “chăn đơn gối lẻ” kéo dài như vậy, Xuý
Vân cảm thấy ước nguyện cả đời của nàng về một mái ấm gia đình dần dần biến
mất và tuổi thanh xuân như bị phí hoài. Vậy nên khi Trần Phương – một gã nhà giàu
nổi tiếng phong tình ở Đông Ngàn – gặp nàng và trao cho nàng lời hứa về hạnh
phúc mà cô đã ao ước bao lâu nay, Xuý Vân đã theo lời hắn giả dại để thoát khỏi
Kim Nham. Xúy Vân giả điên, Kim Nham chạy chữa không được đành phải trả tự
do cho nàng. Thế nhưng rồi Trần Phương bội hứa khiến Xuý Vân trở nên đau khổ
và tủi nhục đến mức không dám trở về nhà. Từ chốn giả điên thì giờ nàng đã trở nên
điên thật. Kim Nham sau mãi sau một thời gian dài mới đỗ đạt, được bổ làm quan.
Nhận ra vợ cũ điên dại phải đi ăn xin, Kim Nham đã bỏ nén bạc vào nắm cơm sai
người đem cho. Thấy trong nắm cơm có bạc, Xuý Vân đã ngộ ra về số phận trớ trêu
của cô mà từ đó xấu hổ nhảy xuống sông tự vẫn.
Không giống như nhiều người con gái trong thế giới nhân vật của chèo cổ,
Xúy Vân vốn xuất thân trong gia đình có cha là “Huyện tể, Nhà cự phú quốc gia vô
địch”. Cái nguồn gốc xuất thân ấy dễ khiến ta liên tưởng đến sự giàu sang, bề thế,
đến phép nhà nền nếp gia phong. Xuý Vân, một đào pha trứ danh, một nhân vật “nổi
loạn”, nhưng trước hết lai là hiện thân của chữ Tòng trong đạo đức quan Nho giáo
tam tòng. Vân cũng giống như bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến “tại gia”
đã “tòng phụ”. Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang và nàng lúc nào cũng
mang trong mình khát khao hạnh phúc. Nhưng trong chế độ phong kiến xưa, Xúy
Vân nói riêng mà những người con gái sống dưới chế độ ấy nói chung đều không có
cái quyền tự định liệu cho hạnh phúc, lựa chọn cho mình tình yêu cũng như đối
tượng mà mình cảm mến, mọi chuyện tình yêu, hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt
theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Cuộc hôn nhân của Xúy Vân với
Kim Nham đều do một tay của cha mẹ nàng sắp xếp, mà sự sắp đặt này cũng không
hề được định liệu sẵn mà hết sức vội vàng, và điều tất yếu là giữa hai người không
hề có tình yêu. Ở giai đoạn này, Xúy Vân hoàn toàn là hình mẫu cho vẻ đẹp của
người phụ nữ thời xưa – một cô thôn nữ xinh đẹp, nết na, kết duyên với chàng Kim
theo sự sắp xếp của cha mẹ. Nàng ý thức phận làm vợ phải nâng khăn sửa áo cho
chồng giống như bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Và nếu cứ chấp nhận
cuộc sống như thế thì cuộc đời Xúy Vân cũng chẳng khác gì các cô gái khi đã lấy
chồng gánh trên vai nhiều trách nhiệm và phải biết hy sinh để làm tròn bổn phận.
Thiếp xin về tần tảo sớm khuya
Trực phòng không là phận nữ nhi
Khuyên chàng sẽ gắng công đèn sách
Xúy Vân mang trong mình khao khát về một hạnh phúc giản dị, một gia đình
ấm áp. Vì luôn ấp ủ những khát khao hạnh phúc nên khi mới về nhà chồng nàng
cũng muốn làm một người con dâu ngoan của bố mẹ chồng, một người vợ tốt của
Kim Nham, điều này được thể hiện ra ngay lời hát múa của Xúy Vân khi giả dại,
nàng mua điệu quay tơ, dệt cửi, vớt bèo, khâu vá…rất sinh động và khéo léo.
