lOMoARcPSD| 48599919
SỰ THAY ĐỔI TRONG ĐẠI LƯỢNG GIÁ CẢ CỦA SỨC LAO ĐỘNG VÀ CỦA (M)
Đối tượng nghiên cứu
Giá trị của sức lao động và (m) quy định lẫn nhau và loại trừ lẫn nhau. (m) làm tiền đề cho giá
trị của sức lao động, nếu không (m) thì sức lao động không thể trở thành hàng hóa, giống
như bất cứ một vật không ích nào, tức vật không giá trị sử dụng, sản phẩm của
lao động, cũng đều không thể trở thành hàng hóa được. Giá trị sử dụng làm tiền đề cho giá trị của
những hàng hóa thông thường, giống như (m) làm tiền đề cho giá trị của loại hàng hóa đặc biệt
sức lao động. Giá trị của sức lao động cũng làm tiền đề cho (m), vì (m) lấy việc bán sức lao động
làm nhân tố xuất phát của mình, nó là hiệu số giữa giá trị của bản thân sức lao động và giá trị vừa
mới được tạo ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động.
Nhưng giá trị của sức lao động (m) lại loại trừ lẫn nhau như là hai cực của một thanh nam
châm, nói đúng hơn, như hình thái giá trị tương đối hình thái ngang giá Mác đã nghiên
cứu trong chương I. Trong cùng một thời gian, không thể vừa tái sản xuất giá trị của sức lao động,
lại vừa sản xuất (m). Phần lao động tái sản xuất giá trị của sức lao động thì không sản xuất (m),
ngược lại: trong thời gian lao động thặng dư, người ta chỉ sản xuất (m) thôi.
Giá trị của sức lao động và (m) có quan hệ với nhau, chúng quy định lẫn nhau và loại trừ lẫn
nhau, đồng thời những đại lượng liên hệ với nhau. Trong chương y, Mác nghiên cứu chúng
theo khía cạnh nói trên, tức theo khía cạnh quan hệ tlệ tồn tại giữa chúng. Nhưng cũng cần bổ
sung thêm một điểm là: Mác nghiên cứu chúng về mặt lượng, tức là về mặt tlệ giữa lượng của
cái này với lượng của cái kia. c nghiên cứu mặt lượng, cho nên Mác không nghiên cứu
tỷ lệ giữa giá trị của sức lao động (m), mà nghiên cứu quan hệ tỷ lệ giữa giá cả sức lao động,
tức giá trị của sức lao động được biểu hiện đo lường bằng tiền, với lượng (m). Không những
lượng giá trị của sức lao động có ảnh hưởng đến lượng (m), mà ngay cả sức lao động cũng có ảnh
hưởng đến lượng (m); cũng như giá cả mọi hàng hóa khác, giá cả sức lao động có thể cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị.
Trình tự nghiên cứu
Chương này bắt đầu bằng một phần mở đầu ngắn gọn, nhằm làm sáng tỏ các điều kiện nghiên
cứu. Mác vạch những nhân tố được nghiên cứu nhân tố không được nghiên cứu. Đối
với vấn đề đã được nghiên cứu, tức vấn đề mà chúng ta vừa xác định ở trên, rõ ràng là có ba nhân
tố ý nghĩa thiết thực: NSLĐ, cường độ lao động và lượng của ngày lao động. Mỗi nhân tố đó
đều được dành hẳn một tiết để nghiên cứu, tức mỗi lần nghiên cứu quan hệ tỷ lệ giữa giá cả sức
lao động và lượng (m), Mác đều giả định rằng một trong ba nhân tố nói trên thay đổi, còn hai nhân
tố kia không thay đổi, tức là những nhân tố đã cho trước.
Toàn bộ công trình nghiên cứu được kết thúc bằng việc nghiên cứu trường hợp sau đây: tất
cả ba nhân tố đó đều đồng thời thay đổi và làm tiền đề cho nhau.
