Sự phát triển của CNXH khoa học trong giai đoạn của V.I.Lênin | Tiểu luận cuối kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với kim chỉ nam là Chủ nghĩa Mác - Lenin
và hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước ta đã vượt qua rất nhiều gian khó từ chiến tranh đến thời bình, từ ngoại xâm đến ổn định kinh tế, chính trị xã hội,... Ngày nay, chúng ta tự hào rằng mình đang sống trong một đất nước thịnh vượng an toàn, nơi mà người dân, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLCT120405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRONG
GIAI ĐOẠN CỦA V.I.LÊNIN
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CNXH: Chủ nghĩa xã hội
- CNXHKH: Chủ nghĩa xã hội khoa học
- NEP: New Economic Policy ( Chính sách kinh tế mới )
- XHCNKH: Xã hội chủ nghĩa khoa học - Sx: Sản xuất
- V.I.LENIN: Vladimir Ilyich Lenin ( là một nhà cách mạng, chính khách,
nhà lý luận chính trị người Nga ) MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................2
B.NỘI DUNG..................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÀ TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI V.I. LÊNIN CÙNG VỚI SỰ
RA ĐỜI CỦA CNXH KHOA HỌC...........................................................................................3
1.1: V.I. lênin – nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới...........................................................3
1.2: Sự ra đời của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa học..................................................................5
CHƯƠNG 2: V. I. LÊNIN VỚI SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC
TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ CỦA NƯỚC NGA...............................................7
2.1: V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học trong
thời kỳ trước cách mạng tháng 10 Nga.................................................................................7
2.1.1: Tư tưởng chuyên chính vô sản........................................................................................7
2.1.2: Tư tưởng liên minh công nông.......................................................................................7
2.1.3: Về thời kỳ quá độ............................................................................................................8
2.1.4: Về chính sách cộng sản thời chiến, Thuế lương thực và NEP với chủ nghĩa tư bản nhà
nước........................................................................................................................................10
2.1.5: V.I.Lênin với vấn đề dân chủ........................................................................................10
2.2: V. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học trong thời
kỳ sau cách mạng tháng 10 Nga..........................................................................................12 2.2.1 : V
. I. Lênin - phân tích làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ ..............12
2.2.2: Xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội..........................................................15
2.2.3: Xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định NEP.............................16
CHƯƠNG 3: V.I.LENIN VẬN DỤNG SỰ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC TRONG
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ CỦA NƯỚC NGA GÓP PHẦN VÀO ĐỔI MỚI
TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH NGÀY NAY.................................................................22
3.1: Quan niệm về CNXH (mô hình CNXH) và biện pháp để xây dựng CNXH (con
đường đi lên CNXH) từ thực tiễn nước Nga......................................................................22
3.2: V. I. Lênin nhà cách tân vĩ đại đầu tiên trong lịch sử xây dựng CNXH Khoa học và
đổi mới trong công cuộc cải cách ngày nay........................................................................24
C.KẾT LUẬN...............................................................................................................................26
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................27 A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với kim chỉ nam là Chủ nghĩa Mác - Lenin
và hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước ta đã vượt qua rất nhiều gian khó từ chiến tranh đến
thời bình, từ ngoại xâm đến ổn định kinh tế, chính trị xã hội,... Ngày nay, chúng ta tự hào
rằng mình đang sống trong một đất nước thịnh vượng an toàn, nơi mà người dân, người lao
động đến các các bộ quan chức đều chung sống vui vẻ hòa thuận cùng nhau. Đó là thành quả
của nỗ lực xây dựng, phát triển đất nước mà Đảng và Nhà nước đóng vai trò vô cùng to lớn.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin là chủ nghĩa của tình thần đoàn kết, đại diện cho giai cấp công nhân
và người lao động, với 3 bộ phận cấu thành đó là CNXHKH, Triết học và Kinh tế chính trị.
