

















Preview text:
  lOMoARc PSD|17327243 1 
1. Làm rõ đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế và chỉ ra sự khác nhau cơ bản 
giữa đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế với Luật dân sự và Công pháp  quốc tế. 
ĐN đối tượng điều chỉnh của TPQT 
Yếu tố nước ngoài ở đây là: 
+ Có ít nhất chủ thể tham gia quan hệ này là nước ngoài. Chủ thể nước ngoài có 
thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà nước nước ngoài (ví dụ một 
quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với công dân Pháp, chủ thể 
nước ngoài là công dân Pháp). 
+ Khách thể của quan hệ này liên quan đến tài sản, công việc ở nước ngoài (ví 
dụ: một quan hệ thừa kế tài sản giữa công dân Việt Nam với công dân Mỹ, tài 
sản thừa kế đang tồn tại trên lãnh thổ Mỹ; việc gửi giữ tài sản giữa một công dân 
Việt Nam tại một đại lý ở nước ngoài thì trách nhiệm bảo quản tài sản là 
khách thể của quan hệ đó…). 
+ Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ này xảy ra ở 
nước ngoài. Đây là khái niệm bao quát các lĩnh vực quan hệ do Tư pháp quốc tế 
điều chỉnh. Thuật ngữ này được lý giải bởi kỹ thuật lập pháp của các nước có sự 
khác nhau. Khái niệm quan hệ dân sự ở các nước được hiểu dưới những khía 
cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, quan hệ dân sự được hiểu là quan hệ nhân thân và 
quan hệ tài sản phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau, các quan hệ này 
chủ yếu nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của các chủ thể tham gia, được các 
quy phạm Luật dân sự điều chỉnh . Ở CH Pháp, quan hệ dân sự còn được hiểu 
bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình; ở Ca na đa, khái niệm này được hiểu 
bao gồm cả quan hệ tố tụng dân sự; ở Thái lan, quan hệ dân sự còn được hiểu 
bao gồm quan hệ thương mại, quan hệ hôn nhân và gia đình. 
Phân biệt đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với đối tượng đièu chỉnh 
của các ngành luật, hệ thống pháp luật có liên quan: 
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung và của các ngành luật nói riêng 
đều là các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên không phải 2 
quan hệ xã hội nào cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, của 
Luật dân sự và của Công pháp quốc tế. 
- Sự khác nhau giữa đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và Luật dân sự:+ 
Khác nhau về phạm vi các quan hệ xã hội do hai ngành luật này điều chỉnh: Tư      lOMoARc PSD|17327243 2 
pháp quốc tế không những điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản 
thuộc lĩnh vực dân sự (như quan hệ mua bán, thuê mướn, gửi giữ hàng hoá, bảo 
vệ quyền nhân thân của cá nhân, tổ chức…) mà còn điều chỉnh các quan hệ hôn 
nhân và gia đình, lao động, kinh tế và tố tụng dân sự. 
+ Các quan hệ dân sự do Tư pháp quốc tế điều chỉnh là quan hệ nhân thân và 
quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài. 
- Sự khác nhau giữa đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và đối tượng 
điều chỉnh của Công pháp quốc tếSự khác nhau giữa đối tượng điều chỉnh của 
Tư pháp quốc tế và đối tượng điều chỉnh của Công pháp quốc tế được biểu hiện 
ở tính chất các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của chúng. Tư pháp quốc 
tế chỉ điều chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài; 
Công pháp quốc tế chỉ điều chỉnh các quan hệ chính trị và các quan hệ có liên 
quan đến chính trị được phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của 
Công pháp quốc tế. Từ những phân tích trên đây, có thể khẳng định đối tượng 
điều chỉnh của tư pháp quốc tế mang tính độc lập, riêng biệt so với đối tượng 
điều chỉnh của các ngành luật khác. Đây là một tiêu chí (cùng với phương pháp 
điều chỉnh riêng biệt) để có thể khẳng định Tư pháp quốc tế là một hệ thống  pháp luật độc lập 
2. Phân tích các nguyên tắc của TPQT 
Nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế Việt Nam là những tư tưởng pháp lý cơ bản, 
có tính bao trùm, ổn định, chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, giải thích và áp dụng 
tư pháp quốc tế Việt Nam. Tư pháp quốc tế Việt Nam có 5 nguyên tắc cơ bản thể 
hiện đặc trưng riêng của tư pháp quốc tế bên cạnh những nguyên tắc chung của pháp  luật Việt Nam. 
- Nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia  khác nhau 
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là nhà nước Việt Nam không phân biệt đối xử 
giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau trên thế giới. 
Các chế độ sở hữu này đối xử bình đẳng với nhau về mặt pháp lý, không phân biệt 
chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia. 
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng vì nó không những đảm bảo cho hoạt 
động giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam 
được vận hành một cách khách quan, đảm bảo về mặt pháp lý giữa các bên.      lOMoARc PSD|17327243 3 
Chế độ sở hữu là yếu tố then chốt quyết định hình thức và nội dung của hệ thống 
pháp luật quốc gia, vì vậy công nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chế độ 
sở hữu cũng là tôn trọng hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. 
- Nguyên tắc quyền miễn trừ của quốc gia 
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì 
không một cơ quan nhà nước nào được phép xét xử, áp dụng các biện pháp nhằm 
đảm bảo cho vụ kiện, thi hành án đối với quốc gia đó. 
Nguyên tắc này đảm bảo cho quốc gia khi tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế 
được hưởng quyền miễn trừ về tư pháp và miễn trừ đối với tất cả những tài sản thuộc  sở hữu của quốc gia. 
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ giữa công dân Việt Nam 
với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam Khi tham 
gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, về cơ bản, người nước ngoài được đối xử 
bình đẳng với nhau và với công dân Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc, chủng 
tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị. 
Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực liên quan đến chính trị, an ninh quốc gia, người 
nước ngoài cũng phải chịu những hạn chế nhất định so với công dân Việt Nam như 
quyền tham gia bầu cử, ứng cử các chức danh trong cơ quan nhà nước. 
Đây là nguyên tắc xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại, đó 
là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc các quốc gia có  nghĩa vụ hợp tác. 
- Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên 
Nội dung cơ bản của nguyên tắc là pháp luật cho phép các bên trong quan hệ thỏa 
thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ đó, tuy nhiên không phải mọi lĩnh vực 
mà tư pháp quốc tế điều chỉnh các bên đều được phép lực chọn luật áp dụng trong 
lĩnh vực hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên tắc này hoàn toàn 
phù hợp tư pháp quốc tế hiện nay trên thế giới. 
- Nguyên tắc có đi có lại 
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài, 
pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng và đảm bảo thực thi trên cơ sở 
các quyền và nghĩa vụ mà công dân, pháp nhân Việt Nam được quy định và đảm bảo 
thực thi ở nước ngoài tương ứng. Tùy theo quan hệ giữa Việt Nam và nước ngoài 
mà nguyên tắc này sẽ được áp dụng.      lOMoARc PSD|17327243 4 
Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế, theo đó một quốc 
gia sẽ dành chế độ pháp lý nhất định, có thể là chế độ đãi ngộ quốc gia hoặc chế độ 
đãi ngộ tối huệ quốc hay một số quyền lợi nào đó cho thể nhân và pháp nhân một 
nước ngoài giống như chế độ pháp lý, những quyền lợi hoặc ưu đãi mà các thể nhân 
và pháp nhân của nước này cũng được hưởng ở nước ngoài đó. 
2. QPXĐ bị ảnh hưởng bởi? (C1/t43) 
QPXĐ là các quy định ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết 
quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. Từ khái 
niệm này, có thể thấy:  - 
QPXĐ không trực tiếp điều chỉnh các QHDS có yếu tố nước ngoài đang 
phátsinh mà các quy phạm này chỉ quy định việc chọn pháp luật nước này hay nước 
khác để điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc chọn luật không phải là 
tự do tùy tiện lựa chọn HTPL nào để áp dụng mà phải dựa trên những nguyên tắc  nhất định.  - 
QPXĐ luôn mang tính “dẫn chiếu” . Khi QPXĐ dẫn chiếu đến HTPL áp cụ 
thể vàcác quy phạm thực chất trong HTPL đó để giải quyết QHDS phát sinh, đó 
chính là tính chất “song hành”giữa quy phạm thực chất và QPXĐ trong điều chỉnh  pháp luật. 
Hiệu lực của QPXĐ cũng bị ảnh hưởng chỉ phối bởi các yếu tố thời gian, không gian, 
chủ thể tác động. Nhưng ngoài các yếu tố nêu trên, hiệu lực của quy phạm xung đột 
còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố rất đặc thù như: 
 1 . Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng  
Khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp luật hầu 
hết các quốc gia, dưới góc độ TPQT được hiểu là trật tự pháp lý hình thành trên cơ 
sở những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia. Qua 
đó có thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ 
xã hội và pháp luật của một quốc gia. 
 Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở điểm a khoản 1 điều 
670 BLDS. Như vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những 
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở một số 
VBPL khác. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp 
dụng đối với những quy định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ 
nhận toàn bộ HTPL nước ngoài. 
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong TPQT đó là 
việc sử dụng QPXĐ và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng 
một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau.      lOMoARc PSD|17327243 5 
TPQT điều chỉnh những QHDS có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng 
pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các QPXĐ chỉ đưa ra những nguyên tắc 
chung để chọn luật áp dụng giữa những HTPL liên quan mà không trực tiếp quy định 
cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất 
dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn 
chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường 
trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy định 
trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công cộng”. 
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp dụng. 
Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. QPXĐ dẫn chiếu tới HTPL 
nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được áp dụng bởi nó trái với trật tự công 
thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là việc chọn một HTPL không áp dụng 
được trên thực tế. Điều đó làm QPXĐ mất hiệu lực. 
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam công 
dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công nhận chế độ hôn 
nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định của pháp 
luật về HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu tố nước 
ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều ước quốc 
tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp 
dụng quy định của ĐƯQT đó. 
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B kể cả việc 
công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng quy 
định tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền 
sẽ áp dụng HTPL nước ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp 
luật Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ công nhận chế độ hôn nhân tiến 
bộ, một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật HNGĐ), do vậy, trong trường hợp này 
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối không áp dụng pháp luật nước 
ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam, do tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ 
có quy định: “… dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước 
ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được 
quy định tại Điều 2 của Luật này”. 
Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng 
pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của QPXĐ mà áp 
dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong 
trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật      lOMoARc PSD|17327243 6 
của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua QPXĐ. Ví dụ: cơ quan có thẩm 
quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê. 
Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực ở đây là trường hợp pháp luật nước ngoài có thể áp 
dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự công quốc gia. Ví dụ 
việc tòa án phải công nhận hiệu lực của một bản án hay quyết định do tòa án hoặc 
trọng tài nước ngoài giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài. 
Như vậy, các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta 
phải rất cẩn trọng trọng viêc vận dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng, song 
thực tiễn tư pháp cho thấy là rất hiếm các trường hợp phải vận dụng và trong trường 
hợp phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên những cơ sở pháp lý đứng đắn và 
khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc pháp chế  XHCN. 
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba 
Dẫn chiếu ngược có nghĩa là theo QPXĐ mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng 
thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết một quan hệ TPQT cụ thể 
nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có QPXĐ quy định áp dụng pháp luật của 
nước có cơ quan có thẩm quyền. 
Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có nghĩa là theo QPXĐ của nước có cơ 
quan giải quyết tranh chấp thì pháp luật của nước ngoài phải được áp dụng nhưng 
trong pháp luật nước ngoài đó lại có QPXĐ quy định cần phải áp dụng pháp luật của  nước thứ ba. 
Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện do nguyên nhân sau: Thứ nhất, QPXĐ gồm hai 
bộ phận: phần phạm vi và phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một 
vấn đề pháp lý thuộc phần phạm vi của hai QPXĐ của hai nước có phần hệ thuộc 
khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các QPXD của các nước về 
nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý. 
Nguyên nhân thứ hai có khả năng làm phát sinh dẫn chiếu là việc giải thích các 
hệ thuộc luật của các nước có thể khác nhau, có thể dẫn chiếu đến khả năng một vấn 
đề pháp lý sẽ được HTPL của hai nước đều cho rằng sẽ áp dụng, hoặc cả hai nước 
đều từ chối áp dụng cho rằng pháp luật nước mình không có thẩm quyền áp dụng. 
Trong khoa học TPQT, vấn đề dẫn chiếu hiện nay có hai quan điểm: 
Quan điểm thứ nhất, coi sự dẫn chiếu của QPXĐ đến pháp luật nước ngoài chỉ 
là dẫn chiếu đến luật thực chất của nước ngoài (không bao gồm các quy phạm xung 
đột trong luật pháp của nước ngoài), có nghĩa là không chấp nhận dẫn chiếu ngược 
trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.      lOMoARc PSD|17327243 7 
Quan điểm thứ hai, coi sự dẫn chiếu của QPXĐ đến pháp luật nước ngoài là 
dẫn chiếu đến cả HTPL nước ngoài (gồm các QPXĐ và quy phạm thực chất trong 
pháp luật của nước ngoài), có nghĩa là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn 
chiếu đến pháp luật của nước thứ ba. 
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu thì phải xét hai trường hợp cơ bản: 
Trường hợp 1: theo quan điểm thứ nhất, cho rằng, về nguyên tắc pháp luật được 
áp dụng ở đây sẽ là pháp luật của nước mà được pháp luật quốc gia này dẫn chiếu 
đến, và áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó để giải quyết quan  hệ xã hội phát sinh. 
Trường hợp 2: theo quan điểm thứ hai, cho rằng, về nguyên tắc chung, pháp 
luật sẽ áp dụng là pháp luật của chính quốc gia mà được pháp luật của quốc gia kia 
dẫn chiếu ngược trở lại hoặc pháp luật của nước thứ ba. 
Ngoài ra, vấn đề dẫn chiếu sẽ không tồn tại trong khi các quốc gia ký với nhau 
các hiệp định song phương (thường là các hiệp định TTTP) trong đó quy định các 
QPXĐ thống nhất, thì về nguyên tắc, các QPXĐ thống nhất sẽ được ưu tiên áp dụng. 
Việt Nam theo quan điểm thứ hai, đó là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại. Theo 
Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp 
luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà XHCN  Việt Nam.” 
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn chiếu 
ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận ở Việt Nam. 
Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các QPXĐ cũng có giới hạn và nhìn chung 
các QPXĐ của TPQT là thống nhất. Đa phần phụ thuộc vào cách giải thích và ý chí 
của tòa án thụ lý vụ việc. Chấp nhận dẫn chiếu cũng là tôn trọng ý chí của nhà lập 
pháp nước ngoài đã xây dựng nên quy phạm này. Nếu không chấp nhận dễ gây khó 
khăn trong việc thụ lý giải quyết vụ ciệc của tòa án. 
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước 
thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo TPQT các nước trên thế 
giới. Còn riêng trong TPQT của Việt Nam, thì vấn đề này được khẳng định là chấp 
nhận hiện tượng dẫn chiếu. 
5. Lẩn tránh pháp luật 
Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự dung những biện pháp cùng thủ 
đoạn để thoát khỏi HTPL đáng nhẽ phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ cả 
họ và nhằm tới một HTPL khác có lợi hơn cho mình.      lOMoARc PSD|17327243 8 
Mỗi quốc gia đều có hệ thống QPXĐ riêng, vì vậy, tuy cùng một vụ việc nhưng 
cách giải quyết ở các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận thấy HTPL thực chất do 
QPXĐ dẫn chiếu đến có khả năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ 
tìm cách tránh để không phải chịu sự điều chỉnh của HTPL đó và hướng đến một 
HTPL khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các QPXĐ sao cho có lợi nhất. Đây chính 
là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong TPQT. Để tránh áp dụng 
HTPL bất lợi cho mình và áp dụng HTPL có lợi hơn,chủ thể của quan hệ này thường 
áp dụng các thủ đoạn như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, 
chuyển động sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,… 
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường và đều 
tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật là vi 
phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện tượng “lẩn tránh pháp 
luật” trong TPQT hầu như chưa có, nhưng trong các VBPL đã quy định về vấn đề 
này như: Luật HNGĐ 2014, Nghị định 126/2014/NĐ – CP hay Điều 758 BLDS quy 
định về QHDS có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy định này cũng chỉ mới được 
thể hiện một vài khía cạnh, chưa đưa ra được cơ sở pháp lý chung để xử lý hiện 
tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài. 
Ngoài ra còn có 1 số trường hợp ảnh hưởng khác như trường hợp dẫn chiếu đến pháp 
luật của nước chưa được công nhận, và th vấn đề vó đi có lại trong việc áp dụng luật  nước ngoài. 
3. Cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài 
Xung đột pháp luật về quyền sở hữu được hiểu là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống 
pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan 
hệ sở hữu mà trong đó có yếu tố nước ngoài. Việc giải quyết xung đột pháp luật về 
quyền sở hữu có thể được coi là vấn đề trọng tâm khi đề cập tới quan hệ sở hữu trong  tư pháp quốc tế. 
Xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay được 
giải quyết dựa trên hai phương pháp là phương pháp thực chất và phương pháp xung 
đột. Khi giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, thì trước hết phải xác định 
đối tượng của vụ việc là động sản hay bất động sản, bởi vì trên thực tế việc xác định 
tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật 
về quyền sở hữu. Sau đó có thể áp dụng phương pháp xung đột hoặc phương pháp 
thực chất để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu. 
Hiện nay Việt Nam sử dụng phương pháp xung đột vẫn là phương pháp giải quyết 
chủ yếu. Về nguyên tắc chung, để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu      lOMoARc PSD|17327243 9 
theo pháp luật Việt Nam cũng cần dựa trên cơ sở nguyên tắc luật nơi có tài sản. Tức 
pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng luật của quốc gia nơi có tài sản để điều chỉnh các vấn 
đề về xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài 
sản. Căn cứ theo quy định này, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận quyền sở hữu 
của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng như các tổ chức, cá nhân Việt Nam đối 
với những tài sản tồn tại ở nước ngoài nếu quyền đó hình thành trên cơ sở pháp luật 
nước ngoài là nơi có tài sản. Khi tài sản đó được đưa vào Việt Nam một cách hợp 
pháp thì pháp luật Việt Nam vẫn thừa nhận quyền sở hữu của các chủ tài sản đó. Tuy 
nhiên, về nội dung và phạm vi hành xử quyền sở hữu trong trường hợp này phải do 
pháp luật Việt Nam quy định. - Về phương pháp xung đột 
Quy phạm xung đôt về quan hệ sở hữu tài sản là quy phạm ấn định luậ t pháp mộṭ 
quốc gia nào cần áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu tài sản 
có yếu tố nước ngoài trong môt tình huống thực tế.̣ 
(Đ ऀ  giải quyết v Ān đề xung đôt pháp luậ t về quyền sở hư뀃u đ Āi với tài sản 
là b Āṭ đông sản, pháp luậ t của đa s Ā các qu Āc gia đều ghi nhậ n nguyên tắc 
áp dụng luậ ṭ của qu Āc gia nơi có tài sản. Tuy nhiên, v Ān đề nảy sinh đó là nếu 
đ Āi với c甃ng môṭ tài sản mà qu Āc gia này quy định là đông sản nhưng qu Āc 
gia khác lại quy định lạ̀ b Āt đông sản thì sẽ phải giải quyết như thế nào? Hiện nay, 
hai khái niệ m “độ ng̣ sản” và “b Āt đông sản” chưa được hi ऀ u mộ t cách 
th Āng nh Āt trong hệ th Āng pháp̣ luât của mỗi qu Āc gia hay trên hệ th Āng 
pháp luật của thế giới. Tư뀀 đó phát sinḥ quy phạm xung đôt pháp luậ t trong v Ān 
đề định danh tài sản là động sản hay b Āṭ động sản.) 
Pháp luât của đa số các quốc gia và các điều ước quốc tế thường ghi nhậ  n luậ t 
nơị có tài sản là hê thuộ c để giải quyết xung độ t về định danh tài sản là động sản 
haỵ bất động sản. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó, theo quy định tại Điều 
677 Bô luậ t dân sự Việ t Nam 2015 cũng quy định việ c phân biệ t tài sản là độ ng 
sảṇ hoăc bất độ ng sản được xác định theo pháp luậ t của quốc gia nơi có tải sản.̣ 
Theo quy định tại Khoản 2 điều 678 của Bô luậ t dân sự 2015 thì quyền sở hữu và ̣ 
quyền khác đối với tài sản là đông sản trên đường vậ n chuyển được xác định theọ 
pháp luât của quốc gia nơi có tài sản là độ ng sản được chuyển đến, trừ trường hợp ̣ 
có thỏa thuân khác. Như vậ y, pháp luậ t Việ t Nam đã thực hiện áp dụng hệ thuộ c ̣ 
luât của quốc gia do các bên thỏa thuậ n lựa chọn, chỉ khi không có sự thỏa thuậ
 ṇ giữa các bên thì mới áp dụng hê thuộ c luậ t nơi có tài sản được chuyển đến. Nếụ 
các bên không thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có tài 
sản được chuyển đến sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột về quyền sở hữu. - 
Phương pháp thực chất      lOMoARc PSD|17327243 10 
Pháp luât điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài bằng quy phạm thực ̣ chất 
có nghĩa là quy định người nước ngoài có quyền sở hữu những loại tài sản gì, cho 
phép họ sử dụng quyền (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đối với tài sản ra sao. (Nếu 
ch椃ऀ  giải quyết xung đôt pháp luậ t về quyền sở hư뀃u dưới khía cạnh quy phạṃ 
xung đôt thì sẽ không đ y đủ và không được toàn diệ 
n. Hiệ u quả của cơ chế 
điềụ ch椃ऀ nh pháp luât là ở tính khả thi của các quy phạm pháp luậ t, trong đó 
quy phạṃ thực ch Āt đóng vai tr漃 quan tr漃⌀ng trong việc giải quyết xung đột 
pháp luật về quyền sở hư뀃u. Trên cơ sở đó, viêc phân tích về cơ sở pháp l礃Ā và 
việ c đảm bảọ quyền sở hư뀃u tại Viêt Nam đ Āi với người nước ngoài và người 
Việ t Nam định cư ợ̉ nước ngoài là r Āt c n thiết trong quá trình giải quyết xung 
đột pháp luật về quyền sở hư뀃u. Theo đó, Bô luậ t dân sự 2015 là đạo luậ t quan 
tr漃⌀ng, cụ th ऀ  hóa quyềṇ dân sự cơ bản nói chung và quyền sở hư뀃u nói riêng, 
là căn cứ đ ऀ  thực hiện giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hư뀃u.) 
4. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu 
Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có thể được coi là vấn đề trọng tâm 
khi đề cập tới quan hệ sở hữu trong tư pháp quốc tế hiện nay. Để giải quyết xung đột 
pháp luật về quyền sở hữu, các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp để giải 
quyết, đó là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột trên tinh thần tôn trọng 
và tuân thủ các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu. 
Thứ nhất, nguyên tắc luật nơi có tài sản. Nguyên tắc luật nơi có tài sản là nguyên tắc 
được áp dụng để xác định điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ sở hữu, 
nội dung quyền sở hữu đối với tài sản phát sinh xung đột về quyền sở hữu. 
Thứ hai, nguyên tắc luật nơi có tài sản được sử dụng để xác định luật của nước cần 
áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu bao gồm: định danh 
tài sản, xác định điều kiện phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ sở hữu và nội dung 
quyền sở hữu đối với tài sản phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. 
5. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế 
- ĐN: Áp dụng pháp luật nước ngoài là hoạt động thi hành pháp luật quốc gia 
thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh 
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 
- Sự cần thiết :Việc áp dụng pháp luật nước ngoài xuất phát từ những đòi 
hỏithực tế của thực tế khách quan, chủ yếu là nhằm điều chỉnh và giải quyết      lOMoARc PSD|17327243 11 
các quan hệ dân sự có tính chất quốc tế kể đến như 1 trong 3 yếu tố sau: chủ 
th ऀ (hai bên không cùng quốc tịch hoặc ít nhất một bên là người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài); khách th ऀ của quan hệ ở nước ngoài; căn cứ xác lập, 
thay đổi, ch Ām dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài. 
- Nguyên tắc: Việc áp dụng pháp luật nước ngoài phải tuân thủ theo nguyên 
tắc tôn trọng sự thỏa thuận 
Một trong những nguyên tắc điển hình đó là tôn trọng sự thỏa thuận. Điều này giúp 
điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế được khách quan và công bằng hơn, đảm bảo tốt 
nhất lợi ích của công dân tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Đồng thời, việc áp dụng 
pháp luật nước ngoài đảm bảo sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt 
trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế giới; đáp 
ứng việc củng cố, tăng cường và mở rộng quan hệ đa phương, đa diện của quốc gia  với nước ngoài. 
- Yêu cầu/ tiêu chí cơ bản khi áp dụng pháp luật nước ngoài trong hệ thống tư  pháp VN 
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan 
hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt 
trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế giới. 
Song việc áp dụng luật nước ngoài phải đáp ứng một số tiêu chí cơ bản sau: 
(i) Các cơ quan tư pháp có thẩm quyền cần áp dụng luật nước ngoài một cách thiện 
chí và đầy đủ. Điều này được hiểu là áp dụng cả hệ thống luật nước ngoài được 
viện dẫn , hệ thống luật nước ngoài được cơ cấu như thế nào, bằng những loại 
nguồn pháp luật nào đều phải được áp dụng mà không được loại bỏ một cách tùy  tiện; 
(i ) Pháp luật nước ngoài phải được giải thích và thực thi về nội dung như ở chính  nước nơi đó ban hành; 
(i i) Cơ quan tư pháp có thẩm quyền và cơ quan xét xử có nhiệm vụ tìm hiểu và xác 
định nội dung qua nghiên cứu văn bản pháp luật, qua thực tiễn hành pháp, tư 
pháp , tập quán , tài liệu… của nước hữu quan. Ngoài ra, có thể thông qua con 
đường ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự ở nước ngoài của nhà 
nước mình, cũng như thông qua các tổ chức tư vấn, công ty luật hoặc cơ quan 
nghiên cứu pháp lý để tìm hiểu luật nước ngoài một cách tốt nhất phục vụ cho 
việc xét xử. Các bên đương sự trong vụ việc cũng có quyền và trách nhiệm minh      lOMoARc PSD|17327243 12 
chứng, viện dẫn giải thích, vận dụng trước cơ quan xét xử để xác định nội dung 
đích thực của luật nước ngoài để bảo vệ lợi ích của mình. 
- Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài 
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Luật thương mại 2005 , Luật hôn nhận và 
gia đình …cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong 
trường hợp các văn bản pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam 
là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc trong trường 
hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy 
định của pháp luật Việt Nam. 
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan 
hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định,củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt 
trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cá thế giới. 
6. Các vấn đề pháp lý cơ bản về xung đột pháp luật? 
- Kn: Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác 
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong 
đó có thể sẽ xảy ra các kết quả không giống nhau, phụ thuộc vào việc hệ thống 
luật pháp nào được áp dụng. 
- Nguyên nhân: Hiện tượng xung đột pháp luật nói trên có thể xuất phát từ 
những nguyên nhân sau đây: 
Trên thực tế, mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, bởi vậy pháp luật của 
các nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau. 
Các điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế – xã hội phong tục tập quán, truyền 
thống lịch sử thậm chí là sự khác nhau về đặc điểm thể chất, tâm lý của công dân 
cũng dẫn đến sự khác nhau trong các quy định pháp luật cùng điều chỉnh một vấn  đề. 
- Phạm vi có xung đột pháp luật 
Về cơ bản, hiện tượng xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự theo 
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Còn 
trong các lĩnh vực quan hệ pháp luật khác như hình sự hoặc hành chính, đặc biệt là 
hành chính không xảy ra xung đột pháp luật bởi vì: 
Những ngành luật đó gần như mang tính hiệu lực lãnh thổ rất nghiêm ngặt đặc biết 
là các vấn đề liên quan tới quyền tài phán công, chính trị quốc gia có tính lãnh thổ  rất chất chẽ. 
