



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA SẢN
XUẤT HÀNG HÓA VÀ LIÊN HỆ THỰC
TIỄN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Thị Hoài
Lớp học phần: 242_RLCP1211_14
Nhóm thực hiện: 01 Hà Nội, 2025
DANH SÁCH THÀNH VIÊN STT HỌ VÀ TÊN MSV
CHỨC VỤ NHIỆM VỤ ĐIỂM 1 Dương Thị Vân Anh
23D185051 Thành viên 2.4.2, 2.5 A 2 Đỗ Nhật Anh
23D185050 Thành viên 1.1, 1.2 A 3 Lê Quang Anh
23D185052 Thành viên 1.3, 1.4 A 4 Nguyễn Lan Anh
23D185053 Thành viên 2.1, 2.2 A 5 Tạ Đức Anh
23D185054 Thành viên Thuyết trình A 6 Trần Phương Anh
23D185055 Thành viên 2.3, 2.4.1 A 7 Nguyễn Thị Ngọc Ánh
23D185056 Thành viên Thuyết trình A 8 Đào Thị Linh Chi
23D185057 Thành viên Powerpoint A 9 Hà Mạnh Cường 23D185058 Nhóm Powerpoint, A trưởng Mở đầu, Kết luận 10 Dương Thị Duyên 23D185059 Thành viên Word A 2 LỜI CẢM ƠN
Nhóm 1 chúng em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô Đặng Thị Hoài, người đã
trực tiếp giảng dạy chúng em môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin năm học 2024-
2025. Với chúng em, những kiến thức quý giá mà cô truyền đạt đã giúp chúng em
chạm tới gần hơn những kiến thức sâu rộng của bộ môn Kinh tế chính trị Mác -
Lênin và xa hơn là những kiến thức áp dụng vào trong cuộc sống thực tiễn.
Đề tài thảo luận của nhóm chúng em là : “Sự ra đời, phát triển của sản xuất
hàng hóa và liên hệ thực tiễn phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam”. Do những
hạn chế về kiến thức, bài thảo luận không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Nhóm
chúng em rất mong sẽ nhận được sự hướng dẫn, nhận xét của cô để bài thảo luận
của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô! 3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
MỞ ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
1.Lý do chọn đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2.Đối tượng nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
3.Mục đích nghiên cứu: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
4.Nhiệm vụ nghiên cứu: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
5.Phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
6.Kết cấu đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ . . . . . . . . . . 9
1.1.Khái niệm của sản xuất hàng hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
1.2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
1.3.Sự phát triển của sản xuất hàng hoá: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
1.4.Ưu và nhược điểm của sản xuất hàng hoá: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
1.4.1. Ưu điểm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
1.4.2. Nhược điểm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIẾN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG
HÓA Ở VIỆT NAM . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam trước thời
kỳ đổi mới cho đến nay . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
2.1.1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
2.1.2. Thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế hàng hóa (từ năm 1986 đến
nay) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
2.2. Khẳng định sự cần thiết của việc sản xuất hàng hóa tại Việt Nam . 16
2.3. Đặc điểm phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam. . . . . . . . . . . . . 19
2.4. Thực tiễn phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam: . . . . . . . . . . . . 21
2.4.1. Ưu điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam: . . . . . . . . . . . . . . . . 21
2.4.2. Nhược điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . 24
2.5. Giải pháp khắc phục hạn chế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 26 4
KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 30
BIÊN BẢN CUỘC HỌP . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 32 5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chắc hẳn rằng ai trong số chúng ta cũng đã từng đặt ra câu hỏi rằng làm sao mà ta
lại có được những vật dụng xung quanh, từ đồ ăn, đồ uống, đồ dùng trong cuộc sống
thường ngày cho đến nhà cửa, đất đai, xe cộ. .? Thực chất, để sở hữu bất cứ loại đồ vật
nào, con người ta đều phải thông qua quá trình trao đổi và mua bản. Và trong quá trình
ấy, tất cả những sự vật trên được gọi là hàng hoa. Vậy chúng được coi là hàng hoa từ thời điểm nào?