Trong suốt dòng thời gian lịch sử, Chủ nghĩa Lác Lê nin đã cho thấy những phẩm chất, đặc
điểm mà chỉ mình nó có. Đặc biệt, Chủ nghĩa Mác Lê nin đã trả thành tinh thần, trở thành
con đường soi sáng cho sự nghiệp phát triển đất nước của dân tộc ta. Để có thể thấu hiểu và
mong muốn được đóng góp một phần nhỏ trong kế hoạch lớn của tổ quốc bọn em đã quyết
định chọn đề tài “Sự phát triển của CNXH khoa học trong giai đoạn của V.I.Lênin" để nghiên
cứu những đặc điểm, tố chất ưu việt và sự vận dụng của CNXHKH trong quá khứ để ứng
dụng cho sự nghiệp phát triển đất nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm tóm tắt sự vận dụng và phát triển sáng tạo về CNXH Khoa học của V.I.Lenin trong
điều kiện mới, trang bị cho người học các kiến thức cơ bản về sự ra đời chủ nghĩa xã hội, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về V.I. lênin – nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Ngoài ra
còn là những vấn vấn đề về chính trị - xã hội thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hiểu thêm
về đường lối chính sách của V.lenin trong thời kỳ vươn lên XHCNKH. Từ những kiến thức
cơ bản đó, sinh viên có khả năng vận dụng tri thức đã học vào việc đánh giá, nhận định
những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước liên quan đến chủ nghĩa xã hội khoa học
(CNXHKH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay. Hơn thế nữa việc nghiên cứu
đề tài tiểu luận này còn giúp sinh viên có thái độ tích cực học tập với các môn lý luận
– chính trị, có niềm tin vào mục tiêu và lý tưởng và sự thành công của công cuộc đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. 1
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp là cách thức người ta tiến hành một công việc nào đó. Phương pháp
nghiên cứu của CNXHKH là cách thức nghiên cứu môn học này. Có thể nêu mấy phương pháp sau. -
Phương pháp luận chung của chủ nghĩa xã hội khoa học -
Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể -
Phương pháp kết hợp lịch sử - logic 2 B.N ỘI DU NG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÀ TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI V.I. LÊNIN CÙNG
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA CNXH KHOA HỌC
1.1: V.I. lênin – nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 trong một gia đình trí thức có tinh thần dân chủ,
V.I.Lênin đã sớm đến với chủ nghĩa Mác. Ngay từ năm 1900, khi xuất bản số đầu tiên của
báo Tia lửa – tờ báo do V.I.Lênin sáng lập - Lênin đã chỉ rõ sự cấp bách phải thống nhất
tất cả các lực lượng giác ngộ của giai cấp vô sản Nga, thành lập một chính đảng lấy chủ
nghĩa Mác làm nền tảng mới có thể đưa cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động đến thắng lợi. Cùng với nhiều nhà dân chủ xã hội Nga, V.I.Lênin đã đầu tư,
tích cực chuẩn bị cả về tư tưởng, lý luận lẫn tổ chức cho sự ra đời của Đảng Công nhân
Dân chủ - Xã hội Nga - tiền thân của Đảng Bônsêvích (Đảng Cộng sản Nga) vào năm
1903. Trong Cương lĩnh của mình, Đảng đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chuyên chính vô sản.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn nước Nga, dưới sự lãnh đạo của
V.I.Lênin, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã thắng lợi trọn vẹn.
Sự kiện này đã đặt ra nhiệm vụ mới đối với V.I.Lênin – nhiệm vụ lãnh đạo Đảng Cộng
sản Nga, nhân dân Nga bảo vệ chính quyền công – nông, xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Nga và lãnh đạo cách mạng vô sản đang hình thành và
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. V.I.Lênin đã dành toàn bộ phần còn lại của cuộc đời
thực hiện nhiệm vụ này.
Có thể nói, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, V.I.Lênin đã cống hiến cho nhân loại
nhiều thành tựu vĩ đại cả về lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, V.I.Lênin đã đúc kết toàn bộ chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hệ thống, cơ
bản và trong khi bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của phái dân túy, của những
người theo chủ nghĩa Makhơ, theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại và luận điệu phản cách mạng
của nhiều nhà tư tưởng tư sản khác, V.I.Lênin đã bổ sung nhiều nội dung mang tính chân
lý bền vững cho cả 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, trong đó:
Ở triết học, đấy là những nội dung về thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp
biện chứng duy vật, về lý luận nhận thức, về nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội, về
vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, v.v. 3
Ở kinh tế học chính trị, V.I.Lênin là người đầu tiên đưa ra kế hoạch đi lên chủ nghĩa xã hội ở
quốc gia mà giai cấp vô sản đã giành được chính quyền nhưng tiền đề về kinh tế và văn hóa
của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ. Đó là Chính sách kinh tế mới (NEP) với nhiều thành phần
kinh tế mà mục tiêu của nó là phát triển sản xuất để giải phóng người lao động trên cơ sở kỹ
thuật tiên tiến, quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự quản lý của nhà nước chuyên
chính vô sản. V.I.Lênin cũng là người xác định nhiệm vụ kinh tế - xã hội cơ bản có ý nghĩa
quyết định trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện xã hội hóa sản xuất
trong thực tế với những nhiệm vụ cơ bản là công nghiệp hóa, từng bước đưa nền sản xuất nhỏ
lên nền sản xuất lớn thông qua con đường hợp tác hóa đồng thời phải tiến hành cách mạng về
văn hóa, không ngừng nâng cao ý thức chính trị, trình độ học vấn, khoa học - kỹ thuật cho
nhân dân, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tư tưởng, tập quán cũ, làm cho nhiệt tình cách mạng,
tinh thần sáng tạo của nhân dân được phát huy mạnh mẽ v.v.