Trường hợp thứ nhất
Đây là trường hợp “lượng của ngày lao động và cường độ lao động không thay đổi, NSLĐ thay
đổi”. Xuất phát từ giả thiết ấy, Mác trình bày ba quy luật. Ngay trong chương I, Mác đã giải thích
rằng “trong những khoảng cách thời gian bằng nhau, cùng một lao động bao giờ cũng tạo ra những
lượng giá trị bằng nhau, dù NSLĐ có thay đổi thế nào đi nữa”. NSLĐ có ảnh hưởng đến giá trị của
một đơn vị hàng hóa, nhưng không ảnh hưởng đến giá trị đã được sản xuất trong một đơn vị
thời gian. Bây giờ, nguyên đó được đem áp dụng vào ngày lao động, chỉ điều lấy “lao động
có cùng cường độ như nhau” thay cho “một lao động giống nhau”, lấy “ngày lao động bằng nhau
về lượng” thay cho “những khoảng thời gian bằng nhau”, chúng ta sẽ một quy luật giống
như trên, nhưng dưới những biểu hiện khác, đó là: “Ngày lao động một đại lượng nhất định
bao giờ cũng thể hiện ra trong một sản phẩm - giá trị bằng nhau, dầu cho NSLĐ và cùng với nó là
lOMoARcPSD| 48599919
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd,
khối lượng sản phẩm, và do đó, giá cả của mỗi đơn vị hàng hóa, có thay đổi như thế nào đi chăng
nữa”
1
. Đó là quy luật thứ nhất.
Nhưng giá trị đó lại do công nhân làm thuê sản xuất, cho nên được chia thành giá trị để
tái tạo sức lao động và (m). Ở đây, cần phải trả lời hai vấn đề: 1) những bộ phận ấy thay đổi như
thế nào trong mối quan hệ với nhau; 2) chúng thay đổi như thế nào so với sự thay đổi của NSLĐ,
vì ta giả thiết rằng mọi nhân tố, trừ nhân tố NSLĐ, đều không thay đổi; sự thay đổi của giá trị sức
lao động và của (m) chỉ có thể là kết quả của sự thay đổi của NSLĐ. Vấn đề thứ nhất được trả lời
như sau: “Giá trị của sức lao động (m) thay đổi theo hướng ngược nhau”
2
. số giá trị được
phân chia, không thay đổi, cho nên mỗi phần của có thể thay đổi bằng cách dựa vào phần kia,
tức phần y giảm xuống, phần kia tăng lên, và ngược lại. Trong điều kiện ngày lao động không
đổi, nếu NSLĐ tăng lên làm cho giá trị của sức lao động giảm xuống và làm cho (m) tăng lên,
ngược lại, nếu NSLĐ giảm thì giá trị của sức lao động sẽ tăng lên và (m) giảm xuống. Do đó, vấn
đề thứ hai được trả lời như sau: “Sự thay đổi của NSLĐ, mức tăng hay giảm của nó, ảnh hưởng
ngược chiều đến giá trị sức lao động và ảnh hưởng thuận chiều đến (m)”. Hai câu trả lời cho hai
vấn đề, nhưng nếu gộp lại thì thành quy luật thứ hai. Vì lượng của giá trị sức lao động và (m) chỉ
thể thay đổi do NSLĐ thay đổi, cho nên chúng ta một loạt quan hệ nhân quả kế tiếp nhau:
NSLĐ thay đổi - giá trị của sức lao động thay đổi -, thì lượng (m) sẽ thay đổi. Nói cách khác, kết
quả chúng ta quy luật thứ ba: “Việc tăng hay giảm của (m) bao giờ cũng kết quả, chứ không
bao giờ là nguyên nhân của việc giảm hay tăng tương ứng của giá trị sức lao động”
2
.
Trong ba quy luật kể trên, quy luật thứ nhất là quy luật cơ bản. Như chúng ta đều thấy, quy
luật này đã được trình bày ngay trong chương I, do đó sự biểu hiện của quy luật chung của
giá trị. Nếu áp dụng nó vào nền sản xuất TBCN, tức vào sự sản xuất giá trị bằng lao động làm thuê,
kết quả gtrị bị chia thành hai bộ phận tương ứng, thì chúng ta quy luật thứ hai. n quy
luật thứ ba sự giải thích thêm quy luật thứ hai. Không lấy gì làm lạ khi thấy rằng cả ba quy
luật ấy đều đã được Đavít Ricácđô nêu lên (ông là nhà lý luận về giá trị lao động sâu sắc nhất
triệt để nhất trong thời kỳ trước Mác). Nhưng, trong sự giải thích của Ricácđô nhiều thiếu sót
nh chất thứ yếu, cũng như nhiều thiếu sót tính chất nguyên tắc sâu sắc. Khi trình bày
quy luật thứ hai, Ricácđô cho rằng giá trị của sức lao động và (m) thay đổi theo tỷ lệ, nhưng thật
ra, như Mác đã vạch bằng một thí dụ về con số, chúng thay đổi theo cùng một lượng, chứ không
thay đổi theo tỷ lệ. Song, cần bổ sung thêm là: điều đó chỉ xảy ra trong điều kiện giá cả sức lao
động phù hợp với giá trị của nó. Khi trình bày quy luật thứ ba, Mác phát triển thêm tư tưởng cho
rằng sự thay đổi của NSLĐ và do đó, sự thay đổi của giá trị sức lao động chỉ vạch giới hạn cho sự
thay đổi (m), vì (m) chỉ có thể thay đổi với một lượng mà giá trị của sức lao động đã thay đổi, chứ
không thể nhiều hơn được, song không nhất thiết như vậy. Nếu giá cả sức lao động bị giảm xuống
ít hơn mức giảm xuống của giá trị sức lao động, thì (m) sẽ tăng lên với một lượng ít hơn lượng
giới hạn. Đối với cả ba quy luật y, Ricácđô đã lãng quên mất điều sau đây: những tiền đề trong
đó các quy luật được xây dựng nên, nói chung có hiệu lực, là những tiền đề trừu tượng được dùng
để phân tích về mặt lý luận, chứ trong thực tế thì lượng của ngày lao động lẫn cường độ lao động
đều thay đổi. Ricácđô trình y sự việc làm cho người ta tưởng rằng dường như tính chất không
thay đổi của những nhân tố ấy là tính chất điển hình của nền sản xuất TBCN.