Xã hội loài người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng từ thuở sơ khai đã hình
thành loại hình kinh tế được gọi là nền kinh tế tự nhiên – sản xuất tự cung tự cấp: tức là
sản phẩm được làm ra là để thoả mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu
sản xuất nay gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân
công lao động kém phát triển. Có lẽ bởi vậy mà nhu cầu sử dụng và tiêu dùng của con
người bị giới hạn một cách đáng kể. Tuy nhiên, ở thời điểm mà các nước có sự thay đổi
trong việc đổi mới nền kinh tế cũng chính là giây phút mà thế giới có một bước ngoặt đáng kể.
Với bất kỳ quốc gia nào, nền kinh tế hàng hóa xuất hiện cũng đóng vai trò chủ đạo
chi phối đáng kể vào hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta, sau hơn chục
năm đổi mới một cách toàn diện, đứng trước những hoàn cảnh hết sức khó khăn phức
tạp nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam không những đã đứng vững được mà còn vươn
lên đạt được những thắng lợi trên nhiều mặt. Vậy câu hỏi đặt ra là vì sao nước ta có thể
đứng vững và vươn lên phát triển được như ngày nay? Nguyên nhân cơ bản có lẽ đến từ
sự kiên quyết của Đảng và Nhà nước khi chuyển đổi từ nền kinh tế hàng hoa tập trung
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước
ngoặt quan trọng thể hiện sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam làm thay đổi
cục điện mọi mặt của đời sống xã hội.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn
chế. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn định kinh tế trong
nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều
thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá được 6
hình thành để rồi thay thế cho nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, đất nước ta đã có
những sự phát triển lớn dần trong các công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập toàn cầu. Và kể từ khi nền kinh tế sản xuất hàng hóa ra đời, nhu cầu và chất lượng
cuộc sống của con người cũng được đáp ứng một cách đầy đủ hơn. Một quốc gia có thể
được coi là phát triển mạnh mẽ chỉ khi quốc gia ấy có nên móng vững chắc. Và để có
nền móng vững chắc thì điều đầu tiên quốc gia ấy cần phải đảm bảo thỏa mãn và đáp
ứng được những nhu cầu cơ bản của người dân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
đất nước và xu hướng chung của thời đại.
Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, quá trình phát triển quá độ
của xã hội cùng với những công nghệ tiên tiến vượt bậc. Công nghệ sản xuất hàng hóa
với chất lượng và số lượng không ngừng được thay đổi. Chính vì vậy việc nghiên cứu
điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế sản xuất hàng hóa là một việc làm giúp ta hiểu sâu
hơn về quá trình ra đời của hàng hóa. Từ đó liên hệ đối với nước ta, nhằm làm cho qua
trình sản xuất hàng hóa của nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn. Chính
vì thực tiễn nêu trên mà nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài “Sự ra đời, phát triển
của sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam”. Do
những hạn chế về mặt kiến thức và thời gian, bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi
những sai sót. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để bài viết thêm phần
sâu sắc. Chúng em chân thành cảm ơn!
2. Đối tượng nghiên cứu
Sự ra đời, phát triển của sản xuất hàng hoá và thực tiễn phát triển sản xuất hàng hoá ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm hiểu điều kiện ra đời, sự phát triển, ưu, nhược điểm của sản xuất hàng hoá.
+ Tìm hiểu quá trình phát triển, đặc điểm, ưu, nhược điểm về sản xuất hàng hoá Việt Nam từ trước đến nay.
+ Đề xuất một số giải pháp khắc phục hạn chế và thúc đẩy sản xuất hàng hoá Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về sản xuất hàng hoá.
+ Phân tích quá trình phát triển sản xuất hàng hoá Việt Nam từ trước đến nay.