Vì mang tính chất lãnh thổ chặt chẽ nên tất nhiên không một quốc gia nào muốn và 
cho phép áp dụng luật nước ngoài vào nội bộ của quốc gia mình.      lOMoARc PSD|17327243 13 
Trong các quan hệ về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước 
ngoài thường không làm phát sinh vấn đề xung đột pháp luật vì các quy phạm pháp 
luật trong lĩnh vực này mang tính tuyệt đối về lãnh thổ. Các quốc gia chỉ cho phép 
áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh các quan hệ trong trường hợp có điều 
ước quốc tế mà quốc gia đó đã tham gia kí kết đã quy định hoặc theo nguyên tắc có  đi có lại. 
- Phương pháp giải quyết XĐPL 
Các phương pháp được xử dụng để giải quyết tình trạng xung đột pháp luật trong tư 
pháp quốc tế gồm: Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. 
Phương pháp xung đột là phương pháp giải quyết được xây dựng dựa trên các quy 
phạm pháp luật xung đột. Nói một cách đơn giản thì phương pháp xung đột là 
phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết tình trạng xung đột pháp  luật. 
Quy phạm xung đột là các quy phạm pháp luật không quy định sẵn các quyền, nghĩa 
vụ các biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia tư pháp quốc tế mà nó chỉ có 
vai trò xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng. Nói đơn giản, quy 
phạm xung đột là các điều luật có nội dung chỉ dẫn tới việc sẽ áp dụng pháp luật 
nước nào để giải quyết tranh chấp. Ví dụ: khoản 2 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015 quy  định: 
Đây là một quy phạm xung đột điển hình. Nhìn vào điều luật này chúng ta sẽ không 
thể ngay lập tức giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế trong trường hợp bất động 
sản ở Anh hay ở Mĩ mà phải tìm xem quy định này nằm trong văn bản pháp luật nào 
của Anh hoặc Mĩ. Tức là từ quy phạm xung đột, ta tìm được quy phạm thực chất trực 
tiếp điều chỉnh vấn đề từ đó vấn đề được giải quyết => xung đột pháp luật được giải  quyết. 
Mặc dù không giải quyết được ngay lập tức tranh chấp nhưng phương pháp xung đột 
là phương pháp phổ biến và đặc thù của tư pháp quốc tế được hầu hết các quốc gia  áp dụng. 
Phương pháp thực ch Āt: Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy 
phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa 
là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Nói đơn 
giản là sử dụng các Điều luật có sẵn để giải quyết tranh chấp. 
Các quy phạm thực chất (hay các điều luật có sẵn) là quy phạm định rõ ràng các 
quyền, nghĩa vụ, biện pháp, chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp 
quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp dụng thì các đương sự cũng như 
cơ quan có thẩm quyền căn cứ ngay vào quy phạm để xác định được vấn đề mà họ 
đang quan tâm mà không cần phải thông qua một khâu trung gian nào. 
Các thức xây dựng các quy phạm thực chất:      lOMoARc PSD|17327243 14 
- Các quốc gia cùng thống nhất trong các ĐƯQT, tập quán quốc tế, án lệ quốc tế. - 
Nội luật hoá các quy định thực chất trong ĐƯQT hoặc tập quán, án lệ quốc tế vào 
văn bản pháp luật quốc gia. 
7. Quốc tịch của pháp nhân? Ý nghĩa và các nguyên tắc chính để xác định quốc tịch  của pháp nhân? (T69)   (Đ676 BLDS)  – 
Pháp nhân nước ngoài không xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại 
ViệtNam, có thể ở nước pháp nhân có quốc tịch hoặc một nước thứ ba: Đối với 
trường hợp này vấn đề đại diện của pháp nhân sẽ do pháp luật của nước mà pháp 
nhân có quốc tịch điều chỉnh và pháp luật nơi pháp nhân hoạt động. Trường hợp này 
không liên quan đến Tư pháp quốc tế Việt Nam.  – 
Pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam: 
Cácvấn đề có liên quan đến năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài sẽ 
được giải quyết theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, như đã phân tích, quy định tại 
Điều 676 là nguyên tắc chung để xác định năng lực chủ thể của mọi pháp nhân nước 
ngoài và cũng chỉ điều chỉnh vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân mà không đề 
cập đến vấn đề người đại diện của pháp nhân. Trở ngược về Bộ luật Dân sự 2005 và 
Bộ luật Dân sự 1995 cũng cho thấy chưa có quy định nào trực tiếp điều chỉnh vấn 
đề đại diện của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam nhưng qua các điều kiện thì có 
thể đưa ra một khái niệm cơ bản của pháp nhân như sau: Pháp nhân là một tổ chức 
(một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt 
động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Đây là một khái niệm 
trong luật học dùng để phân biệt với thể nhân (cá nhân) và các tổ chức khác. Nếu 
một tổ chức có tư cách pháp nhân thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của 
một pháp nhân mà luật đã quy định. 
Từ việc cắt nghĩa hai thuật ngữ trên, ta có thể rút ra khái niệm quốc tịch pháp nhân 
là tình trạng pháp lý của một pháp nhân. Pháp nhân hợp pháp khi nó được thành lập 
và hoạt động phù hợp với pháp luật của nước mà nó mang quốc tịch. Theo đó, các 
yếu tố xác định quốc tịch pháp nhân bao gồm: nơi đặt trụ sở của pháp nhân; trung 
tâm các hoạt động của pháp nhân; pháp luật nước mà pháp nhân được thành lập; 
trường hợp đặc biệt sẽ căn cứ vào quốc tịch của người thực sự làm chủ hay lãnh đạo  pháp nhân đó. 