Những công việc lao động mà Xúy Vân làm hàng ngày chứng tỏ cô hay lam hay
làm, đảm đang khéo léo, đẹp người, đẹp nết. Là một cô gái lao động nên ước mong
của Xúy Vân thật nhỏ bé, bình thường, cụ thể. Đó là một gia đình có vợ chồng đầm
ấm, chồng cày vợ cấy, đến mùa lúa chín thì chồng đi gặt, vợ mang cơm:
“Chờ cho lúa chín bông vàng
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm”.
Nhân duyên của Kim Nham, Xúy Vân ràng buộc, gắn bó, dắt díu với nhau nhưng
những ước mơ, ao ước của họ hoàn toàn khác xa nhau, vì vậy mà khó có thể dung
hợp, cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể hạnh phúc. Tâm trạng ấm ức, bế tắc, cô
đơn của Xúy Vân được thể hiện qua hình ảnh: “Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu
– để cho năm bảy cần câu châu vào” Hình ảnh gợi bóng gió về một không gian nhỏ
hẹp, và đầy bất trắc. Đó cũng chính là tình cảnh thực tại của Xúy Vân. Sau mỗi lời
bộc bạch lại là điệp ngữ: “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” cho thấy nỗi cô
đơn và khát khao hạnh phúc của nàng không thể chia sẻ được bất cứ ai, láng giềng
không, mà ngay cả với cha mẹ – người yêu thương và hiểu nàng nhất thì cũng
không thể thấu hiểu được nỗi lòng của nàng.
Xúy Vân ước mơ một hạnh phúc giản dị "chồng cày vợ cấy", còn chồng nàng
- chàng Kim Nham lại mơ ước hạnh phúc là con đường học vấn công danh. Họ
không gặp nhau trong mơ ước. Sự xô đẩy của số phận và sự xuất hiện của những nhân vật mới như Mụ
Quán, Trần Phương, đặc biệt là Trần Phương - đã không cho nàng tuân theo những
phạm trù đạo đức đó nữa. Hay nói khác đi, Xuý Vân đã bị bật ra khỏi cái quỹ đạo
của đạo đức quan phong kiến, lễ giáo phong kiến. Từ đây, cuộc đời của Xuý Vân đã
ngoặt sang một bến bờ mới, phụ Kim Nham mà say đắm Trần Phương. Vì không
thể chịu đựng được nên nàng từ giả dại sang phát điên vì tình, có thể nói hoàn cảnh
của người phụ nữ này vô cùng éo le, tuy đáng trách khi bỏ Kim Nham theo Trần
Phương nhưng nàng cũng vô cùng đáng thương vì tin tưởng người khác một cách
đầy dại khờ. Xúy Vân đã tự hát về mình : “Tôi không trăng gió nhưng gặp người
gió trăng”, nàng không phải người lẳng lơ, nhưng nàng lại không hề có tình yêu với
chồng của mình là Kim Nham, Trần Phương là người đầu tiên nàng yêu, hơn nữa
còn yêu say đắm. Xúy Vân đã đi trên con đường phá bỏ những ràng buộc của đạo
đức quan, của dư luận xã hội. Xuý Vân cũng như những người phụ nữ bình dị khác
chỉ đòi hỏi quyền yêu và được yêu. Ta vừa cảm thông cho Xúy Vân, vừa lo lắng cho
nàng vì ta biết rõ điều gì sẽ chờ nàng ở phía trước. Kim Nham đã trả lại tự do cho
Xúy Vân. Xúy Vân mừng rỡ chạy theo người tình.
