Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên hệ thực tiễn | Tiểu luận cuối kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh
Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn hàng ngày, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TIỂU LUẬN
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM.
LIÊN HỆ THƯ꼣C TI$N. MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
5. Kết cấu của tiểu luận..............................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨ MỆNH GIAI CẤP
CÔNG NHÂN..............................................................................................................4
1.1.Khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh giai cấp công nhân............................4
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân......................................................................4
1.1.2. Khái niệm sứ mệnh giai cấp công nhân.......................................................5
1.2.Đặc điểm sứ mệnh giai cấp công nhân.................................................................6
1.3.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...............................................7
1.4.Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân .. 9
CHƯƠNG 2:THƯ꼣C TI$N VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................11
2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam...........................................11
2.2. Thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam...................................................12
2.3. Vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam.......................15
2.4. Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam................16
2.4.1.Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam..............................16
2.4.2. Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.....................................18
KẾT LUẬN................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................20 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng, xóa
bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình
đồng thời giải phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Tuy rằng để thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải trải qua những khó
khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn hàng ngày, hằng giờ gắng
sức hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giao phó, trong chiến tranh vì đấu tranh giải
phóng dân tộc, trong hòa bình thì xây dựng đất nước.
Hiện nay, trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu, nhiều người đã tỏ ra dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Bọn cơ hội, xét lại và các thế lực chống cộng có cơ hội mới
để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong giai đoạn mới hiện
nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới,
chủ nghĩa xã hội đang trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới còn đang có nhiều biến động, tiêu cực…thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Đối với nước ta, vấn đề này được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc, mà đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học
của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên .
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng
tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới làm thay đổi từ hình thái kinh tế xã hội này
sang hình thái kinh tế xã hội khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh
tế khác …mà còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên toàn thế giới,
nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới. 1
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác Lênin. Chính vì thế, nhóm chúng
em đã chọn đề tài : “ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên hệ
thực tiễn.” để nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Giai cấp công nhân Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu - Nhiệm vụ:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay
+ Phân tích được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
- Mục tiêu: Đề xuất một số mục tiêu và các nhóm giải pháp cơ bản cho sự phát
triển của đội ngũ công nhân ngày nay
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên lý,
phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời tuân thủ
các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá vấn đề.
- Phương pháp chung: Phương pháp logic- lịch sử, quy nạp, diễn kịch, phân tích tổng hợp
- Phương pháp cụ thể: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu
thập tài liệu, phân tích, sắp xếp,… để làm sáng tỏ vấn đề
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm có 2 chương: 2
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp giai cấp công nhân
- Chương 2: Thực tiễn về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay 3 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨ MỆNH GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1.Khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh giai cấp công nhân
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng
một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó: giai cấp vô sản, giai cấp
vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nền
nghiệp,… Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một
khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của sản xuất
đại công nghiệp, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương
thức sản xuất hiện đại.
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
là giai có có hai đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, có
trình độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân
hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công
trường thủ công. Giai cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ
thủ công thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối
cùng đến những người công nhân trong công nghiệp hiện đại.
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công
nhân không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
kiếm sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính
nó là đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp 4
lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện
đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã
có những thay đổi to lớn. Bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã
xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hoá, với việc áp dụng phổ
biến công nghệ thông tin vào sản xuất.
Từ những phân tích trên có thể hiểu giai cấp công nhân theo khái niệm sau:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; Là giai cấp đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến; Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai
cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản là không có tư liệu sản
xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng
dư; Ở các nước xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động
làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình”1 .
1.1.2. Khái niệm sứ mệnh giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây
dựng xã hội mới thực sự tốt đẹp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp công
nhân biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào tay giai
cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự thống trị của mình để từng
bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những 1
Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội (Dùng cho khối ngành không chuyên), nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [2;tr29] 5
công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã
hội mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp
công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được
bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
1.2.Đặc điểm sứ mệnh giai cấp công nhân
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức
công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao
động cao, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là chủ thể của
quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại.
Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn
luyện cho giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật
lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp
cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
Như vậy, những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp
công nhân có vai trò lãnh đạo cách mạng.
- Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam:
+ Giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn và chiếm 1 tỷ lệ ít trong
thành phần dân cư, nhưng do kế thừa được truyền thống đấu tranh anh dũng
kiên cường của dân tộc mà giai cấp công nhân nước ta luôn tỏ rõ là một giai cấp kiên cường, bất khuất.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong nỗi nhục mất nước cộng với
nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp 6
và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và
tính triệt để của cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam, lại
có Đảng lãnh đạo nên luôn giữ được sự đoàn kết thống nhất và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình
+ Giai cấp công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ
máu thịt với nông dân. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để thực hiện sự liên minh
giai cấp, trước hết là đối với giai cấp nông dân. Ngày nay, trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân làm việc ở các
cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay quê hương mình…
Tuy nhiên số lượng công nhân nước ta còn ít, trình độ văn hóa, tay nghề,
khoa học kỹ thuật còn thấp, cách thức làm việc có nơi, có chỗ còn tỏ ra tùy tiện,
manh mún. Do vậy để đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình, một trong
những điều kiện quan trọng là giai cấp công nhân Việt Nam phải liên minh được
với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.
1.3.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ
mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là
lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên ba nội cung cơ bản: - Nội dung kinh tế:
Giai cấp công nhân là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất để sản xuất của
cải vật chất ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và
xã hội. Bằng cách đó, giai cấp công nhân thạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự
ra đời của xã hội mới. 7
Mặt khác, tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi một quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
là nền tảng, tiêu biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp công nhân đại biểu cho
lợi ích chung của xã hội. Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất không có
lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó chỉ đấu tranh cho lợi ích chung của toàn xã
hội. Nó chỉ tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích chung của cả xã hội.
- Nội dung chính trị - xã hội
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp
thống trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp
công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của
nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của đại đa số nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do
mình làm chủ như một công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây
dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền kinh tế dân chủ -
pháp quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền
và lợi ích của nhân dân lao động, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý
tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung văn hóa, tư tưởng
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân xây dựng nền văn
hóa, con người mới, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi
thời và xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng, trong tâm lý,
lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. 8
1.4.Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, bao gồm:
- Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định.
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất
hiện đại. Vì thế, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến
và lực lượng sản xuất hiện đại
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân
là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay
mình, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân trở
thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ
điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng
chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ
người áp bức, bóc lột người.
- Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Là giai cấp sản xuất ra của cải chủ yếu cho xã hội, nhưng trong chủ nghĩa
tư bản họ lại là người không có sở hữu tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động để
kiếm sống, bị bóc lột nặng nề, lợi ích cơ bản của họ đối lập trực tiếp với lợi ích
cơ bản của giai cấp tư sản và thống nhất với lợi ích cơ bản của đa số nhân dân lao động.
Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có được
những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và
kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng mình và giải phóng xã hội.
1.5.Nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng 9
Về số lượng, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng với quy mô phát
triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp của kỹ thuật và công nghệ
Về chất lượng, chất lượng của giai cấp công nhân phải thể hiện ở trình độ
trưởng thành về ý thức chính trị của giai cấp cách mạng, tức là tự nhận thức được
vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công nhân
phải được giác ngộ vì lý luận khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chất lượng của giai cấp công nhân phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm
chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Như vậy, chỉ với sự phát triển như vậy về số lượng và chất lượng, đặc biệt
là về chất lượng thì giai cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
- Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi lịch sử của mình
Đảng cộng sản- Đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm
nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc
của giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng.
Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức là Chủ Nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng
nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. 10
CHƯƠNG 2:THƯ꼣C TI$N VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH
LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Trước cách mạng tháng Tám, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sứ mệnh này được
chia thành 2 bước: bước một, giai cấp công nhân trở thành lực lượng tiên phong,
tập hợp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đấu tranh chống thực dân Pháp,
giành độc lập dân tộc, giành quyền lực nhà nước về tay giai cấp mình; bước 2:
giai cấp công nhân cùng quần chúng nhân dân sử dụng bộ máy nhà nước cải tạo
xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục
đảm đương sứ mệnh lịch sử lớn lao, không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách
mạng mà còn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Giai cấp
công nhân là nòng cốt phải tự mình phấn đấu, nâng cao tri thức, tay nghề để có
thể làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra, phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông
nghiệp sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Tại hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng ta đã
khẳng định: "Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân
phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có
trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ
mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ
mệnh lịch sử của mình"2.