Sai lầm thứ hai của Ricácđô còn lớn hơn nữa. Sai lầm đó chỗ, Ricácđô “không nghiên
cứu bản thân (m), tức không kể đến những hình thái đặc biệt của nó, như lợi nhuận, địa tô, v.v.”,
và ông đối lập lợi nhuận với tiền công và địa tô. Vì Ricácđô đối lập lợi nhuận với tiền công và rút
ra ba quy luật nói trên, cho nên trên thực tế, ông dùng lợi nhuận để chỉ (m); nhưng vì ông đối lập
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 733 2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 734.
2
t.23, tr. 736
lOMoARcPSD| 48599919
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd,
lợi nhuận với địa tô, tức đối lập bộ phận (m) này với bộ phận (m) khác, nên lợi nhuận một
hình thái đặc biệt của (m) chỉ biểu thị thành lợi nhuận của chủ xí nghiệp. Lợi nhuận y
không những chịu sự điều tiết của các quy luật điều tiết (m), mà còn chịu sự điều tiết của các quy
luật đặc biệt, riêng của lợi nhuận, tức lợi nhuận của chủ xí nghiệp. Sự nhầm lẫn đó đã dẫn
Ricácđô đi tới những kết luận sai lầm, dẫn Ricácđô tới chỗ lẫn lộn tỷ suất (m) với tsuất lợi nhuận.
Trường hợp thứ hai
Trường hợp này có những tiền đề sau đây: “Ngày lao động và NSLĐ không thay đổi, cường
độ lao động thay đổi”. Giữa cường độ lao động NSLĐ một điểm chung là: những sự thay
đổi của chúng đều dẫn tới những sự thay đổi tương ứng về số lượng sản phẩm được sản xuất trong
một đơn vị thời gian. Nhưng, trong khi NSLĐ không ảnh hưởng tới giá trị được sản xuất trong một
đơn vị thời gian, thì cường độ lao động lại ảnh hưởng, một giờ làm việc căng thẳng hơn sẽ
sản xuất nhiều giá trị hơn. Do đó, nếu cường độ lao động thay đổi thì quy luật thứ nhất, đã được
trình bày trên, không những mất hết hiệu lực của nó, đúng ra còn ngược lại: nếu ngày lao
động một lượng nhất định, nhưng lại cường đkhác nhau thì biểu hiện thành những lượng
giá trị không giống nhau.
Còn các bộ phận cấu thành giá trị đã được sản xuất thì như sau: (m) thay đổi cùng chiều với
cường độ lao động. Thứ nhất, lao động thặng dư có cường độ cao hơn tạo ra nhiều (m) hơn, và lao
động thặng dư có cường độ thấp hơn tạo ra ít (m) hơn. Thứ hai, cường độ lao động tăng hay giảm
sẽ làm cho thời gian cần thiết giảm đi hay tăng lên và do đó, làm cho thời gian thặng dư tăng hay
giảm một cách tương ứng.