+ Đánh giá ưu điểm, hạn chế của sản xuất hàng hoá tại Việt Nam. 7
+ Đề xuất giải pháp để khắc phục hạn chế và phát triển sản xuất hàng hoá.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định tính, kết hợp với các phương pháp cụ thể khác như phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích – tổng hợp.
6. Kết cấu đề tài
- Mở đầu: Lí do chọn đề tài, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu - Nội sung
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về sản xuất hàng hoá.
+ Chương 2: Liên hệ thực tiễn phát triển sản xuất hàng hoá ở Việt Nam. - Kết luận 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
1.1. Khái niệm của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị Mác-Lênin
dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải là
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán trên thị trường. Nói
cách khác, toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng, các câu hỏi sản
xuất cái gì, như thế nào, và cho ai đều thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài
người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
- Một là phân công lao động xã hội:
+ Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động, trong xã hội thành các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất
thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc
một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Theo C.Mác:
“Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc dầu
ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động
xã hội”. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa
càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
- Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất:
+ Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người
sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao 9
đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân
độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.
+ Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các
chủ thể sản xuất hiện diện khách quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người
càng phát triển, sự tách biệt về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Như vậy, phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn
chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc lập với nhau. Con người không thể dùng ý chí chủ
quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa
sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định,
nền sản xuất hàng hóa có ưu thế vượt trội so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
1.3. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá:
Trong suốt chiều dài lịch sử, ở các xã hội trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản, sản
xuất hàng hóa chỉ tồn tại ở mức đơn giản, mang tính phụ thuộc. Tuy nhiên, sản xuất
hàng hóa phát triển mạnh khi lực lượng sản xuất gia tăng, làm xuất hiện sự tách biệt
giữa các đơn vị kinh tế. Sự phát triển của quan hệ hàng hóa đã thúc đẩy nhanh chóng
quá trình phá vỡ chế độ phong kiến, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, hình thức sản xuất hàng hóa phổ biến và phát triển nhất chính là sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Các giai đoạn phát triển của sản xuất hàng hóa:
+ Giai đoạn sơ khai: Sản xuất hàng hóa lần đầu xuất hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ
công xã nguyên thủy, sau đó tiếp tục duy trì và phát triển qua các phương thức sản xuất tiếp theo.
+ Giai đoạn phát triển cao: Trong chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hóa đạt trình độ cao,
trở thành hình thức sản xuất chủ yếu và đặc trưng trong lịch sử.
+ Giai đoạn duy trì và phát triển: Dưới chủ nghĩa xã hội, sản xuất hàng hóa vẫn tiếp
tục tồn tại và phát triển, dù hình thức sở hữu và phân công lao động có nhiều khác biệt 10
so với chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện đó, sản xuất hàng hóa không còn giữ vai trò
trung tâm nhưng vẫn đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá là quá trình tất yếu của lịch sử kinh tế nhân loại.
Từ sản xuất tự cung tự cấp đến kinh tế thị trường hiện đại, nó đã thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất, tạo ra sự phân công lao động sâu sắc và mở đường cho nền kinh
tế toàn cầu. Tuy nhiên, các vấn đề về bất bình đẳng, cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí
hậu đang đặt ra những thách thức lớn cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
1.4. Ưu và nhược điểm của sản xuất hàng hoá:
1.4.1. Ưu điểm
So với nền sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có nhiều ưu thế nổi bật hơn:
+ Thứ nhất: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu
cầu hay năng lực của một cá nhân, một gia đình hay một cộng đồng nhỏ lẻ. Thay vào
đó, sản xuất hàng hóa được mở rộng dựa trên nhu cầu của thị trường, tạo điều kiện cho
việc tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất với quy mô lớn hơn.
+ Thứ hai: Sản xuất hàng hóa tuân theo quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, buộc
các nhà sản xuất phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu chi phí và cải tiến công nghệ
để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Sự cạnh tranh này thúc đẩy năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế và giúp người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn với giá cả hợp lý hơn.