Đến hội nghị lần thứ Sáu, Ban chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta một lần
nữa đã xác định vai trò của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân trong thời kỳ đổi mới: Thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam;
giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến 2
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII,
nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7,tr98] 11
là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giai câp công
nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức…
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn này, giai cấp công nhân Việt Nam cần
phát triển không ngừng về số lượng, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của
một giai cấp tiên phong, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng.
2.2. Thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam
a) Số lượng, chất lượng và cơ cấu
Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu. Theo số liệu thống kê, tính đến
cuối năm 2013 tổng số công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm
12,8% dân số, 21,7% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, có 1.660.200 công
nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước; 6.854.800 công nhân trong các
doanh nghiệp ngoài nhà nước và 3.050.900 công nhân trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển nhanh, ngược lại, công nhân trong doanh nghiệp nhà
nước ngày càng giảm về số lượng. Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn
nghề nghiệp, có 70,2% tổng số công nhân có trình độ trung học phổ thông,
26,8% có trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu học. Công nhân có
trình độ trung cấp chiếm 17,9%, trình độ cao đẳng chiếm 6,6%, trình độ đại học
chiếm 17,4%, công nhân được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm 48%.
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn
chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về 12
số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm
trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông
dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động. Để hướng đến một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, số lượng
giai cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động
xã hội là hết sức khiêm tốn.
Trong điều kiện thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, sản
phẩm lao động được tạo ra với hàm lượng chất xám ngày càng cao, tính cạnh tranh
trong quá trình tham gia vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu ngày càng được đẩy
mạnh, thì vai trò của nguồn nhân lực, mà trực tiếp là người công nhân lao động sẽ
đóng vai trò quyết định. Trong thời gian tới, quá trình quốc tế hóa sản xuất với sự
phân công và hợp tác lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu
vực và trên thế giới. Khi chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và AEC đi vào thực chất, những
rào cản về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học công nghệ, thị
trường lao động được gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt.
Hiện ASEAN đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuận công
nhận lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề của cơ quan chính thức đối với 8 ngành
nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều
tra viên và du lịch. Việc công nhận trình độ lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là một
trong những điều kiện rất quan trọng trong việc thực hiện dịch chuyển lao động
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo dự báo của ILO, khi
tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. 13
Nhưng trình độ phát triển không đồng đều dẫn đến việc lao động có tay
nghề chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Những
lao động được chứng nhận về trình độ, kỹ năng sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây
sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số lượng công nhân lành nghề ở nước ta còn
khiêm tốn, buộc phải chấp nhận nguồn lao động di cư đến từ các nước khác có
trình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình độ của công nhân nước ta không được cải
thiện để đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
b) Ý thức chính trị, đạo đức, k\ luật và tác phong lao động
Hiện nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất
nhỏ còn in đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong
quá trình phát triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận những thành
phần mới, phần lớn là từ nông dân, họ còn trẻ tuổi đời, ý thức lập trường giai
cấp còn hạn chế. Vì vậy, “Công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã
hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”.
Dưới tác động của hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng động,
chủ động hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc ngày
càng cao hơn. Nhưng mặt khác, một bộ phận công nhân nước ta bị phai nhạt giá
trị đạo đức truyền thống, xa rời lý tưởng cách mạng. Kết quả một cuộc khảo sát
về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiện nay cho thấy: công nhân có lối
sống buông thả, thực dụng chiếm 27,9%; 22% ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân; 13,6%
phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18,7% có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống;
12,9% có thái độ bi quan, chán đời; 20,3% vô cảm trước bất công; 25,5% ứng
xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc; 29,4% đua đòi, lãng phí. Những kết quả khảo
sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luật lao động như: không sử dụng
thiết bị bảo hộ lao động (45,2%); đi muộn, về sớm (24,8%); lấy đồ của công ty
(11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); không hoàn thành định mức công
việc (25,6%); không chấp hành kỷ luật lao động (19,3%).