Vấn đề phức tạp hơn vấn đề ảnh hưởng của sự thay đổi của cường độ lao động đối với
lượng giá trị giá cả của sức lao động. Giá trị giá cả của sức lao động giảm một cách tương
đối, vì (m) tăng. Nhưng, đối với lượng tuyệt đối của gtrị và giá cả của sức lao động thì có thể có
những trường hợp sau đây: 1) cả giá trị lẫn giá cả sức lao động đều thay đổi; 2) cả giá trị lẫn giá
cả sức lao động đều không thay đổi; 3) chỉ có một trong hai yếu tố đó thay đổi. Nếu cường độ lao
động tăng lên hay giảm xuống không đáng kể, thì giá trị của sức lao động không thay đổi, do đó
không sở để làm thay đổi giá cả sức lao động. Nếu cường độ lao động tăng lên một cách
đáng kể, thì giá trị của sức lao động cũng tăng lên, vì lao động có cường độ cao hơn đòi hỏi phải
có nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để phục hồi lại sức lao động. Do đó, giá cả sức lao động cũng phải
được nâng lên. Nếu cường độ lao động lớn đến mức mà một số lượng lớn tư liệu sinh hoạt (được
mua bằng một số lớn tiền công của công nhân) không đắp nổi sự hao mòn của sức lao động, thì
có thể xảy ra tình hình là giá cả sức lao động tuy có được nâng lên, nhưng vẫn thấp hơn giá trị của
nó. Nhưng cần nhớ rằng sự thay đổi của cường độ lao động chỉ có ảnh hưởng khi sự thay đổi đó
còn là một hiện tượng mới mẻ, tức là khi sự thay đổi đó chưa trở thành “mức bình thường của xã
hội”
3
.
Trường hợp thứ ba
đây giả định rằng “NSLĐ cường độ lao động không thay đổi, nhưng ngày lao động thay
đổi”. Trong những điều kiện y thì giá trị, trong đó ngày lao động được biểu hiện, thay đổi cùng
chiều với lượng của ngày lao động, (m) cũng thay đổi theo hướng đó. Còn giá trị của sức lao
động (không kể trường hợp khi ngày lao động kéo dài quá mức làm cho thể người công nhân
bị kiệt sứcđòi hỏi phải có nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để hồi phục lại cơ thể) thì không thay đổi
một cách tuyệt đối, nhưng thay đổi một cách tương đối (so với (m)) và theo chiều ngược lại; thí dụ
ngày lao động càng dài, t(m) càng lớn giá trị của sức lao động giảm đi một cách tương đối.
Nhưng y giờ, quan hệ nhân quả đó sẽ khác đi: ngày lao động thay đổi - (m) thay đổi - giá trị của
3
t.23, tr. 739
lOMoARcPSD| 48599919
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd,
sức lao động thay đổi. Nói cách khác, sau khi ngày lao động thay đổi thì (m) thay đổi, sự thay
đổi của (m) lại kéo theo sự thay đổi tương đối của giá trị sức lao động.
Như chúng ta đều thấy, việc rút ngắn ngày lao động làm tổn hại trực tiếp đến (m) đó
“cái cớ” để cho các nhà kinh tế học tư sản chống lại việc rút ngắn đó. Nhưng ở đây không nên lẫn
lộn sự trừu tượng hóa vmặt luận với thực tế hiện thực. Việc rút ngắn ngày lao động chỉ làm
giảm (m) trong điều kiện NSLĐ hay cường độ lao động không thay đổi: trên thực tế, “sự thay đổi
của năng suất và cường độ lao động hoặc giả đi trước hoặc giả trực tiếp đi theo sau việc rút ngắn
ngày lao động”
4
.
Trường hợp thứ tư
Tất cả những trường hợp kể trên đều là những trường hợp hoàn toàn lý tưởng, lý tưởng theo
nghĩa là những trường hợp ấy, như đã nói ở trên, đều được xây dựng về mặt luận. Nhưng trường
hợp thứ tư này lại khá sát thực tế: giả định rằng “ngày lao động, NSLĐ và cường độ lao động đều
đồng thời thay đổi”. Chúng tôi nói: “khá sát thực tế” có nghĩa là ở đây không có sự phù hợp hoàn
toàn, vì thật ra, ngoài ba nhân tố kể trên, còn có sự tác động của hàng loạt nhân tố khác mà chúng
ta không kể đến, thí dụ, sự thay đổi giá trị của tiền tệ, việc giá cả sức lao động sụt xuống thấp hơn
giá trị của nó do áp lực của đội quân thất nghiệp gây nên, v.v..
Nhưng, trong điều kiện có ba nhân tố trên thì có thể có đủ các loại kết hợp, và việc phân tích
những sự kết hợp đó không có gì khó khăn nếu biết lợi dụng những kết luận đã được nêu ra trong
các tiết trước.
Cuối cùng, chúng ta cần chú ý tới lời nhận xét sau đây của Mác (lời nhận xét này rất thú vị
và có tính chất giáo huấn): ngày lao động phải thay đổi như thế nào sau khi xóa bỏ PTSX TBCN.