+ Thứ ba: Sản xuất hàng hóa phát triển dựa trên sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hóa trong các khâu của quá trình sản xuất. Nhờ đó, các ngành sản xuất có
thể khai thác tối đa các nguồn lực về tự nhiên, xã hội và con người, tạo ra sản phẩm có
giá trị cao hơn và đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa tạo động lực thúc đẩy xã hội tiến bộ, đẩy mạnh
sự phân công lao động và chuyên môn hóa, từ đó tăng năng suất lao động và chất lượng
sản phẩm. Tuy nhiên, nó cũng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, dẫn đến sự bất bình đẳng trong xã hội. 11
1.4.2. Nhược điểm
Bên cạnh những lợi ích rõ ràng, sản xuất hàng hóa cũng để lại một số mặt tiêu cực như:
+ Gia tăng khoảng cách giàu nghèo: Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, sự chênh
lệch về tài sản, thu nhập và cơ hội có thể gia tăng giữa các tầng lớp trong xã hội.
Người sở hữu tư liệu sản xuất và tư bản có xu hướng giàu lên nhanh chóng, trong khi
người lao động dễ bị thiệt thòi.
+ Hủy hoại môi trường sinh thái: Việc sản xuất hàng hoá có thể gây ra ô nhiễm
nguồn nước khi xả không kiểm soát, suy giảm hệ sinh thái khi khai thác quá mức tài
nguyên thiên nhiên, sử dụng các máy móc sẽ thải ra khí nhà kính gây biến đổi khí hậu.
+ Gia tăng các vấn đề xã hội như: Thất nghiệp, tệ nạn, suy thoái đạo đức và gia tăng tội phạm
+ Tạo sự cạnh tranh không lành mạnh: Khi có những cuộc cạnh tranh khốc liệt sẽ
dẫn tới phá giá, liên minh thao túng giá và sử dụng chiêu trò quảng cáo sai sự thật.
+ Tạo ra khủng hoảng thừa, thiếu: Khủng hoảng thừa sẽ dẫn đến dư thừa hàng hóa,
cung lớn hơn cầu sẽ dẫn đến phá sản. Khủng hoảng thiếu khi nguồn cung nguyên liệu
sản xuất bị gián đoạn, khi đó giá tăng cao, lạm phát. 12
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIẾN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới cho đến nay
2.1.1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
a, Tổng quan về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Sản xuất hàng hóa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và quá trình hình thành thị trường từ xa xưa. Tuy
nhiên, trong suốt thời kỳ bao cấp trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo
mô hình kế hoạch hóa tập trung, với Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất, phân
phối và lưu thông hàng hóa. Đây là mô hình kinh tế được nhiều nước xã hội chủ nghĩa
áp dụng, với niềm tin rằng việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất và phân phối sẽ
giúp huy động tối đa nguồn lực để phát triển đất nước.
Tuy nhiên, do mô hình này không dựa trên quy luật của kinh tế thị trường mà vận
hành theo mệnh lệnh hành chính, nên nền kinh tế nhanh chóng bộc lộ những hạn chế
nghiêm trọng. Hoạt động sản xuất không dựa trên cung – cầu thực tế, mà phụ thuộc vào
các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đề ra. Điều này khiến nền kinh tế mất cân đối trầm
trọng: nhiều mặt hàng dư thừa nhưng không thể lưu thông hiệu quả, trong khi hàng hóa
thiết yếu lại rơi vào tình trạng khan hiếm kéo dài.
b, Thực trạng sản xuất hàng hóa và nền kinh tế nông nghiệp
Nền kinh tế thời kỳ này chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhưng phương thức sản xuất
vẫn còn lạc hậu, phụ thuộc vào thiên nhiên, với năng suất thấp. Theo thống kê, vào năm
1980, khoảng 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp, nhưng sản lượng lương thực lại không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Sản
lượng lúa năm 1980 chỉ đạt 14 triệu tấn, mức rất thấp so với nhu cầu thực tế, khiến tình
trạng thiếu đói kéo dài.