Điều này gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều công nhân coi công việc tại nhà 14
máy, xí nghiệp như là một cách mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp; họ
chưa coi đó là một sự nghiệp, không ý thức được vị trí và vai trò của giai cấp
mình. Qua khảo sát, chỉ có 23,5% tự hào là công nhân; 54,4% bằng lòng với vị trí
hiện tại; 4,5% cảm thấy thân phận làm thuê bị coi rẻ; 9% chẳng thích thú gì với thân phận của mình.
2.3. Vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam và đội tiên phong của nó đã lãnh đạo công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những thành tựu như xoá bỏ chế độ
người bóc lột người, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội như văn hoá, giáo dục, y tế,…
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, giai cấp công nhân Việt
Nam không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng để hoàn thành những
nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn
với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản, là giai cấp của
những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng
cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế,phát minh lý thuyết được ứng
dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất
sự tồn tại và phát triển xã hội.
Và, với tính cách như vậy, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu
cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây
dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền công nghiệp hiện đại, được rèn luyện
trong nền sản xuất tiến bộ, đoàn kết. Về phương thức lao động, phương thức sản
xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp. 15
2.4. Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
2.4.1.Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển
chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản
thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Chúng ta không phủ định
mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước
ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản
xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền
kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới, nhiều công nhân lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ
phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến
những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò vị
trí của giai cấp công nhân…phương hướng phát triển:
Một là, cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực
thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán
chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ chức xã hội có
nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân
phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn,
tiêu chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.
Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến
trình độ văn hóa, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chính trị
của họ. Xây dựng giai cấp công nhân phải thể hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo
bồi dưỡng nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn. Cần xem việc đào tạo nghề
nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như
mọi chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội khác. Một thế hệ công nhân mới giỏi về
chuyên môn, vững vàng về ý thức chính trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức
đối đầu với mọi thách thức. Nâng tầm trí tuệ, năng lực chuyên môn và ý thức chính
trị cho đội ngũ giai cấp công nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự 16
ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị – xã hội của Đảng trong thời kỳ mới.
Hai là, phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng
là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm
được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của
giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị
của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào
Đoàn, chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác
xây dựng Đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát
triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan,
mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu
kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn
chỉnh kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị nghị quyết mà nên có
những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn
thanh niên phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần
kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho
doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất,
tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn.
Các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được
thực thi và chấp hành nghiêm túc.
Ba là, phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công nhân.
Ký các hợp đồng lao động với công nhân phải được xem là tiêu chuẩn bắt buộc đối
với các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng lao động cần chú trọng thanh kiểm tra
điều kiện làm việc và cường độ lao động, không để và không cho phép chủ lao
động ép công nhân làm việc vượt quá mức về cường độ, thời gian làm việc. Vấn đề
này cần phải sớm được pháp luật quy định cụ thể. Quan tâm thích đáng đến đời
sống tinh thần, hình thành những tiêu chí có tính pháp quy về ăn ở, nơi vui chơi giải
trí, các tiện ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, thưởng thức các 17
chương trình văn hóa nghệ thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân cư và
các khu công nghiệp tập trung. Khuyến khích động viên và khen thưởng, cổ vũ
mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt, phê bình và xử lý thích đáng các đơn vị cố tình
không làm tốt, hoặc làm có tính chất đối phó, chiếu lệ… Sự thiếu thốn và nghèo
nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ làm cho đại bộ phận lao động trẻ sống và làm
việc trong môi trường không có cảm hứng sáng tạo, tính tích cực xã hội không có
điều kiện phát huy, lao động chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn,
thiệt thòi trước hết cho chính các doanh nghiệp.
2.4.2. Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Một là, xây dựng giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam trở thành lực lượng nòng cốt, động lực chủ yếu, lực lượng
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân trở thành lực lượng nòng cốt của
khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, xây dựng giai cấp công nhân phát triển và vững mạnh toàn diện là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị.
Bốn là, Đảng, Nhà nước phải dựa vào giai cấp công nhân, đồng thời phải
tạo mọi điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, toàn diện.
Năm là, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh phải gắn liền với việc xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. 18