Ở chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin đã làm giàu thêm chủ nghĩa xã hội khoa học bằng
lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí ở
một nước; về đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, về thời kỳ
quá độ với các hình thức quá độ, các “bước quá độ”, các mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ
quá độ; đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ, v.v.
Với những cống hiến của V.I.Lênin, chủ nghĩa Mác đã phát triển thành Chủ nghĩa Mác-
Lênin - chủ nghĩa thể hiện trọn vẹn sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và
tính nhân văn của những người đã sáng lập, bảo vệ và phát triển nó.
Về thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga 1917 đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Khác
với các cuộc cách mạng trước đó, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười ở Nga không
thay thế hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà cuộc cách mạng này đã
thiết lập nền chuyên chính vô sản, thủ tiêu mọi hình thức bóc lột vì vậy đã tạo ra một
bước ngoặt căn bản trong lịch sử, mở ra một thời đại mới cho nhân loại - thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Là Lãnh tụ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới, V.I.Lênin không chỉ quan tâm đến vận mệnh của nước Nga, mà còn luôn quan tâm sâu
sắc đến vận mệnh của các dân tộc thuộc địa. Bằng sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Nga, V.I.Lênin đã xác định
đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trong thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa, giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế trong cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản; đồng thời vạch ra những vấn đề có tính nguyên tắc của giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tư tưởng của V.I.Lênin về đoàn kết giai cấp công nhân ở
tất cả các quốc gia; các dân tộc bị áp bức là một chủ thể trong tiến trình thực hiện cách mạng;
vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại; v.v. còn 4
mang tính chiến lược định hướng, thúc đẩy các cuộc đấu tranh giành độc lập trên phạm vi
toàn cầu, thúc đẩy cho các trào lưu đấu tranh giành quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.2: Sự ra đời của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa học.
Bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra quả luật
vận động của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó cho phép ông dụ bảo khoa
học về sự ra đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. VILênin
cho rằng: C.Mác xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư bản,
phát triển lên từ chủ nghĩa tư bản là kết quả tác động của một lực lượng xã hội do chủ
nghĩa tư bản sinh ra - giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại. Sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin có hai điều kiện chủ yếu sau đây: - Điều kiện kinh tế
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã thừa nhận vai trò to lớn của chủ nghĩa tư
bản khi khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát
triển mới của nhân loại. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập
trung nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí (Cách mạng công nghiệp lần thứ 2), chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa
đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một lực l lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tao ra đến lúc đó. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ ra
rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa lực lượng sát xuất cũng được cơ khi hóa, hiện đại hóa
cũng mang tinh xã hội hóa cao thì cũng màu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
dựa trên chế độ chiếm hữu từ nhân từ bản chủ nghht. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai
trò mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thi ngày càng trở nên lỗi thời, xiềng xích
của lực lượng sản xuất.
- Điều kiện chính trị - xã hội
Mâu thuẫn giữa tinh chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhảy hiện đại với giai cấp
tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay
từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ rét. C. Mác và Ph. Angghen chỉ
rõ: “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản
xuất ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng.
Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mô của nền đại công nghiệp cơ khí là sự trưởng thành
vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại công 5
nghiệp. Chính sự phát triển và lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công
nhân là tiền đề kinh tế- xã hội dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Diễn đạt tư tưởng đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp tư sản không chỉ tạo vũ
khí để giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó, những công nhân hiện
đại, những người vô sin'. Sự trưởng thành vượt bậc và thực sự của giai cấp công nhân
được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng cộng sản, đổi tiền phong của giai cấp công nhân,
trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân l động dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên thực tế được thực hiện bằng con đường bạo lực cách
mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyển chính và sản, thực
hiện sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cách mạng vô sản, về mặt lý thuyết cũng có thể được tiến hành
bằng con đường hòa bình, nhưng vô cùng hiếm quá và trên thực tế chưa xảy ra.
Do tính sâu sắc và triệt để của nó, cách mạng vô sản chỉ có thể thành công, hình thải kinh
tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập và phát triển trên cơ sở của chính
nó, một khi tính tích cực chính trị của giai cấp công nhân được khơi dậy và phát huy trong
liên minh với các giai cấp và tầng lớp những người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 6
CHƯƠNG 2: V. I. LÊNIN VỚI SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA
MÁC TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ CỦA NƯỚC NGA
2.1: V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học trong
thời kỳ trước cách mạng tháng 10 Nga
Trên cơ sở những di sản lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã xây
dựng một hệ thống lý luận mang tính nguyên tắc cho các đảng mácxít kiểu mới của giai cấp công nhân.
2.1.1: Tư tưởng chuyên chính vô sản
V.I. Lênin là học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen, là lãnh tụ vĩ đại của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Công lao to lớn của V.I. Lênin là tiếp thu
và phát triển sáng tạo những di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
mới, đồng thời biến những di sản lý luận đó thành hiện thực cách mạng XHCN ở nước
Nga. Trong hệ thống lý luận đó, vấn đề chuyên chính vô sản là một trong những lý
luận quan trọng nhất, nó được V.I. Lênin kế thừa, vận dụng và bổ sung trong quá trình
tổng kết thực tiễn cách mạng nước Nga. Nghiên cứu tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên
chính vô sản, có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, về tính tất yếu của chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ. Sau
Cách mạng Tháng Mười, trên cơ sở phân tích đặc trưng kinh tế, chính trị của
thời kỳ quá độ ở nước Nga, V.I. Lênin đã nêu rõ quan điểm về tính tất yếu
của chuyên chính vô sản.
Hai là, về thực chất và nhiệm vụ của chuyên chính vô sản
Ba là, về liên minh công nông trong nhà nước chuyên chính vô sản
Bốn là, về Đảng Cộng sản trong chuyên chính vô sản
2.1.2: Tư tưởng liên minh công nông.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã khẳng định vai trò của liên minh công nông trong
sự nghiệp đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột - lực lượng cơ bản trong cuộc cách mạng XHCN.
Giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp, trực tiếp sản xuất trong dây chuyền
đại công nghiệp, và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, họ có tri thức,
hiểu được quy luật tiến hóa của tự nhiên và của xã hội. Giai cấp nông dân chiếm số đông
trong xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có nhiệt tình cách mạng và đặc 7
biệt có cùng chung lợi ích, lý tưởng với giai cấp công nhân. Hai giai cấp này liên minh
với nhau sẽ tạo thành sức mạnh vô địch, không gì có thể ngăn cản nổi. cơ sở để thực hiện
liên minh trong thời kỳ quá độ là kinh tế. Trong thời kỳ nội chiến, sự hình thành bước đầu
của liên minh công nông là liên minh quân sự để bảo vệ Chính quyền Xô viết. Nhưng như
thế chưa đủ, liên minh quân sự không thể không kèm theo liên minh kinh tế. Không có cơ
sở kinh tế, thì không thể tiếp tục duy trì liên minh giữa giai cấp vô sản với nông dân cũng
như các tầng lớp khác trong xã hội. Bởi, chỉ trên cơ sở lợi ích kinh tế và tập quán của
nông dân, mới nhận được sự ủng hộ từ nông dân và bảo đảm được sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản đối với nông dân, dẫn dắt nông dân đi theo con đường XHCN. Qua nhiều lần
tìm tòi, khảo nghiệm, V.I. Lênin đã chọn được con đường đúng đắn để xây dựng liên
minh công nông, đó chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Tất cả những điều đó cho
thấy, cơ sở của liên minh chính là lợi ích kinh tế, đây là mối liên hệ biện chứng, thống
nhất với nhau, xét đến cùng kinh tế luôn quyết định chính trị. Không thể dùng bạo lực,
sức mạnh hành chính mệnh lệnh để giải quyết vấn đề liên minh giai cấp
Trong cách mạng XHCN, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân vẫn là lực lượng cơ
bản quyết định thắng lợi. Người nói nông dân “là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công
nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Liên minh công nông phải được thực hiện trong mọi
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự… Muốn xây dựng CNXH thành công thì phải thực
hiện liên minh công nông vững chắc, phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế XHCN, làm
cho nông nghiệp thật sự trở thành cơ sở để phát triển công nghiệp, và công nghiệp phát
triển để thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, phục vụ đắc lực cho nông nghiệp. Người
chỉ rõ: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế”, khi “có một nền nông
nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh”; ngược lại: “Công nghiệp
phát triển thì nông nghiệp mới phát triển”. Cho nên, “Công nghiệp và nông nghiệp phải
giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ
nhanh, và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông, để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”.