7. Phân tích nguyên tắc cơ bản trong trọng tài quốc tế? (T117)   Nt thỏa thuận      lOMoARc PSD|17327243 15 
Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc nền tảng của trọng tài. Nguyên tắc thoả thuận 
được ghi nhận với hai nội dung, đầu tiên là các yêu c u về tr漃⌀ng tài viên. Trong 
Luật mẫu của UNCITRAL, các bên có quyền tự do thoả thuận về số lượng trọng tài 
viên cũng như cách thức bổ nhiệm trọng tài viên, khoản 1 Điều 10 quy định: "Các 
bên được tự do quyết định s Ā lượng tr漃⌀ng tài viên”' và khoản 2 Điều 10 quy  định thêm: 
"Nếu các bên không quyết định, s Ā lượng tr漃⌀ng tài viên sẽ là ba người”. 
Các quy tắc tố tụng trọng tài của Viện trọng tài Hà Lan quy định: 
"Nếu các bên không thoả thuận về s Ā lượng tr漃⌀ng tài viên, thì s Ā lượng này 
sẽ được xác định bởi người quản l礃Ā...” (Điều 12.1). và 
"nếu các bên đã thoả thuận về cách thức bổ nhiệm tr漃⌀ng tài viên khác với các thủ 
tục được quy định tại Điều 14, sự bổ nhiệm này sẽ được thực hiện theo thoả thuận 
của các bên chi ऀ u theo như뀃ng quy định của các đoạn sau” (Điều 13.1). 
Nguyên tắc thoả thuận không chỉ liên quan tới vấn đề trọng tài viên và lập hội đồng 
trọng tài mà còn liên quan tới các thủ tục t Ā tụng điều chỉnh toàn bộ quá trình 
trọng tài như địa điểm trọng tài được xác định như thế nào, ngôn ngữ sử dụng trong 
trọng tài là ngôn ngữ gì, phiên toà trọng tài diễn ra theo cách thức nào, cách xác định 
luật áp dụng điều chỉnh nội dung hanh chấp, thủ tục ra phán quyết .... về điểm này, 
Luật mẫu của UNCITRAL cho phép các bên tự do thoả thuận về các thủ tục mà hội 
đồng trọng tài phải thực hiện khi tiến hành tố tụng, mặt khác họ cũng có quyền thoả 
thuận về nơi tiến hành trọng tài (địa điểm trọng tài), ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng 
trọng tài (Điều 19.1; Điều 20.1; Điều 22). Theo Luật trọng tài của Thụy Sỹ, các bên 
có thể trực tiếp sử dụng hoặc dựa hên những quy tắc trọng tài xác định thủ tục trọng 
tài. Họ cũng có quyền "đặt quá trình tr漃⌀ng tài vận hành theo như뀃ng thủ tục 
được quy định trong Luật t Ā tụng được xác định bởi h漃⌀ ” (Điều 182.1).  • NT bình đẳng 
Nguyên tắc bình đẳng không chỉ được tìm thấy trong các điều ước quốc tế mà còn 
thấy trong hầu hết pháp luật các nước cũng như các quy tắc trọng tài mẫu. Luật mẫu 
của UNCITRAL 1985 ghi nhận như sau: “Các bên phải được đổi xử một cách công 
bằng và mỗi bên phải được trao đ y đủ cơ hội đ ऀ  trình bày về vụ việc của mình" 
(Điều 18). Tương tự, đạo luật trọng tài Thụy Điển có nêu rõ tại Phần 24: “Tr漃⌀ng 
tài sẽ trao cho các bên, trong phạm vi c n thiết, một cơ hội đ ऀ  trình bày về vụ 
việc của h漃⌀ bằng văn bản hoặc bằng miệng 
Trong Luật trọng tài thương mại 2010 của Việt Nam, nguyên tắc bình đẳng được ghi 
nhận tại khoản 3 Điều 4 như sau:      lOMoARc PSD|17327243 16 
• Nguyên tắc độc lập khách quan và vô tư 
Nguyên tắc này liên quan trực tiếp tới các trọng tài viên. Một trọng tài viên chỉ được 
xem là độc lập nếu không có bất kì lợi ích tài chính nào trong kết quả giải quyết vụ 
việc (chẳng hạn như ông ta là một cổ đông của một công ty đang là một bên tham 
gia tranh chấp) và cũng không có bất kì mối quan hệ nghề nghiệp nào với bất kì một 
bên tranh chấp nào. Trong mọi trường hợp, khi nhận ra nhũng yếu tố làm ảnh hưởng 
tới “tính độc lập” của mình, trọng tài viên có nghĩa vụ thông báo ngay cho các bên. 
Nếu ông ta không hành động như vậy, các bên khi tìm thấy những yếu tố ảnh hưởng 
tới sự độc lập của trọng tài viên có thể quyết định thay đổi trọng tài viên. Hơn nữa, 
để được xem là độc lập, một trọng tài viên cần tránh các cuộc tiếp xúc với duy nhất 
một bên, chẳng hạn như các cuộc trao đổi miệng trực tiếp giữa trọng tài viên với một 
bên mà không có mặt bên kia, hoặc trao đổi thông qua văn bản với một bên mà 
không đồng thời chuyển tới cho bên kia một bản sao. Nguyên tắc này được coi là 
nguyên tắc trung tâm của trọng tài thương mại quốc tế. Nó được đặc biệt nhấn mạnh 
trong các quy định mẫu của UNCITRAL, ICC, các quy định là công dân, khả năng 
có thể tham gia và năng lực của trọng tài viên trước khi chỉ định. Đối với chỉ định 
trọng tài viên duy nhất hoặc chủ tịch hội đồng trọng tài, trọng tài viên được chỉ định 
sẽ không có quốc tịch giống các bên trừ các trường hợp đặc biệt khác. 
Tưong tự như thế, Quy tắc trọng tài LCIA chỉ rõ: 
“Khi các bên có qu Āc tịch khác nhau, tr漃⌀ng tài viên duy nh Āt hoặc chủ tịch 
hội đồng tr漃⌀ng tài sẽ không có c甃ng qu Āc tịch với b Āt kì bên nào trư뀀 khi 
các bên có thoả thuận khác bằng văn bản ” (Điều 6.1). 
Trọng tài viên ngoài sự độc lập còn phải thể hiện rõ sự vô tư của mình trong quá 
trình giải quyết tranh chấp. Điều này đòi hỏi trọng tài viên luôn phải hành xử trong 
sự trung thực, ngay thẳng và công bằng. Một trọng tài viên bị cho là không vô tư 
nếu ông ta bày tỏ định kiến chống lại một trong số các bên hoặc kết quả xét xử. Một 
tình huống khá nhạy cảm thường xuyên xuất hiện trong quá trình thành lập hội đồng 
trọng tài gồm ba người đó là mỗi bên tranh chấp đều có quyền chỉ định một trọng 
tài viên. Trọng tài viên được chỉ định bởi một bên thường bị cho là có tình cảm với 
bên đã chỉ định ông ta. Bởi vì trọng tài viên này có thể có cùng những điều kiện kinh 
tế, quan điểm chính trị, lối sống và văn hoá với bên đã chỉ định ông ta. Tuy nhiên, 
nếu chỉ dựa vào những căn cứ này để kết luận về sự vô tư hay không vô tư của trọng 
tài viên thì sẽ là quá vội vàng và thiếu khách quan. Thực tế, trường hợp này vẫn 
thường xuyên xảy ra và vẫn được chấp nhận rộng rãi. Miễn là trọng tài viên sẽ không 
bị chi phối bởi yếu tố tình cảm trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.      lOMoARc PSD|17327243 17 
Nguyên tắc độc lập và vô tư cũng được thể hiện tại khoản 2 Điều 4 Luật trọng tài 
thưong mại 2010 của Việt Nam với nội dung tương tự như trong pháp luật trọng tài  các nước: 
“Tr漃⌀ng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp  luật”. 
Tuy nhiên, hiện không có điều khoản nào trong Luật trọng tài thưong mại 2010 cũng 
như các vãn bản pháp luật khác có liên quan ở nước ta quy định vấn đề quốc tịch 
của trọng tài trong trọng tài quốc tế.   Nguyên tắc chung thẩm 
Được quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thưong mại 2010 của Việt Nam như 
sau: ‘Phán quyết tr漃⌀ng tài là chung thẩm" 
8. Luật áp dụng trong tr漃⌀ng tài qu Āc tế (T117) 
Luật áp dụng cho chính Thỏa thuận trọng tài 
Trong thực tế, các bên thường không nêu rõ luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài 
của họ. Luật này điều chỉnh sự tồn tại, hiệu lực và cách giải thích của chính thỏa 
thuận trọng tài (xem cũng của chúng tôi khuyến nghị để soạn thảo một điều khoản  trọng tài trong 2021). 
Trường hợp vị trí trọng tài ở một khu vực tài phán khác với luật điều chỉnh hợp đồng, 
việc không nêu rõ luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có thể dẫn đến kết quả không 
nhất quán trước các tòa án trong nước. Ví dụ, trong Kabab-Ji SAL (Lebanon) v Kout 
Food Group (Cô-oét)([2020] EWCA 6), tòa án Anh (áp dụng luật Anh như luật điều 
chỉnh thỏa thuận trọng tài) nhận thấy rằng một bên đã không trở thành một bên bổ 
sung của thỏa thuận trọng tài và từ chối công nhận và thi hành phán quyết trọng tài, 
trong khi một tòa án Pháp phán quyết về cùng một vấn đề pháp lý trong Kabab-Ji 
SAL (Lebanon) v Kout Food Group (Cô-oét) (CA Paris, 23 Tháng 6 2020, n ° 
17/22943) từ chối dành giải thưởng sau khi áp dụng luật của Pháp cho thỏa thuận  trọng tài. 
Vấn đề này nảy sinh khi ngày nay hầu như không thể tranh cãi rằng điều khoản trọng 
tài là một thỏa thuận riêng biệt với hợp đồng chính mà nó được bao hàm. (cái gọi là 
nguyên tắc tự chủ hoặc tách biệt của điều khoản trọng tài). Điều này có nghĩa rằng, 
trong trường hợp không có sự lựa chọn của các bên, luật áp dụng cho thỏa thuận 
trọng tài không nhất thiết phải là luật điều chỉnh hợp đồng chính, nhưng luật như 
vậy là một lựa chọn thường được xem xét, cùng với luật ghế.      lOMoARc PSD|17327243 18 
Các 1958 Công ước New York về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài 
nước ngoài (các "Hội nghị New YorkGiáo dục) ủng hộ luật chỗ ngồi làm tùy chọn 
mặc định, vắng mặt một bữa tiệc’ sự lựa chọn rõ ràng hoặc ngụ ý, như dự kiến trong 
Điều V của nó(1)(một), cung cấp rằng trọng tài "hợp đồng [c n phải được] có hiệu 
lực theo luật mà các bên đã tuân theo hoặc, không có b Āt kỳ d Āu hiệu nào trên 
đó, theo luật của qu Āc gia nơi giải thưởng được thực hiệnGiáo dục, I E., theo luật 
của ghế. Tùy chọn mặc định này cũng đã được áp dụng bởi nhiều quy tắc thể chế, ví 
dụ, các 2020 Quy tắc LCIA, cung cấp trong Điều 16(4) cái đó "luật áp dụng cho 
Thỏa thuận tr漃⌀ng tài và tr漃⌀ng tài sẽ là luật áp dụng tại trụ sở tr漃⌀ng tàiGiáo 
dục (xem cũng là bình luận của chúng tôi về những thay đổi chính được giới thiệu 
bởi 2020 Quy tắc LCIA tại đây).   + Trang 233 + 235 GTR  .