Một mặt, thể “hạn chế ngày lao động mức lao động cần thiết”. Nhưng, mặt khác, “lao động
cần thiết phải mở rộng phạm vi của mình ra”. Nhu cầu của công nhân sẽ được thỏa mãn đầy đủ
hơn, một mặt, cần phải coi lao động tạo ra quỹ dự trữ và quỹ tích lũy là lao động cần thiết. Nhưng
mặt khác, việc thu hút hết thảy những người có khả năng lao động tham gia lao động sẽ làm giảm
nhiều thời gian lao động cần thiết của mỗi người lao động nói riêng. “Với một cường độ lao động
nhất định và một sức sản xuất nhất định của lao động thì phần ngày lao động xã hội cần thiết cho
việc sản xuất vật chất sẽ càng ngắn, do đó, cái phần thời gian còn lại cho hoạt động tự do về mặt
tinh thần hội của các nhân sẽ càng nhiều, nếu như lao động được phân phối một cách càng
đồng đều giữa tất cả những thành viên có khả năng lao động của xã hội...”
5
.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG XV
Đôi khi người ta tranh luận rằng: vậy (m) thu được bằng cách nâng cao cường độ lao động
(m) tuyệt đối hay (m) tương đối? những lý lẽ tán thành ý kiến này cũng những l
tán thành ý kiến kia. Ngày lao động có cường độ cao hơn tạo ra nhiều giá trị hơn và do đó, tạo ra
nhiều (m) hơn, tức là (m) tăng lên không phải do hạ thấp giá trị của sức lao động (giống như trong
điều kiện nâng cao NSLĐ) do tăng số giá trị vừa mới được tạo ra trong suốt ngày lao động.
Nhưng thời gian lao động kéo dài ra (kéo dài ngày lao động) cũng tác dụng như vậy. Do đó,
dường như có thể kết luận rằng: cần phải coi (m) được tăng lên do tăng cường độ lao động là ( m)
tuyệt đối.
Nhưng lẽ đối lập lại: khi tăng cường độ lao động thì độ dài của ngày lao động vẫn không
thay đổi, nhưng tỷ lệ giữa thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư lại thay đổi:
thời gian lao động cần thiết giảm xuống (giá trị của sức lao động được tái sản xuất trong một số
giờ lao động tuy ít hơn, nhưng cường độ cao hơn), còn thời gian lao động thặng tăng lên. Do
đó, cả hai bộ phận của ngày lao động đều thay đổi giống như khi nâng cao NSLĐ, cho nên, cần
phải coi số (m) lớn lên do tăng cường độ lao động là (m) tương đối.
4
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 742
5
t.23, tr. 747
lOMoARcPSD| 48599919
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd,
Trong phần chú thích chương X, chúng tôi đã cố gắng chứng minh sự cần thiết phải phân
biệt (m) tuyệt đối và (m) siêu ngạch. Khi chỉ tăng cường độ lao động trong một số xí nghiệp riêng
biệt, thì trên thực tế, việc đó làm tăng thêm (m), nhưng tăng như vậy không phải do giảm giá trị
của sức lao động, mà là do tăng thêm số giá trị vừa mới được tạo ra. Và đó chỉ là (m) siêu ngạch.
(m) siêu ngạch ở đây chỉ khác với (m) siêu ngạch được nghiên cứu trong chương X ở chỗ: (m) siêu
ngạch ở đây thu được là do kết quả của việc nâng cao cường độ lao động, chứ không phải do nâng
cao NSLĐ. Nhưng trong cả hai trường hợp, chỉ có một số nhà tư bản cá biệt có khả năng vươn lên,
có khả năng tăng hơn nữa cường độ của lao động mà họ bóc lột, mới thu được (m) tăng thêm đó.
Tình hình này tiếp tục xảy ra cho tới khi trình độ của cường độ lao động trở thành trình độ phổ
biến. Mác viết: chỉ khi trình độ mới đó đã đạt tới trình độ phổ biến “thì một ngày lao động
cường độ lao động cao hơn sẽ biểu hiện ra trong nhiều sản phẩm hơn so với một ngày lao động dài
như thế nhưng có cường độ thấp hơn”
6
. Cho nên, giá trị của sức lao động bị hạ thấp, vì nó thể hiện
một số lượng lao động xã hội cần thiết vật hóa ít hơn trước kia (cường độ lao động được nâng lên
đã trở thành “mức tiêu chuẩn xã hội phổ biến”), và (m) tăng lên chỉ là nhờ hạ thấp giá trị của sức
lao động.