2.1.3: Về thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để hình thành một xã hội mà trong đó
những nguyên tắc căn bản của CNXH sẽ được thực hiện. Theo Lênin, thời kỳ quá độ này
bắt đầu từ khi giai cấp vô sản. giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong về
cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ
sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng.
Thời kỳ quá độ cũng là một thời kỳ tất yếu trong lịch sử. Tính tất yếu đó được quy định
bởi những nguyên nhân sau: 8
Thứ nhất, bản chất khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, một
cái dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, một cái dựa trên cơ sở tư
hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội chủ nghĩa cộng sản không tôn tại giai cấp và
bóc lột còn tư bản chủ nghĩa phân chia xã hội thành hai giai cấp có sự khác biệt sâu
sắc: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản và luôn tồn tại sự áp bức bóc lột đối với giai
cấp vô sản, sau cuộc cách mạng vô sản giai cấp công nhân đã dành được chính
quyền nhưng ngay thời điểm đó trong xã hội vẫn còn tồn tại tư hữu và giai cấp. Mà
tư hữu và giai cấp là hai yếu tố hoàn toàn trái ngược với nền tảng của chủ nghĩa xã
hội (công hữu và phi giai cấp). Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xã hội có
khác biệt về bản chất quá lớn như vậy cần có thời gian.
Thứ hai, nên sản xuất của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất đại công nghiệp
trình độ cao. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đóng góp cho nhân loại những tiến
bộ vượt bậc về năng suất, kỹ thuật và sản lượng. Nó tạo nên một tiền đề về vật chất
kỹ thuật có thể sử dụng để xs chủ nghĩa xã hội. Ví dụ như sự phát triển khoa học
kỹ thuật, các nhà máy nhà xưởng hiện đại, đội ngũ công nhân tay nghề cao. Tuy
nhiên không thể bê nguyên những cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội tư bản để phục
vụ cho xã hội chủ nghĩa mà cần phải có thời gian để tổ chức, sắp xếp lại sao cho
phù hợp. Đặc biệt với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ chính là thời kỳ chuẩn bị cơ sở vật chất- kỹ thuật
cho sự đi lên CNXH. Quá trình này mất nhiều thời gian và đòi hỏi đất nước phải tiến hành CN hóa HĐ hóa.
Thứ ba, Các quan hệ trong CNXH là kết quả của quá trình xây dựng và cải
tạo XHCN. Sự phát triển của CNTB dù ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những
điều kiện, những tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội trong CNXH, do vậy
cần có thời gian để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Cuối cùng, Công cuộc xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, còn gặp
nhiều khó khăn, phức tạp nên cần có thời gian để công nhân làm quen với những
công việc đó. Thời gian dài ngắn của thời kỳ quá độ phụ thuộc vào trình độ phát
triển của từng nước. Trình độ phát triển càng cao thì thời kỳ quá độ càng ngăn. Đối
với những nước trải qua CNTB phát triển ở trình độ cao thì khi tiến lên CNXH thời
kì quá độ có thể ngăn hơn và bớt khó khăn hơn nhiều so với các nước có xuất phát
điểm là CNTB ở trình độ trung bình, tiên tư bản hay có nền kinh tế lạc hậu.