Giáo sư Trần Văn Thọ đã nhận định: "Mười năm sau 1975 là một trong những giai
đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông
nghiệp nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng 13
lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại
nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976."
Việc quản lý sản xuất thông qua mô hình hợp tác xã nông nghiệp khiến nông dân
không có động lực sản xuất, vì toàn bộ sản lượng đều bị Nhà nước thu mua theo giá cố
định. Hậu quả là nhiều hộ gia đình bỏ bê sản xuất, đất đai bị bỏ hoang, và tình trạng
thiếu lương thực ngày càng nghiêm trọng. Nguy cơ thiếu ăn kéo dài đến mức một số địa
phương phải áp dụng chính sách "phá rào" – cho phép nông dân giữ lại một phần sản
phẩm để tự tiêu dùng hoặc trao đổi trên thị trường tự do.
c, Sự đình trệ của công nghiệp và thương mại
Không chỉ nông nghiệp, công thương nghiệp cũng lâm vào tình trạng đình trệ. Việc
tập trung toàn bộ hoạt động sản xuất vào các doanh nghiệp nhà nước khiến khu vực kinh
tế tư nhân gần như bị loại bỏ. Các nhà máy, xí nghiệp hoạt động không hiệu quả, do
thiếu nguyên liệu sản xuất, máy móc lạc hậu và cơ chế vận hành kém linh hoạt. Sản
phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu của người dân, dẫn đến tình trạng thiếu hụt
hàng tiêu dùng nghiêm trọng.
Giáo sư Trần Văn Thọ tiếp tục phân tích: "Công thương nghiệp đình trệ, sản xuất
đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó.
Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi,
nguyên nhân chính của tình trạng này là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát
triển, đặc biệt là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam."
Một minh chứng điển hình cho sự trì trệ của nền kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh
tế trong giai đoạn 1976–1980 chỉ đạt 0,4%/năm, trong khi dân số tăng trung bình
2,3%/năm, khiến thu nhập bình quân đầu người giảm sút. Tình trạng lạm phát tăng cao,
có thời điểm lên tới 700%/năm, khiến giá cả leo thang, đời sống người dân ngày càng khó khăn.
d, Cơ chế phân phối và hệ thống tem phiếu 14
Do thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, Nhà nước buộc phải áp dụng hệ thống tem
phiếu để phân phối nhu yếu phẩm. Mỗi người dân chỉ được mua một lượng lương thực,
thực phẩm và hàng tiêu dùng theo mức quy định, bất kể nhu cầu thực tế. Hệ thống này
không chỉ gây bất tiện, mà còn tạo ra sự phân biệt giữa các nhóm dân cư, khi một số đối
tượng được ưu tiên tiếp cận hàng hóa hơn những người khác.
Người dân phải xếp hàng dài từ sáng sớm để mua thực phẩm, trong khi nhiều mặt
hàng như thịt, đường, sữa trở thành thứ xa xỉ. Tình trạng buôn bán "chợ đen" phát triển
mạnh, bất chấp các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt từ chính quyền.
Trong một thời kỳ rất dài, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia cho rằng sản xuất
hàng hóa ra đời dựa trên hai điều kiện đó là phân công lao động xã hội và sự ra đời của
chế độ tư hữu. Có thể thấy rằng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ những
hạn chế nghiêm trọng. Sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào hoạt động sản xuất và
phân phối không chỉ làm suy yếu động lực sản xuất, mà còn khiến nền kinh tế mất cân
đối, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.
Như Giáo sư Trần Văn Thọ nhận định: "Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986)
mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của
Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong khi dân số tăng 22%. Như
vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ khoảng 1% mỗi năm – một con số vô cùng thấp."
Sự trì trệ của nền kinh tế trong suốt một thập kỷ là minh chứng rõ ràng cho việc các
cơ chế, chính sách thời kỳ bao cấp không chỉ không phù hợp với quy luật của sản xuất
hàng hóa, mà còn đi ngược lại quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Đây chính
là động lực khiến Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới năm 1986, chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – một
bước ngoặt lịch sử thay đổi hoàn toàn diện mạo đất nước.
2.1.2. Thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế hàng hóa (từ năm 1986 đến nay)
Từ năm 1986, với chính sách Đổi mới, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hóa phát triển
mạnh mẽ. Trong giai đoạn 1986 - 2000, Việt Nam xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện 15
chính sách mở cửa nền kinh tế, khuyến khích kinh tế tư nhân và thu hút đầu tư nước
ngoài. Nhờ đó, nền kinh tế dần phục hồi, sản xuất hàng hóa phát triển, đặc biệt trong
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Việt Nam từ một nước thiếu đói đã trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới vào năm 2000. Ngành dệt may, da giày cũng phát
triển, đặt nền móng cho xuất khẩu hàng hóa. GDP năm 2000 đạt khoảng 31 tỷ USD,
tăng trưởng trung bình 7%/năm.
Bước sang giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam gia nhập WTO (2007), mở rộng quan
hệ thương mại quốc tế, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường toàn cầu. Quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh, nhiều khu công nghiệp và nhà máy
lớn được xây dựng. Các tập đoàn công nghệ lớn như Samsung, Intel đầu tư vào Việt
Nam, đưa công nghiệp điện tử trở thành ngành xuất khẩu chủ lực. GDP năm 2010 đạt
khoảng 116 tỷ USD, tỷ lệ xuất khẩu tăng mạnh, đưa Việt Nam vào nhóm các nền kinh tế mới nổi.
Từ 2011 đến nay, Việt Nam tập trung chuyển đổi mô hình tăng trưởng, hướng đến
nâng cao chất lượng sản xuất thay vì số lượng, đồng thời đầu tư mạnh vào công nghệ và
tự động hóa. Xuất khẩu hàng hóa đạt mức kỷ lục, năm 2023, kim ngạch xuất khẩu đạt
hơn 700 tỷ USD. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử với các
nền tảng như Shopee, Tiki, Lazada giúp mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa. Việt Nam
cũng đang trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của khu vực, với sự tham gia của
các tập đoàn lớn như LG, Apple, Foxconn, tạo động lực cho sự phát triển của công
nghiệp chế tạo và sản xuất công nghệ cao.
Tóm lại, trải qua hơn ba thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc
về sản xuất hàng hóa, từ nền kinh tế bao cấp khép kín sang một nền kinh tế thị trường
năng động, hội nhập sâu rộng với thế giới, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
2.2. Khẳng định sự cần thiết của việc sản xuất hàng hóa tại Việt Nam
Sản xuất hàng hóa đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm,
phát triển lực lượng lao động chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và mở rộng thị 16
trường xuất khẩu. Quá trình công nghiệp hóa đã giúp nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi
từ mô hình nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, trong đó các ngành chủ
lực như điện tử, dệt may, nông nghiệp công nghệ cao đóng góp hơn 60% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Quy luật giá trị trong kinh tế Mác - Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc tối ưu hóa chi phí sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh, từ đó tạo động lực mạnh mẽ
cho các doanh nghiệp đổi mới, cải tiến quy trình sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
Hơn thế nữa, sản xuất hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Nếu như vào năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu thực
hiện Đổi mới, kim ngạch xuất khẩu của cả nước chỉ đạt khoảng 789 triệu USD, với các
mặt hàng chủ yếu là nông sản thô và khoáng sản, thì đến năm 2022, con số này đã tăng
lên 371,85 tỷ USD, thể hiện mức tăng trưởng vượt bậc. Đặc biệt, trong năm 2023, tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước,
tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT),
robot tự động hóa và dữ liệu lớn (Big Data) vào sản xuất đã giúp nhiều doanh nghiệp
Việt Nam như VinFast, Vingroup, Samsung Việt Nam, Foxconn nâng cao chất lượng
sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đơn cử như VinFast – một
trong những doanh nghiệp tiên phong trong ngành công nghiệp ô tô điện, không chỉ
phục vụ thị trường nội địa mà còn mở rộng xuất khẩu sang Mỹ, Canada và châu Âu.
Không chỉ vậy, các hiệp định thương mại tự do như EVFTA, CPTPP, RCEP đã mở
rộng cánh cửa xuất khẩu sang các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản. Nhờ đó,
Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 22 trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới vào
năm 2019, tăng từ vị trí thứ 50 vào năm 2010. Năm 2023, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch 98,4 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm
trước, trong khi xuất khẩu sang EU và Nhật Bản cũng ghi nhận mức tăng trưởng 16,4% và 4,6%.
Bên cạnh đó, cơ cấu xuất khẩu cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Nếu như trước đây,
xuất khẩu chủ yếu dựa vào nông sản và khoáng sản thô, thì hiện nay, nhóm hàng công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm hơn 88,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Một số mặt hàng
xuất khẩu chủ lực gồm điện tử, máy tính (57,34 tỷ USD), điện thoại và linh kiện (53,18 17
tỷ USD), máy móc thiết bị (43,17 tỷ USD), dệt may (44 tỷ USD). Điều này cho thấy,
Việt Nam đã chuyển dịch thành công từ nền kinh tế xuất khẩu thô sang sản xuất các sản
phẩm có giá trị gia tăng cao.
Cùng với sự phát triển của ngành sản xuất, sản xuất hàng hóa còn tạo ra hàng triệu
việc làm cho người lao động, đặc biệt trong các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh,
Bình Dương và TP. Hồ Chí Minh. Từ năm 1986 – khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi
mới – đến năm 2023, ngành công nghiệp đã trở thành một trụ cột quan trọng của nền
kinh tế, với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 12,3% giai đoạn 1986-2005, cao hơn 1,7
lần so với 20 năm trước đó. Đến năm 2020, ngành công nghiệp chế biến chế tạo chiếm
16,7% GDP, tăng mạnh so với mức 13% năm 2010. Đặc biệt, năm 2024, chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) ước tăng 8,4% so với năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo
tăng 9,6%, sản xuất xe có động cơ tăng 21,1% và sản xuất thiết bị điện tăng 11,9%. Điều
này không chỉ giúp giải quyết bài toán việc làm mà còn thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng lao động chất lượng cao thông qua các chương trình đào tạo nghề do Chính phủ
khuyến khích. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ, các ngành công nghiệp
hiện đại như chế tạo ô tô, hàng không, công nghệ phần cứng đang ngày càng đòi hỏi đội
ngũ lao động có kỹ năng cao, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo tiền
đề cho sự bứt phá của nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn chung, sản xuất hàng hóa không chỉ là động lực quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế, mà còn giúp Việt Nam khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Với
những thành tựu đạt được, Việt Nam đang dần trở thành một trung tâm sản xuất hàng
hóa quan trọng của khu vực Đông Nam Á, cạnh tranh trực tiếp với Thái Lan, Indonesia,
đồng thời gia tăng sự hiện diện trên thị trường quốc tế.
Kết luận: So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt làm
thay đổi nền kinh tế Việt Nam, nâng cao trình độ sản xuất, cải thiện đời sống vật chất
và đáp ứng đa dạng nhu cầu của người dân. Ngoài ra sản xuất hàng hóa mở rộng nền
kinh tế thị trường, tạo cơ sở trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị.
Bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng tồn tại nhiều mặt trái như phân hóa giàu
– nghèo, khủng hoảng kinh tế – xã hội, phá hoại môi trường sinh thái xã hội,... 18
2.3. Đặc điểm phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Sản xuất hàng hóa là một hình thức kinh tế trong đó sản phẩm không chỉ được tạo ra
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của người sản xuất mà còn để trao đổi, mua bán
trên thị trường. Ở Việt Nam, quá trình phát triển sản xuất hàng hóa đã trải qua nhiều giai
đoạn, phản ánh sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ sau Đổi Mới năm 1986, Việt Nam đã có những bước
chuyển mình mạnh mẽ trong việc phát triển sản xuất hàng hóa, mở cửa thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, đời sống nhân dân
được nâng cao và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được củng cố.
+ Thứ nhất, sự phát triển của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam là kết quả của quá trình
chuyển đổi mạnh mẽ sau Đổi Mới.
Trước Đổi Mới, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, sản xuất
nhỏ lẻ và ít gắn kết với thị trường. Nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu kinh tế, nhưng năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, sản xuất manh mún. Tuy nhiên,
sau Đổi Mới, nền kinh tế đã dần chuyển sang mô hình sản xuất hàng hóa với mục tiêu
không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn hướng tới xuất khẩu. Theo số liệu
của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam
đạt 5,96%, chứng tỏ nền sản xuất hàng hóa đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy
kinh tế. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, GDP của
Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, đạt 271,2 tỷ USD. Điều này khẳng định rằng nền sản
xuất hàng hóa của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đủ khả năng thích ứng với những
biến động của nền kinh tế toàn cầu.
+ Thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội lớn cho sản xuất
hàng hóa phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc tăng
trưởng về quy mô mà còn thể hiện qua việc mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy thương mại và
đầu tư. Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt
sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 và ký kết hàng
loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) như CPTPP, EVFTA và RCEP. Những bước tiến 19
này đã mở ra cơ hội tiếp cận nhiều thị trường lớn trên thế giới, giúp mở rộng quy mô
sản xuất hàng hóa và nâng cao tiêu chuẩn chất lượng để đáp ứng yêu cầu quốc tế. Theo
Bộ Công Thương, trong 8 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam ước đạt 265,09 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực
kinh tế trong nước chiếm 26,5%, còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 73,5%.
Những con số này cho thấy nền sản xuất hàng hóa Việt Nam không chỉ phục vụ thị
trường nội địa mà còn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tận dụng tối đa lợi thế của nền kinh tế mở.
+ Thứ ba, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa cho thấy nền kinh tế Việt Nam
đang từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh việc mở rộng thị trường, sản xuất hàng hóa ở Việt Nam cũng có sự chuyển
dịch mạnh mẽ về cơ cấu. Nếu như trước đây, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì
hiện nay, công nghiệp và dịch vụ đã trở thành động lực chính của nền kinh tế. Tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP đã giảm dần, nhường chỗ cho ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo và dịch vụ. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ số sản xuất công nghiệp
(IIP) trong quý I các năm 2020-2024 đều tăng, lần lượt là 5,6%; 5,7%; 6,8%; 5,7%, riêng
quý I/2023 giảm 2,6% do tác động của suy giảm cầu tiêu dùng toàn cầu. Những số liệu
này phản ánh sự dịch chuyển mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế, từ một nền kinh tế dựa vào
sản xuất thủ công, quy mô nhỏ sang sản xuất công nghiệp với quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao.
+ Thứ tư, sản xuất hàng hóa ở Việt Nam đang dần chuyển sang mô hình phát triển bền
vững, phù hợp với xu thế toàn cầu.
Không chỉ tập trung vào phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa,
Việt Nam còn chú trọng đến tính bền vững của sản xuất. Trước những thách thức của
biến đổi khí hậu và các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt
Nam đang chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, thân thiện với môi trường. Theo báo
cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng mô hình kinh tế tuần
hoàn và sản xuất xanh đã tăng 30% trong giai đoạn 2020-2024. Ngày càng nhiều doanh
nghiệp trong ngành dệt may, chế biến thực phẩm và điện tử chuyển sang sử dụng nguyên 20