Như vậy, khi ngày lao động có cường độ cao hơn chưa được áp dụng một cách phổ biến, thì
tác dụng như ngày lao động kéo dài ra, tức tạo ra nhiều (m) hơn tạo ra nhiều
giá trị hơn, song đó chỉ (m) siêu ngạch. Nhưng khi cường độ mới đã được nâng cao trở thành
“mức tiêu chuẩn xã hội phổ biến” và bắt đầu được coi là một mức xã hội cần thiết, thì số (m) thu
được nhiều hơn đó chỉ là do giá trị của sức lao động đã bị giảm xuống “bây giờ giá trị này do một
số lượng thời gian xã hội cần thiết ít hơn tạo ra). Và đó là (m) tương đối, giống như ( m) tương đối
thu được khi nâng cao NSLĐ.
6
t.23, tr. 739

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48599919
SỰ THAY ĐỔI TRONG ĐẠI LƯỢNG GIÁ CẢ CỦA SỨC LAO ĐỘNG VÀ CỦA (M)
Đối tượng nghiên cứu
Giá trị của sức lao động và (m) quy định lẫn nhau và loại trừ lẫn nhau. (m) làm tiền đề cho giá
trị của sức lao động, vì nếu không có (m) thì sức lao động không thể trở thành hàng hóa, giống
như bất cứ một vật không có ích nào, tức là vật không có giá trị sử dụng, dù nó là sản phẩm của
lao động, cũng đều không thể trở thành hàng hóa được. Giá trị sử dụng làm tiền đề cho giá trị của
những hàng hóa thông thường, giống như (m) làm tiền đề cho giá trị của loại hàng hóa đặc biệt
sức lao động. Giá trị của sức lao động cũng làm tiền đề cho (m), vì (m) lấy việc bán sức lao động
làm nhân tố xuất phát của mình, nó là hiệu số giữa giá trị của bản thân sức lao động và giá trị vừa
mới được tạo ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động.
Nhưng giá trị của sức lao động và (m) lại loại trừ lẫn nhau như là hai cực của một thanh nam
châm, nói đúng hơn, như là hình thái giá trị tương đối và hình thái ngang giá mà Mác đã nghiên
cứu trong chương I. Trong cùng một thời gian, không thể vừa tái sản xuất giá trị của sức lao động,
lại vừa sản xuất (m). Phần lao động tái sản xuất giá trị của sức lao động thì không sản xuất (m), và
ngược lại: trong thời gian lao động thặng dư, người ta chỉ sản xuất (m) thôi.
Giá trị của sức lao động và (m) có quan hệ với nhau, chúng quy định lẫn nhau và loại trừ lẫn
nhau, đồng thời là những đại lượng có liên hệ với nhau. Trong chương này, Mác nghiên cứu chúng
theo khía cạnh nói trên, tức theo khía cạnh quan hệ tỷ lệ tồn tại giữa chúng. Nhưng cũng cần bổ
sung thêm một điểm là: Mác nghiên cứu chúng về mặt lượng, tức là về mặt tỷ lệ giữa lượng của
cái này với lượng của cái kia. Và vì Mác nghiên cứu mặt lượng, cho nên Mác không nghiên cứu
tỷ lệ giữa giá trị của sức lao động và (m), mà nghiên cứu quan hệ tỷ lệ giữa giá cả sức lao động,
tức giá trị của sức lao động được biểu hiện và đo lường bằng tiền, với lượng (m). Không những
lượng giá trị của sức lao động có ảnh hưởng đến lượng (m), mà ngay cả sức lao động cũng có ảnh
hưởng đến lượng (m); cũng như giá cả mọi hàng hóa khác, giá cả sức lao động có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị.
Trình tự nghiên cứu
Chương này bắt đầu bằng một phần mở đầu ngắn gọn, nhằm làm sáng tỏ các điều kiện nghiên
cứu. Mác vạch rõ những nhân tố gì được nghiên cứu và nhân tố gì không được nghiên cứu. Đối
với vấn đề đã được nghiên cứu, tức vấn đề mà chúng ta vừa xác định ở trên, rõ ràng là có ba nhân
tố có ý nghĩa thiết thực: NSLĐ, cường độ lao động và lượng của ngày lao động. Mỗi nhân tố đó
đều được dành hẳn một tiết để nghiên cứu, tức là mỗi lần nghiên cứu quan hệ tỷ lệ giữa giá cả sức
lao động và lượng (m), Mác đều giả định rằng một trong ba nhân tố nói trên thay đổi, còn hai nhân
tố kia không thay đổi, tức là những nhân tố đã cho trước.
Toàn bộ công trình nghiên cứu được kết thúc bằng việc nghiên cứu trường hợp sau đây: tất
cả ba nhân tố đó đều đồng thời thay đổi và làm tiền đề cho nhau.
Trường hợp thứ nhất
Đây là trường hợp “lượng của ngày lao động và cường độ lao động không thay đổi, NSLĐ thay
đổi”. Xuất phát từ giả thiết ấy, Mác trình bày ba quy luật. Ngay trong chương I, Mác đã giải thích
rằng “trong những khoảng cách thời gian bằng nhau, cùng một lao động bao giờ cũng tạo ra những
lượng giá trị bằng nhau, dù NSLĐ có thay đổi thế nào đi nữa”. NSLĐ có ảnh hưởng đến giá trị của
một đơn vị hàng hóa, nhưng không có ảnh hưởng đến giá trị đã được sản xuất trong một đơn vị
thời gian. Bây giờ, nguyên lý đó được đem áp dụng vào ngày lao động, chỉ có điều là lấy “lao động
có cùng cường độ như nhau” thay cho “một lao động giống nhau”, lấy “ngày lao động bằng nhau
về lượng” thay cho “những khoảng thời gian bằng nhau”, và chúng ta sẽ có một quy luật giống
như trên, nhưng dưới những biểu hiện khác, đó là: “Ngày lao động có một đại lượng nhất định
bao giờ cũng thể hiện ra trong một sản phẩm - giá trị bằng nhau, dầu cho NSLĐ và cùng với nó là lOMoAR cPSD| 48599919
khối lượng sản phẩm, và do đó, giá cả của mỗi đơn vị hàng hóa, có thay đổi như thế nào đi chăng
nữa”1. Đó là quy luật thứ nhất.
Nhưng giá trị đó lại do công nhân làm thuê sản xuất, cho nên nó được chia thành giá trị để
tái tạo sức lao động và (m). Ở đây, cần phải trả lời hai vấn đề: 1) những bộ phận ấy thay đổi như
thế nào trong mối quan hệ với nhau; 2) chúng thay đổi như thế nào so với sự thay đổi của NSLĐ,
vì ta giả thiết rằng mọi nhân tố, trừ nhân tố NSLĐ, đều không thay đổi; sự thay đổi của giá trị sức
lao động và của (m) chỉ có thể là kết quả của sự thay đổi của NSLĐ. Vấn đề thứ nhất được trả lời
như sau: “Giá trị của sức lao động và (m) thay đổi theo hướng ngược nhau”2. Vì số giá trị được
phân chia, không thay đổi, cho nên mỗi phần của nó có thể thay đổi bằng cách dựa vào phần kia,
tức là phần này giảm xuống, phần kia tăng lên, và ngược lại. Trong điều kiện ngày lao động không
đổi, nếu NSLĐ tăng lên làm cho giá trị của sức lao động giảm xuống và làm cho (m) tăng lên, và
ngược lại, nếu NSLĐ giảm thì giá trị của sức lao động sẽ tăng lên và (m) giảm xuống. Do đó, vấn
đề thứ hai được trả lời như sau: “Sự thay đổi của NSLĐ, mức tăng hay giảm của nó, ảnh hưởng
ngược chiều đến giá trị sức lao động và ảnh hưởng thuận chiều đến (m)”. Hai câu trả lời cho hai
vấn đề, nhưng nếu gộp lại thì thành quy luật thứ hai. Vì lượng của giá trị sức lao động và (m) chỉ
có thể thay đổi do NSLĐ thay đổi, cho nên chúng ta có một loạt quan hệ nhân quả kế tiếp nhau:
NSLĐ thay đổi - giá trị của sức lao động thay đổi -, thì lượng (m) sẽ thay đổi. Nói cách khác, kết
quả là chúng ta có quy luật thứ ba: “Việc tăng hay giảm của (m) bao giờ cũng là kết quả, chứ không
bao giờ là nguyên nhân của việc giảm hay tăng tương ứng của giá trị sức lao động”2.