Chính vì những lẽ trên mà thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu bắt buộc phải có trong tiến
trình đi từ CNTB lên CNXH. Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa chính là thời kì diễn ra
sự chuyển giao giữa cái cũ và cái mới. Đây cũng được coi là một trong những nhân tố quy
định lên đặc điểm của thời kì quá độ. 9
2.1.4: Về chính sách cộng sản thời chiến, Thuế lương thực và NEP với chủ nghĩa tư bản nhà nước
Tháng 3-1921, V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho Chính
sách cộng sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”.
V.I. Lênin đã xuất phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội của nước Nga lúc bấy giờ: Một
là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế
tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ
nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đó tồn tại xen kẽ và
tác động qua lại lẫn nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu
nông sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất. Hai là, nền đại
công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng non yếu; các
quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển. Ba là, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội
trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc. Bốn là, nước Nga là nước làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư bản quốc tế bao vây chống phá.
Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lênin đã đề ra NEP trong
giai đoạn nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.
Việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ, những mắt xích
trung gian để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, là phương thức để phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, là những hình thức và phương pháp mới xây dựng chủ nghĩa xã hội thay
cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi.
Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với sự thừa nhận sự tồn
tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, kinh tế thị
trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông
nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực, chú trọng
kích thích lợi ích vật chất và coi đó là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế, sử
dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
2.1.5: V.I.Lênin với vấn đề dân chủ
2.1.5.1: Dân chủ và chế độ dân chủ
Trong Mười đề cương về chính quyền Xôviết, V.I.Lênin coi dân chủ là tự do.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có
gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”. Phát triển tư tưởng của 10
C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhiều lần khẳng định rằng “chế độ dân chủ” là
một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Chế độ dân chủ
cũng là nhà nước, do đó nhà nước mà mất đi thì chế độ dân chủ cũng mất theo.
Những giá trị dân chủ, theo V.I. Lênin, cần được giai cấp công nhân vận dụng để
thực hiện sứ mệnh của mình, mà trước hết là để xây dựng một chính đảng của giai cấp công nhân.
2.1.5.2: Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Dân chủ là một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp khi xã hội xuất hiện giai
cấp và quan hệ giai cấp. Dân chủ luôn mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của
giai cấp cầm quyền. Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực của nhân dân
thì các thành quả của dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn trong quá trình
giải phóng con người. Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ được coi như là một hình
thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, vì thế không thể tách rời vấn đề nhà
nước với vấn đề giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước gắn trực tiếp với
một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản xuất thống trị thì dân
chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho
mọi giai cấp. Tính giai cấp của dân chủ được phản ánh trong các quan hệ giai cấp
và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là dân chủ cho giai cấp nào,
tầng lớp nào, hạn chế dân chủ và chuyên chính với ai. Mỗi giai cấp giải thích về
dân chủ, cả về phương diện lý thuyết và thực tế với các cách thức và mức độ khác
nhau, tuỳ lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp mình.
2.1.5.3: Nguyên tắc tập trung dân chủ
V.I. Lênin trình đã trình bày nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ như
sau: Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng, Tất cả các cơ
quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm báo cáo công tác và có thể bị
bãi miễn. Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân chủ - xã hội giác ngộ
và sinh hoạt độc lập. Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của mọi tổ chức đảng;
Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh giành địa bàn, sự lo sợ “phái” khác; Thống
nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần túy về tư tưởng giữa các trào lưu tư
tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các tổ chức đảng; Xác định rõ rệt
nguyên nhân tranh10 luận giữa các trào lưu tư tưởng trong đảng là điều kiện cần
thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh, để giáo dục giai cấp công nhân và tránh
được sự sai lầm về đường lối. …Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, theo
V.I.Lênin, trong Đảng cần phải thực hiện kỷ luật chặt chẽ, thống nhất; thực hiện
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên; tổ chức các cấp 11
và toàn thể đảng viên của Đảng phải chấp hành nghị quyết đại hội đại biểu của
Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của V.I.Lênin, nguyên tắc tập trung dân chủ
không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền,
mà trước hết và trên hết, nó chính là chế độ tổ chức và nguyên tắc tổ chức của đảng.