Tác giả dân gian đã phê phán Xuý Vân “phụ Kim Nham, say đắm Trần
Phương”. Nhưng với cái nhìn cảm thông thì sẽ thấy Xuý Vân đến với Trần Phương
là một hành động mạnh mẽ, dám vì tình yêu. Chính cái ước mơ chính đáng và tình
cảnh bế tắc, cô đơn giữa gia đình nhà chồng đã đẩy Xuý Vân đến sự lựa chọn tự do
nhưng đầy bi kịch. Đó là con đường đi tìm hạnh phúc trong tình yêu và gia đình, cái
hạnh phúc không có chỗ trong xã hội mà nàng sống. Bi kịch của nàng cũng từ đây
mà ra. Nguyện vọng giải phóng để theo đuổi khát vọng tình yêu hạnh phúc gần kề
lại phải trả giá bằng hành động giả điên đã gợi lên trong lòng ta bao nỗi chua xót.
Những câu hát ngược của Xúy Vân minh chứng cho trạng thái tâm lí khác của nhân
vật được bộc lộ. Những câu nói ngược, đầy những phi lí, nghịch dị khơi gợi về một
thực trạng nội tâm xáo trộn, bất ổn, đầy trớ trêu. Bi kịch tiếp theo trong cuộc đời của
Xúy Vân là bị Trần Phương phụ bạc, Xúy Vân đã điên thật. Điên vì sự đời đảo điên.
"Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu/ Để cho năm bảy cái cần câu châu vào". Xúy
Vân đáng thương biết bao, từ chỗ là người đàn bà có phẩm hạnh, có gia đình, giờ
đây nàng đã mất tất cả, chẳng có ai cảm thông và chia sẻ nổi với nàng. Khi Xúy Vân
đến Tràng An, tình cờ gặp lại Kim Nham, nhận nắm cơm do lòng thương hai mà
người chồng cũ đã bố thí cho, Xúy Vân đau đớn quá. Nàng đã tìm đến cái chết.
Những thứ nghịch lý ngang trái đó thể hiện cuộc đời Xúy Vân chỉ toàn những bất
hạnh khổ đau. Nỗi cô đơn và hoàn cảnh đẩy đưa đã dẫn đến kết cục đau đớn.
Tóm lại, chèo Kim Nham là một tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian. Sự lựa
chọn tự do của Xúy Vân đã cho thấy, chừng nào người phụ nữ còn muốn vượt ra
ngoài khuôn khổ, tự do lựa chọn tình yêu, thì chừng đó còn phải chấp nhận những
trái đắng của số phận, và có thể phải nhận lấy cả cái chết. Những thông điệp như thế
còn quá nhiều ý nghĩa đối với những phụ nữ hiện đại trong cuộc sống hôm nay.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ
giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của nhiều những tác phẩm chèo khác. 3. Trao đổi Người nghe
- Đặt các câu hỏi với thái độ tìm hiểu chân thành đề nghị người thuyết trình làm rõ
thêm một số vấn đề trong nội dung bài thuyết trình.
- Phản biện những điểm còn mơ hồ, mâu thuẫn, thiếu chính xác trong bài thuyết
trình với thái độ xây dựng; chỉ ra những lỗi về lập luận, đối chiếu các dữ liệu được
trình bày với các dữ liệu từ các nguồn thông tin khác để giúp người nói chỉnh sửa và
hoàn thiện bài thuyết trình.
- Đánh giá khái quát về nội dung bài thuyết trình và sự thuyết trình, chỉ ra được
những điểm tích cực và điểm chưa hợp lí.
- Trình bày góc nhìn, cách kiến giải khác về vấn đề được bài thuyết trình đề cập (có
thể cung cấp tài liệu của các tác giả khác hoặc đưa ra quan điểm, góc nhìn riêng bạn về vấn đề này). Người nói:
- Tiếp nhận ý kiến, phản hồi và trao đổi với các thành viên khác trong nhóm, lớp với
thái độ cầu thị (bảo lưu hoặc tiếp thu, nêu ra phương án sửa chữa, hoàn thiện,…)
- Để tự đánh giá và đánh giá được một các khách quan, toàn diện về bài thuyết trình,
có thể tham khảo các tiêu chí và nội dung đánh giá trong bảng sau đây: