Sự hình thành và phát triển văn hóa chính trị ở Việt Nam qua từng thời kỳ | Tiểu luận chính trị học đại cương
Khái niệm văn hóa chính trị. Khái niệm văn hóa. Khái niệm chính trị. Khái niệm văn hóa chính trị. Đặc điểm của văn hóa chính trị. Chức năng của văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống. Văn hóa chính trị thời Văn Lang – Âu Lạc. Văn hóa chính trị thời kỳ độc lập tự chủ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG Đề tài:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ
Sinh viên : PHAN THỊ NGỌC ANH
Mã số sinh viên: 2156110009
Lớp tín chỉ: CT01001_12
Lớp hành chính: QHCT & TTQT K41
HÀ NỘI – 2021 MỤC LỤ
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ..................................3
1. Khái niệm văn hóa chính trị.................................................................3
1.1. Khái niệm văn hóa............................................................................3
1.2. Khái niệm chính trị...........................................................................5
1.3. Khái niệm văn hóa chính trị............................................................6
2. Đặc điểm của văn hóa chính trị............................................................8
3. Chức năng của văn hóa chính trị........................................................10
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ............................................................13
1. Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống.........................................13
1.1. Văn hóa chính trị thời Văn Lang – Âu Lạc..................................13
1.2. Văn hóa chính trị thời kỳ độc lập tự chủ.......................................16
2. Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại..................................................20
2.1. Cơ sở hình thành............................................................................20
2.2. Đặc trưng của văn hóa chính trị Việt Nam...................................22
2.3. Định hướng nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay.......25
KẾT LUẬN....................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29 1 MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Từ thời cổ xưa, các ý niệm về văn hóa chính trị đã dần nhen nhóm xuất
hiện. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Platon đã có định nghĩa: “Chính trị là nghệ
thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ”(1). Tuy nhiên, mãi đến
tận giữa thế kỷ XX, thuật ngữ “văn hóa chính trị” (political culture) mới được
các nhà khoa học nêu ra. Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện của
văn hóa loài người trong xã hội có giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lịch
sử, các giai cấp cầm quyền đã thay nhau sử dụng quyền lực đặc biệt này để
duy trì sự thống trị và phát triển của xã hội. Văn hóa chính trị không chỉ tác
động đến việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và quan hệ
xã hội mà đồng thời còn thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính
trị. Mặt khác, văn hóa chính trị còn là một nhân tố không thể thiếu để đảm
bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị.
Trải qua hơn 4000 năm lao động miệt mài, đấu tranh dựng nước và giữ
nước, giao lưu, tiếp thu với nhiều nền văn minh trên thế giới, con người Việt
Nam đã xây dựng nên một nền văn hiến lâu đời. Văn hóa chính trị Việt Nam
là toàn bộ những thái độ, lòng tin, chủ nghĩa yêu nước, tình cảm của con
người Việt Nam với tư tưởng cốt lõi là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Văn hóa chính trị thời đại hiện nay được kế thừa, tiếp biến trên nền tảng
truyền thống tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo, yêu nước, thương nòi trong
tiến trình dựng nước và giữ nước của nền văn hóa chính trị tuyền thống, dần
trở thành ngọn đuốc thắp sáng, tiên phong, dẫn lối cho tương lai dân tộc. Với
sự phát triển của xu hướng toàn cầu hóa, việc tìm hiểu, nghiên cứu về quá
trình hình thành và phát triển nền văn hóa chính trị của đất nước là hành động
thiết thực, cấp thiết để có cái nhìn sâu sắc về văn hóa chính trị trong thời kỳ
hiện nay so với văn hóa chính trị thuở sơ khai của đất nước và để bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trước sự hội nhập của thế giới. 2
Chính vì vậy, tôi chọn “Sự hình thành và phát triển văn hóa chính trị
ở Việt Nam qua từng thời kỳ” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận kết thúc học phần.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Có cái nhìn sâu sắc về sự hình thành và phát triển của văn
hóa chính trị Việt Nam từ xưa đến nay và góp phần bảo tồn, phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trước sự hội nhập toàn cầu.
- Nhiệm vụ: Nắm vững các khái niệm về văn hóa chính trị và sự hình
thành và phát triển văn hóa chính trị ở Việt Nam từ thuở sơ khai đến thời đại ngày nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Các quan điểm, quan niệm, lý luận về văn hóa chính trị và
quá trình hình thành và phát triển văn hóa chính trị ở Việt Nam.
- Phạm vi: Những tư liệu từ giáo trình, sách báo, tài nguyên internet về
vấn đề văn hóa chính trị ở Việt Nam.
4. Kết cấu của tiểu luận: Gồm 2 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận của văn hóa chính trị
- Chương II: Sự hình thành và phát triển của văn hóa chính trị ở
Việt Nam qua từng thời kỳ. 3 NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm văn hóa chính trị.
1.1. Khái niệm văn hóa.
Bàn tới văn hóa chính trị là bàn tới một phương diện của văn hóa. Vì
vậy, để hiểu được văn hóa chính trị, ta cần có một quan điểm thống nhất về văn hóa.
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt trong đời sống xã hội của con người. Nó thường
có những nội dung khác nhau tùy thuộc vào thời gian, không gian, đặc điểm
của xã hội và thời đại cũng như tùy thuộc vào những cách tiếp cận khác nhau.
UNESCO cho rằng: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét
riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của
một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, tập tục và tín ngưỡng” (UNESCO, 2001). Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”(2). Trong đời sống xã hội,
văn hóa không thể là một lĩnh vực riêng biệt mà phải xuyên suốt “cơ thể” xã
hội, thẩm thấu vào mọi lĩnh vực, hoạt động, mọi quan hệ của con người. Trình
độ văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Theo nghĩa gốc, từ “văn hóa” bắt nguồn từ tiếng La-tinh là “cuntura”,
nghĩa là cày cấy, vun trồng. Như vậy, khi mới xuất hiện, văn hóa chủ yếu biểu
hiện quan hệ giữa người với tự nhiên. Sau này, thuật ngữ trên được mở rộng
nhờ quá trình phát triển sản xuất. Nó không chỉ biểu hiện quan hệ giữa người
với tự nhiên mà còn mở rộng thêm ở lĩnh vực xã hội, nói về quan hệ giữa con 4
người với con người, phản ánh trình độ được vun trồng, được giáo dục… có
học vấn, sự mở mang trí tuệ và năng lực bản chất của con người. “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(3).
Theo quan niệm của phương Đông, văn hóa tiếng Hán là “Wén hoa”.
Trong đó, Wén – Văn là cái đẹp, vẻ đẹp do đường nét, màu sắc tạo nên, Hoa –
Hóa là giáo hóa, giáo dưỡng, giáo dục. Cho nên, Văn hóa là làm cho trở nên
đẹp, trở nên sáng, trở nên hiện dung, văn hóa là sự giáo hóa thành cái đẹp,
hay theo quy luật của cái đẹp. Đối với con người, “văn hóa” là làm đẹp cuộc
sống và thực hiện những mục đích đẹp của cuộc sống. Vậy giá trị văn hóa ở
đây chủ yếu được kết tinh từ yếu tố tinh thần.
Theo định nghĩa của E.B. Tylor: “Hiểu theo nghĩa dân tộc học rộng rãi
của nó, Văn hoá hay Văn minh là cái toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất kỳ một khả năng,
tập quán nào khác mà con người thu nhận được trong tư cách là thành viên
của xã hội”(4). Theo định nghĩa này, văn hóa và văn minh là một và bao gồm
tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín
ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật,…
F. Boas lại có định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần,
thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành
nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan
hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những
thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”(5). Định
nghĩa này chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan
trọng trong việc hình thành văn hóa con người.
Và còn vô vàn những khái niệm, quan niệm khác nhau về văn hóa đã
được đưa ra từ xưa đến nay. Tổng hợp các cách tiếp cận khác nhau, ta có thể
đi tới một khái niệm về văn hóa: Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất
định của xã hội, trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo của con
người biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động
của con người, cũng như toàn bộ những giá trị tinh thần và vật chất do loài 5
người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc
sống. Văn hóa phản ánh tâm hồn, khí phách, bản lĩnh, bản sắc, truyền thống,
sức sống, sức sáng tạo của mỗi dân tộc.
1.2. Khái niệm chính trị.
Tương tự văn hóa, chính trị được cấu thành từ rất nhiều quan điểm, tư
tưởng khác nhau. Theo Hê-rô-đốt: “Chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của
các chỉnh thể quân chủ, quý tộc và dân chủ”. Theo Platon: “Chính trị là
“nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông
minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần
hữu ái”. Theo Aristotle: “Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là
hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị;
quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Ở phương Đông cổ đại, ta bắt gặp những quan điểm nổi bật như của
Khổng Tử “Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo
chính danh”, của Hàn Phi Tử với quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị
cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật, của Lão Tử với quan điểm "vô
vi nhi trị" - không làm gì mà mọi người tự thuần phục, tự tìm đến với con
đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Chính trị là lợi ích, là
quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Cái căn
bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào
công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội
dung, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng
triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về chính trị
đó là: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng 6
như các dân tộc và quốc gia với vấn đề tranh giành, gìn giữ, tổ chức và sử
dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc Nhà
nước và xã hội, hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính
trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và
những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. Nó là một lĩnh vực hoạt động
rộng lớn và hết sức quan trọng và bản chất, lý tưởng, trình độ hoạt động chính
trị hướng tới một xã hội nhân đạo, nhân văn, vì sự phát triển và tiến bộ của xã
hội và con người, nói lên văn hóa chính trị của một nền chính trị.
1.3. Khái niệm văn hóa chính trị.
Từ những khái niệm về văn hóa và chính trị, ta có thể hiểu khái quát về
văn hóa chính trị. Nó là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã
hội có giai cấp. Văn hóa chính trị biểu hiện khả năng, năng lực của con người
trong việc giác ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, trong việc tổ chức, hoàn
thiện hệ thống tổ chức quyền lực, nhằm hiện thực hóa lợi ích giai cấp hay lợi
ích nhân dân phù hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến bộ của xã hội. Nó còn
biểu hiện khả năng, mức độ điều chỉnh những quan hệ chính trị, phù hợp với
truyền thống và những chuẩn mực giá trị xã hội do đời sống cộng đồng của
con người đặt ra. Văn hóa chính trị phản ánh trình độ tự do, dân chủ, công
bằng, văn minh, vì sự tiến bộ của xã hội. Tập thể tác giả cuốn Từ điển chính
trị rút gọn của Liên Xô (cũ) cho rằng: Văn hóa chính trị là trình độ và tính
chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những hành vi của công
dân, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội, của những chuẩn
mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với
phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh những hành vi và quan hệ xã hội(6).
Theo quan niệm của phương Đông, cụ thể là Trung Quốc, thời Tây Hán,
Lưu Hướng viết trong sách Thuyết Uyển bài Chi Vũ: “Bậc thánh nhân cai trị
thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều
để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ
chinh phạt”. Nho giáo đã mở đầu cho truyền thống tiếp cận văn hoá chính trị 7
trong lịch sử tư tưởng nhân loại khi đưa đạo đức trở thành vấn đề trung tâm
trong học thuyết chính trị của mình. Người Trung Hoa hay nói “văn trị”, từ đó
rút ra rằng: Văn hóa chính trị là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống
trị dùng “văn hóa” và “giáo hóa”, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm
hóa con người. “Văn” đối lập với “vũ”, “vũ công”, “vũ uy” dùng sức mạnh để
cai trị.. Như vậy văn hóa chính trị đã được đề cập trong cách cai trị của người
Trung Quốc ngay từ rất sớm.
Ở phương Tây, quan niệm về văn hóa chính trị rất đã dạng. Theo Sidney
Verba, văn hóa chính trị là một hệ thống các niềm tin có tính kinh nghiệm, các
biểu tượng, các giá trị xác định những tình huống khi tiến hành một loạt hoạt
động chính trị. Tương tự, Lucian Pye cho rằng: “Văn hóa chính trị là hệ
thống thái độ, niềm tin và tình cảm, nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá
trình chính trị, nó đưa ra tiền để cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ
thống chính trị, nó bao gồm lý tưởng chính trị và các quy phạm vận hành của
một chỉnh thể”(7). Bởi vậy văn hóa chính trị là biểu hiện hình thức tập hợp tâm lý chính trị.
Trên cơ sở quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu lý
luận Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm văn hóa chính trị.
PGS.TS. Hoàng Chí Bảo có quan niệm: Văn hóa chính trị là chất lượng
tổng hợp tri thức và kinh nghiệm hành động, là tình cảm và niềm tin chính trị
của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị công dân, làm thúc đẩy họ tới
những hoạt động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị sáng tạo ra.
GS.TS. Phạm Ngọc Quang cũng đưa ra khái niệm: “Văn hóa chính trị
là một phương diện của văn hóa xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực
sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ
chính trị hiện thực cùng những thể chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực
hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự
phát triển lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt 8
động chính trị của con người cùng những thể chế chính trị mà họ lập ra để
thực hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng”(8).
Từ những cách tiếp cận trên, có thể rút ra khái niệm chung về văn hóa
chính trị như sau: Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt
của văn hoá của loài người trong xã hội có giai cấp, phản ánh trình độ phát
triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức
hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều
hoà các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm
quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội .
2. Đặc điểm của văn hóa chính trị.
Văn hóa chính trị có ba đặc điểm chính: tính giai cấp, tính lịch sử và tính đa dạng.
Đầu tiên, văn hóa chính trị luôn mang tính giai cấp
Văn hóa chính trị hình thành, phát triển trong quá trình đấu tranh giai
cấp, dân tộc, phục vụ cho lợi ích, thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của mỗi giai
cấp. Do đó, cơ sở của văn hóa chính trị là hệ tư tưởng của một giai cấp.
Không bao giờ tồn tại những giá trị chính trị chung chung. Văn hóa chính trị
được hình thành và phát triển trên cơ sở một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng
đó phản ánh lợi ích và bảo vệ quyền lực của giai cấp mình. Mặt khác, văn hóa
chính trị còn hướng tới những giá trị tốt đẹp, tích cực và tiến bộ mang tính
phổ quát của toàn xã hội, phản ánh xu thế phát triển của xã hội và dân tộc.
Những giá trị chính trị, đạo đức, pháp luật tiến bộ được bao hàm trong văn
hóa chính trị, không chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn bảo vệ
lợi ích của toàn xã hội và dân tộc.
Văn hóa chính trị trong thời đại ngày nay đã ảnh hưởng đến sự vận động
đời sống chính trị, cụ thể là phản ánh trình độ, năng lực ứng xử, giao tiếp, xử
lý các mối quan hệ chính trị trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp cầm quyền luôn được ưu tiên giải quyết hài hòa
trong các chính sách đối nội và đối ngoại của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Đồng thời, các thể chế chính trị cũng chủ trương lựa chọn mục tiêu 9
chính trị theo hướng nhân văn, tiến bộ, chống lại mục tiêu phản nhân văn,
phản tiến bộ; xây dựng hệ thống chính trị được vận hành khoa học, hiện đại,
trong sạch với phương thức tổ chức và ứng xử chính trị phù hợp tiến bộ xã
hội, thực hành đạo lý, tôn trọng dân chủ. Đây được coi là cách ứng xử phổ
biến trên thế giới hiện nay và cũng là tiêu chí để đánh giá sự vận hành và phát
triển của các nền chính trị quốc gia; nó phản ánh sự thống nhất giữa tính giai
cấp với tính dân tộc trong đời sống chính trị, tạo nên một diện mạo hoàn toàn
mới của văn hóa chính trị trong thời đại hiện nay.
Thứ hai, văn hóa chính trị mang tính lịch sử
Tính giai cấp của văn hóa chính trị cũng đã khẳng định tính lịch sử của
nó. Bởi tương ứng với mỗi giai cấp, mỗi hệ tư tưởng có một kiểu văn hóa
chính trị khác nhau. Sự thay đổi vai trò của một giai cấp trong việc năm quản
lý chính trị kéo theo sự thay đổi của văn hóa chính trị. Trong lịch sử văn minh
loài người, ta từng chứng kiến văn hóa chính trị chủ nô, văn hóa chính trị
phong kiến, văn hóa chính trị tư sản và ngày nay là văn hóa chính trị vô sản.
Không có văn hóa chính trị nào là phi giai cấp và phi lịch sử. Do sự truyền
dẫn văn hóa chính trị từ thế hệ này sang thế hệ khác được thực hiện theo một
khuôn mẫu và định hướng nhất định sao cho thích hợp với nhận thức và nhu
cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở mỗi giai đoạn
lịch sử nên văn hóa chính trị còn cần phải phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế
thừa và sử dụng những giá trị văn hóa chính trị của một chủ thể nào đó trong
giai đoạn lịch sử nhất định. Tính lịch sử, cụ thể của văn hóa chính trị thể
hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện lịch sử khác nhau, tính chất, nội dung, mức
độ phát triển của văn hóa chính trị không giống nhau. Mặt khác, điều đó cũng
cho thấy rằng, giá trị của văn hóa chính trị không phải là bất biến mà nó luôn
có sự vận động và phát triển không ngừng. Điều đó ảnh hưởng lớn đến những
thay đổi trong nhân cách xã hội của con người.
Cuối cùng, văn hóa chính trị mang tính đa dạng
Trong văn hóa chính trị, hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi. Hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị chi phối, quyết định việc hình thành văn hóa chính trị. Trong 10
xã hội có giai cấp đối kháng, có hệ tư tưởng của các giai cấp khác nhau, nó
chi phối văn hóa của các giai cấp tương ứng tạo ra bức tranh đa dạng của văn
hóa chính trị. Trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích các giai tầng xã hội thống nhất
với nhau, hệ tư tưởng vô sản chi phối những định hướng cơ bản của văn hóa
chính trị, song mỗi giai tầng cũng có tính độc lập tương đối, tạo nên bản sắc
riêng, bởi vậy, văn hóa chính trị thể hiện sự thống nhất trong đa dạng. Đảng ta
cũng đã khẳng định: “nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam...”(9).
3. Chức năng của văn hóa chính trị.
Là một bộ phận của văn hóa, văn hóa chính trị là kết quả hoạt động sáng
tạo của con người trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị.
Văn hóa chính trị giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc tổ chức xã hội, định
hướng, điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội; cổ vũ, động viên, thúc đẩy
những hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động chính trị. Ý nghĩa động lực của văn hóa chính trị
biểu hiện rõ ràng nhất thông qua các chức năng mà nó thể hiện như:
Chức năng tổ chức và quản lý xã hội.
Ngoại trừ xã hội nguyên thủy được tổ chức sơ khai, bầy đàn, còn lại
trong lịch sử phát triển của loài người, các xã hội đều được tổ chức theo hình
ảnh, lập trường và lợi ích của giai cấp thống trị, theo văn hóa của giai cấp cầm
quyền. Văn hóa chính trị của giai cấp cầm quyền trước hết thể hiện trong việc
tổ chức, kiện toàn hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và trong kết
cấu của đời sống xã hội. Trong các xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu trước đây, do bản chất của văn hóa chính trị cầm quyền
là bóc lột, vô nhân đạo, phản văn hóa nên xã hội chỉ được tổ chức nhằm phục
vụ một số ít người, còn tuyệt đại bộ phận người lao động bị tha hóa. Còn
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, văn hóa chính trị vô sản thể hiện trong việc tạo
dựng hệ thống chính trị nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ, bảo đảm
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Kiểu tổ chức xã hội dựa trên nền tảng 11
văn hóa chính trị vô sản đã mở ra khả năng giải phóng lực lượng sản xuất,
giải phóng mọi nguồn lực xã hội cho phát triển.
Chức năng điều chỉnh, định hướng cho hành vi và các quan hệ xã hội,
nâng cao nhận thức, giáo dục cho các chủ thể chính trị.
Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn trong việc điều chỉnh lại mối
quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội ở trong đời
sống chính trị hiện nay. Chính trên cơ sở nhận thức chính trị đúng đắn về
mục tiêu lý tưởng, giai cấp cầm quyền và các nhà lãnh đạo chính trị có thể
xây dựng được đường lối chính trị, hình thành các tổ chức và chỉ đạo hoạt
động thức tiễn theo mục tiêu mà chính trị đặt ra. Con người chính trị có thể
chủ động hành động cùng với trình độ văn hóa chính trị xác định, theo
những giá trị lý tưởng đã lựa chọn, phù hợp những chuẩn mực giá trị xã hội.
Đặc biệt, trên nền tảng văn hóa chính trị cao, giới cầm quyền mới có thể kịp
thời phát hiện ra những điểm nóng trong chính trị - xã hội. Từ đó đưa ra được
những biện pháp giải quyết hữu hiệu, cụ thể để chủ động “tháo ngòi nổ”, làm
dịu lại xung đột xã hội và góp phần giữ vững ổn định chính trị. Trong các tình
huống chính trị, văn hóa chính trị là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
nếu thiếu đi nó, rất có thể người ta sẽ làm cho những mối quan hệ trong xã hội
vốn đang bình thường hoặc ít gay cấn lại trở nên căng thẳng, gay gắt, nóng
bỏng, thậm chí đối đầu. Đối với mỗi cá nhân, tập thể, văn hóa chính trị sẽ
góp phần khắc phục những mặt trái, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh
tế thị trường và mở cửa đến đạo đức, lối sống, đồng thời khơi dậy tính
sáng tạo, năng động trong việc vận dụng cơ hội, điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển và hoàn thiện nhân cách con người.
Chức năng đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm cho mọi công dân
quen với hoạt động chính trị.
Chức năng này của văn hóa chính trị đã thể hiện được kết quả tổng hợp
cả một quá trình vận động lâu dài của các nhân tố đã cấu thành văn hóa chính
trị trong từng cá nhân, tập thể và cộng đồng. Sự xâm nhập của văn hóa chính
trị vào từng chủ thể đã làm cho họ nảy sinh những nhu cầu mới và khuyến 12
khích họ tham gia một cách nhiệt tình, chủ động và tự giác vào mỗi tiến trình
khác nhau của chính trị. Trên quy mô xã hội, văn hóa chính trị đóng góp vai
trò to lớn của mình vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện các cơ chế để
thu hút được nhiều quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động
chính trị, góp phần làm cho cuộc sống ngày càng phát triển tích cực và tốt đẹp
hơn. Nhờ đó, hoạt động chính trị trở thành công việc hàng ngày của mỗi
người, thành nề nếp sinh hoạt xã hội. Đó là quá trình xã hội hóa về chính trị,
từng bước thể hiện bản chất dân chủ của chế độ xã hội.
Chức năng cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con
người, hình thành nên nhân cách công dân, nhân cách của những nhà lãnh đạo chính trị.
Trình độ, sự giác ngộ về mục tiêu lý tưởng và niềm tin vào lý tưởng của
mỗi cá nhân cùng những điều kiện thuận lợi cả về cơ chế và những điều kiện
vật chất kỹ thuật do xã hội tạo nên sẽ là nguồn gốc tạo nên động lực cho
những hoạt động sáng tạo có tính tích cực chính trị - xã hội của mỗi cá nhân
và từng tổ chức. Đồng thời, thông qua các phong trào chính trị, bản lĩnh chính
trị cá nhân công dân được rèn luyện, thử thách để hình thành nhân cách công
dân, nhân cách những nhà lãnh đạo chính trị.
Môi trường văn hóa chính trị vừa có sự ảnh hưởng đối với mỗi người
trong xã hội lại vừa đặt ra những yêu cầu khắt khe về trình độ phát triển nhân
cách sao cho mỗi người đều đạt được chất lượng tương ứng. Đối với trình độ
văn hóa chính trị cao, các chủ thể chính trị sẽ phải không chịu sự chi phối hay
cưỡng bức, áp đặt từ những thế lực bên ngoài, họ có thể dễ dàng thích ứng với
mọi tình huống, luôn vững vàng trước khi có những biến động phức tạp, khó
khan xảy ra và họ là những người có khả năng nhạy bén, chủ động và luôn
đưa ra được những sáng kiến mới mẻ trong mọi tình huống hay trong các quá
trình chính trị. Sự toàn diện, linh hoạt và uyển chuyển có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, nhờ đó mà con người sẽ sớm đặt được tới một lối sống cân đối, hài hòa và tốt đẹp hơn. 13
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ.
Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, trực tiếp là quan niệm văn
hóa của chủ tịch Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn lịch sử phát triển của
dân tộc, Đảng ta trong Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Khóa
VIII đã khẳng định rằng: Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng ngàn năm
lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện
mình. Văn hóa Việt Nam hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc, là nền tảng tinh thần – vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội. Nền văn hóa Việt Nam là nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gồm tám lĩnh vực chủ yếu: tư tưởng,
đạo đức, lối sống, giáo dục và khoa học, văn học, nghệ thuật, thông tin đại
chúng, giao lưu văn hóa với nước ngoài, thể chế văn hóa. Trong đó, tư tưởng.
đạo đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa(10). Và trong dòng
chảy nghìn năm của văn hóa Việt Nam, văn hóa chính trị hiện đại vượt lên
tiên phong, dẫn lối cho tương lai dân tộc.
1. Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống.
1.1.Văn hóa chính trị thời Văn Lang – Âu Lạc.
Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên
– nhà nước Văn Lang, dưới thời đại các vua Hùng ra đời. Đó là kết quả của
một quá trình lâu dài hàng vạn năm của nền văn minh sông Hồng, mà nền văn
hóa – văn minh Đông Sơn là đỉnh cao, là hội tụ khả năng của dân tộc trong
dựng nước và giữ nước. Văn Lang là nhà nước sơ khai của người Việt cổ có
sự phân hóa giai cấp. Điều kiện đầu tiên để nhà nước có thể ra đời được là
phương thức sản xuất dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội. “Riêng đối với loại
hình nhà nước phương Đông, khi nghiên cứu sự ra đời của nhà nước phương
Đông, ngoài đi sâu nghiên cứu sự phân hóa xã hội, chúng ta không thể không 14
quan tâm đúng mức đến sự tác động của hai nhân tố khác là thủy lợi và tự vệ.
Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này”(11).
Sự phát triển của kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển của quan hệ sản xuất,
dẫn đến sự thay đổi của lực lượng sản xuất và sự phân hóa xã hội, từ đó xuất
hiện các giai cấp trong xã hội. Đó là giai cấp quý tộc gồm những người tham
gia bộ máy cai trị: Hùng Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướng, quan lang, bố chính…
Giai cấp quý tộc là giai cấp trên, có quyền lực về chính trị và lợi ích về kinh
tế, có vị thế xã hội được thừa nhận và khẳng định. Nô tỳ là lớp người thấp
kém, không có tài sản hoặc do bị bắt làm tù binh mà trở thành nô lệ, phục
dịch trong các gia đình quý tộc. Chiếm đông đảo dân số là dân tự do, là lực
lượng sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Họ được chia ruộng đất những phải
đóng góp tài lực cho công xã. Vào thời kỳ này, các đơn vị xã hội cơ bản đã
hình thành và trở thành hằng số trong văn hóa Việt Nam, đó là gia đình – làng
– nước. Văn hóa chính trị thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc về cơ bản là văn hóa
chính trị bộ lạc, bởi nhà nước Văn Lang – Âu Lạc là nhà nước sơ khai, chưa
hoàn thiện. Nó là mô hình nhà nước của sự liên kết các bộ lạc vì sự sinh tồn,
tạo nên sự thống nhất mà đứng đầu là các Lạc Vương – Hùng Vương. Văn
hóa chính trị thời kỳ này chưa thể hiện sâu sắc, chưa mang tính giai cấp cụ
thể, ý thức về quyền lực chính trị chưa thật rõ ràng và còn giản đơn.
Đặc trưng văn hóa chính trị của người Việt thời Văn Lang Âu Lạc thể
hiện rõ nhất ở tính cộng đồng, tính dân chủ bình đẳng: “Người Đông Sơn là
một dân cư đôn hậu, sống trong một xã hội tương đối thanh bình, hòa thuận
từ trên xuống dưới. Tinh thần cố kết cộng đồng còn thể hiện ý thức giữ gìn sự
thống nhất lãnh thổ, địa bàn cư trú và cả sự hợp nhất hai nhà nước của người
Lạc Việt và người Âu Việt thành nhà nước Âu Lạc. Tinh thần bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ là biểu hiện ý thức chính trị cơ bản nhất của văn hóa chính trị
Văn Lang – Âu Lạc, và đó cũng là cơ sở nền tảng cho truyền thống chính trị
Việt Nam. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: “Vua Hùng sai sửa sang chỗ
vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ
phong là Xung Thiên Thần Vương”. “Tất cả những nhân tố đó đã đủ sức làm 15
nảy sinh ý thức dân tộc, ý thức về số phận, bổ phận và sức mạnh của mình,
sớm hình thành cộng đồng quốc gia – dân tộc”(12).
Trống đồng Đông Sơn là một minh chứng khoa học của văn hóa chính trị
thời Văn Lang – Âu Lạc. “Thành Cổ Loa được xây dựng từ năm 225 TCN
vào thời An Dương Vương sau này cũng chính là biểu tượng của văn hóa
chính trị. Nó không chỉ là biểu tượng quyền lực nhà nước lúc đó. Việc xây
thành Cổ Loa khẳng định tiền đề cần thiết về kinh tế, xã hội, ngôn ngữ cho sự
hình thành nhà nước”(13) mà còn là sự thể hiện cấu trúc văn hóa chính trị
“một công trình đòi hỏi sự hiệp lực của gần như cả cộng đồng – là chứng
tích về tài khắc phục tự nhiên và chống xâm lược của cư dân Đông Sơn”(14).
Ảnh minh họa: Bộ máy nhà nước thời Văn Lang – Âu Lạc
và trống đồng Đông Sơn.
Nền văn hóa chính trị thời Văn Lang – Âu Lạc đã đặt nền móng cho sự
hình thành và phát triển của nền văn hóa chính trị Việt Nam, dù về bản chất
đây là giai đoạn mang đặc điểm, tính chất của nền văn hóa chính trị bộ lạc.
Nó đã tạo nên sắc thái văn hóa đặc trưng của nhà nước của dân, do dân và vì
dân mà hiện nay chúng ta đang hướng tới xây dựng để ngày càng hoàn thiện hơn. 16
1.2. Văn hóa chính trị thời kỳ độc lập tự chủ
Trải qua hơn nghìn năm đô hộ của đế quốc phương Bắc, vào năm 938,
với những nỗ lực đấu tranh bảo vệ dân tộc, dân tộc ta đã giành lại nền độc lập,
tự chủ, bước vào giai đoạn xây dựng chế độ phong kiến nội tộc, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là mốc son trong lịch sử văn hóa chính trị Việt
Nam, là bước khởi đầu mới của cả dân tộc sau khi giành độc lập. Giai cấp
phong kiến dân tộc nối tiếp nhau cầm quyền, xây dựng chế độ quân chủ. Thời
kỳ độc lập tự chủ được bắt đầu bằng chiến thắng của Ngô Quyền, kéo dài cho
đến khi Việt Nam bị Pháp xâm lược, trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Hoàn cảnh lịch sử phức tạp này cũng để lại dấu ấn trong nền văn hóa chính trị
thời kỳ độc lập, tự chủ của nước ta.
Nền kinh tế trong xã hội truyền thống là nền kinh tế nông nghiệp dựa
trên chế độ công hữu về ruộng đất. Đặc thù của chế độ công hữu này là “ông
vua là người chủ đất không phải với danh nghĩa một cá nhân như lãnh chúa
phong kiến Châu Âu hay các đại địa chủ Việt Nam sau này, mà chủ đất trên
danh nghĩa chủ của nước, người cha của các công xã, người đại biểu của
cộng đồng dân tộc, người quản lý cao nhất của cộng đồng. Ông vua có toàn
quyền phân phối đất toàn quốc cho bất kỳ ai. Nhưng trong thực tế ông không
làm việc này một cách tự do, tùy tiện như địa chủ xử lý tài sản của riêng
mình; mà theo phép nước, được quy định thành văn bản hay theo truyền
thống”(15). Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp sản xuất lúa nước.
Chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất đã được thiết lập trên chế độ công hữu
của công xã nông thôn. Công xã vừa tự do vừa lệ thuộc nhà nước, vai trò của
làng xã đã quy định tính đặc thù của văn hóa chính trị Việt Nam.
Xã hội Việt Nam thời kỳ này là xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ
bản: địa chủ và nông dân. Lợi ích kinh tế và sự khác biệt về vị thế xã hội
khiến xung đột xảy ra giữa các tập đoàn phong kiến, giữa nhân dân với các
tập đoàn cầm quyền dẫn đến sự thay đổi các vương triều. Đó chính là sự hiện
diện của các triều đại phong kiến Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần – Hậu Lê
trong lịch sử văn hóa chính trị Việt Nam. Ở thời kỳ độc lập dân chủ, văn hóa 17
Việt Nam đã phát triển rực rỡ dựa trên cơ tầng sâu của văn hóa Việt được sản
sinh và nuôi dưỡng từ thời Văn Lang – Âu Lạc. Hơn hết, người Việt đã chủ
động tiếp cận những tinh hoa văn hóa thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ và
biến đổi cho phù hợp với văn hóa Việt Nam, vừa làm giàu cho văn hóa dân
tộc mà vẫn giữ gìn được bản sắc. Chính bản sắc văn hóa là sức mạnh nội sinh,
để Việt Nam xây dựng một nền văn hóa chính trị đặc thù.
Để điều hành xã hội, thực thi pháp luật, bộ máy nhà nước đã được xây
dựng qua các triều đại trong thời kỳ độc lập, tự chủ. Đặc trưng của bộ máy
quyền lực nhà nước phong kiến tập quyền ở bên trên kết hợp với dân chủ, tự
trị ở làng xã, một đặc thù của thiết chế chính trị trong văn hóa chính trị nước
ta. Bộ máy nhà nước được xây dựng theo năm cấp hành chính: quốc gia (triều
đình), lộ, trấn, phủ, huyện, xã hay: quốc gia, tỉnh, phủ, huyện, tổng. Dưới xã
(tổng) là làng, thôn, có bộ máy quyền lực mang tính tự quản do người dân
trực tiếp bầu ra. Trong chế độ phong kiến không có sự phân chia quyền lực
nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà tất cả các cơ quan
và quan lại chỉ giữ vai trò phụ tá thực thi quyền lực của vua.
Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Trần