2.1.5.4: Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và CNXH
V.I.Lênin đã phân tích, làm rõ quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “Không có chế độ dân chủ thì chủ
nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: Thứ nhất: giai cấp
vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không
được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân
chủ. Thứ hai: chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình
và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện
được đầy đủ chế độ dân chủ.” V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải phân
biệt sự khác nhau về nguyên tắc giữa hai giai đoạn đấu tranh vì dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, mặc dù giữa chúng có sự giao kết với nhau. Theo Lênin, giai cấp vô
sản không thể đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nếu không thực hiện hoàn toàn và
triệt để chế độ dân chủ, nếu không đem những yêu sách dân chủ được đề ra một
cách kiên quyết nhất gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh cách mạng.
2.2: V. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
trong thời kỳ sau cách mạng tháng 10 Nga
2.2.1: V. I. Lênin - phân tích làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ
2.2.1.1: Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: lịch sử
xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế -xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã
hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác
biệt về chất, trong đố không có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành
người tự do…,.Bởi vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C. Mác khẳng định:
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản”. V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga xô- viết
cũng khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”. 12
Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Công xã Pari (1871), C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định rằng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản là một quá trình biện chứng, lâu dài, gồm nhiều nấc thang quá độ và ở
mỗi nấc thang quá độ ấy có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng với một hình thức
nhà nước thích hợp. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ được qui định một cách cụ thể
bởi những đặc điểm văn hóa, những đặc thù của xuất phát điểm của các nước, các
chế độ xã hội khác nhau khi tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính đặc điểm văn hóa và
đặc thù của điểm xuất phát khi bước vào thời kỳ quá độ sẽ qui định nội dung, đặc
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và độ dài của thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia. Điều này
cũng có nghĩa, mỗi quốc gia. Điều này cũng có nghĩa, mỗi quốc gia sẽ có thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đặc sắc riêng của mình.
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ
nghĩa xa hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản:
Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp
lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra;
Hai là, quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những
nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả
Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước
xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý luận Mác - Lênin, đều đang trải qua
thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau.
Ba là, Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin, trong thời đại ngay nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời
đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu,
sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2.2.1.2: Đặc điểm thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã
hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang
tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ
nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó. 13
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách
mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ thuật và đời sống
tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau: - Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế,
tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập
tới đặc trưng này, VILênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận
dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành
phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội
không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận
điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau
hiện có ở Nga, chính là như thế nào?. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở
đó”. Tương ứng với nước Nga, VI Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành
phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa nhỏ; kinh tế tư bản; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị, là
việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc giai cấp
công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây
dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công
nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ
chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn
thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu
tranh diễn ra trong điều kiện mới- giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền,
với nội dung mới- xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có
tính kinh tế, và hình thức mới- cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng
khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa
với sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân. 14 -Trên lĩnh vực xã hội
Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ quá độ còn
tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội,
các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời
kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, về phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công,
xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã
hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
2.2.2: Xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu to lớn: thiết lập chính
quyền nhân dân ở cả miền Nam, thống nhất nước nhà; khôi phục kinh tế, khắc phục hậu
quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức
việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công
tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là cột
mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Công cuộc đổi mới qua hơn bốn năm đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Tình hình kinh tế - xã hội có chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường
chúng ta đang đi là đúng. Tuy nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, có thể rút ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học
xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. 15
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa
đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và
là bài học lớn của cách mạng nước ta như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ
nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc
tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí
tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống được những
nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
2.2.3: Xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định chính sách kinh tế mới
2.2.3.1: Hoàn cảnh ra đời của Chính sách kinh tế mới.
Cuối năm 1920, nước Nga Xô Viết ra khỏi nội chiến, chuyển sang xây dựng chế độ
xã hội mới trong điều kiện hoà bình song với những khó khăn to lớn: hậu quả của
chiến tranh đế quốc và nội chiến đã tàn phá nền kinh tế nặng nề, tình hình kinh tế - xã
hội rối ren, nông dân ở nhiều nơi tỏ ra bất mãn với chính sách “Cộng sản thời chiến”,
thể hiện ở cuộc bạo loạn ở Crôn- Xtat. Chính sách Cộng sản thời chiến là một biện
pháp bắt buộc trong hoàn cảnh nước Nga cuối năm 1918 nội chiến nổ ra có sự can
thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu nhằm bóp chết Nhà nước
Xô viết non trẻ. Trong điều kiện chiến tranh và kinh tế bị tàn phá, thực hiện khẩu hiệu
mà V.I.Lênin nêu ra: “Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù”, Chính sách Cộng 16