Trong ba quy luật kể trên, quy luật thứ nhất là quy luật cơ bản. Như chúng ta đều thấy, quy
luật này đã được trình bày ngay trong chương I, do đó nó là sự biểu hiện của quy luật chung của
giá trị. Nếu áp dụng nó vào nền sản xuất TBCN, tức vào sự sản xuất giá trị bằng lao động làm thuê,
kết quả là giá trị bị chia thành hai bộ phận tương ứng, thì chúng ta có quy luật thứ hai. Còn quy
luật thứ ba là sự giải thích rõ thêm quy luật thứ hai. Không lấy gì làm lạ khi thấy rằng cả ba quy
luật ấy đều đã được Đavít Ricácđô nêu lên (ông là nhà lý luận về giá trị lao động sâu sắc nhất và
triệt để nhất trong thời kỳ trước Mác). Nhưng, trong sự giải thích của Ricácđô có nhiều thiếu sót
có tính chất thứ yếu, cũng như có nhiều thiếu sót có tính chất nguyên tắc sâu sắc. Khi trình bày
quy luật thứ hai, Ricácđô cho rằng giá trị của sức lao động và (m) thay đổi theo tỷ lệ, nhưng thật
ra, như Mác đã vạch rõ bằng một thí dụ về con số, chúng thay đổi theo cùng một lượng, chứ không
thay đổi theo tỷ lệ. Song, cần bổ sung thêm là: điều đó chỉ xảy ra trong điều kiện giá cả sức lao
động phù hợp với giá trị của nó. Khi trình bày quy luật thứ ba, Mác phát triển thêm tư tưởng cho
rằng sự thay đổi của NSLĐ và do đó, sự thay đổi của giá trị sức lao động chỉ vạch giới hạn cho sự
thay đổi (m), vì (m) chỉ có thể thay đổi với một lượng mà giá trị của sức lao động đã thay đổi, chứ
không thể nhiều hơn được, song không nhất thiết như vậy. Nếu giá cả sức lao động bị giảm xuống
ít hơn mức giảm xuống của giá trị sức lao động, thì (m) sẽ tăng lên với một lượng ít hơn lượng
giới hạn. Đối với cả ba quy luật ấy, Ricácđô đã lãng quên mất điều sau đây: những tiền đề mà trong
đó các quy luật được xây dựng nên, nói chung có hiệu lực, là những tiền đề trừu tượng được dùng
để phân tích về mặt lý luận, chứ trong thực tế thì lượng của ngày lao động lẫn cường độ lao động
đều thay đổi. Ricácđô trình bày sự việc làm cho người ta tưởng rằng dường như tính chất không
thay đổi của những nhân tố ấy là tính chất điển hình của nền sản xuất TBCN.
Sai lầm thứ hai của Ricácđô còn lớn hơn nữa. Sai lầm đó là ở chỗ, Ricácđô “không nghiên
cứu bản thân (m), tức là không kể đến những hình thái đặc biệt của nó, như lợi nhuận, địa tô, v.v.”,
và ông đối lập lợi nhuận với tiền công và địa tô. Vì Ricácđô đối lập lợi nhuận với tiền công và rút
ra ba quy luật nói trên, cho nên trên thực tế, ông dùng lợi nhuận để chỉ (m); nhưng vì ông đối lập
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 733 2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 734. 2 t.23, tr. 736
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, lOMoAR cPSD| 48599919
lợi nhuận với địa tô, tức là đối lập bộ phận (m) này với bộ phận (m) khác, nên lợi nhuận là một
hình thái đặc biệt của (m) và nó chỉ biểu thị thành lợi nhuận của chủ xí nghiệp. Lợi nhuận này
không những chịu sự điều tiết của các quy luật điều tiết (m), mà còn chịu sự điều tiết của các quy
luật đặc biệt, riêng có của lợi nhuận, tức lợi nhuận của chủ xí nghiệp. Sự nhầm lẫn đó đã dẫn
Ricácđô đi tới những kết luận sai lầm, dẫn Ricácđô tới chỗ lẫn lộn tỷ suất (m) với tỷ suất lợi nhuận.
Trường hợp thứ hai
Trường hợp này có những tiền đề sau đây: “Ngày lao động và NSLĐ không thay đổi, cường
độ lao động thay đổi”. Giữa cường độ lao động và NSLĐ có một điểm chung là: những sự thay
đổi của chúng đều dẫn tới những sự thay đổi tương ứng về số lượng sản phẩm được sản xuất trong
một đơn vị thời gian. Nhưng, trong khi NSLĐ không ảnh hưởng tới giá trị được sản xuất trong một
đơn vị thời gian, thì cường độ lao động lại có ảnh hưởng, vì một giờ làm việc căng thẳng hơn sẽ
sản xuất nhiều giá trị hơn. Do đó, nếu cường độ lao động thay đổi thì quy luật thứ nhất, đã được
trình bày ở trên, không những mất hết hiệu lực của nó, mà đúng ra còn ngược lại: nếu ngày lao
động có một lượng nhất định, nhưng lại có cường độ khác nhau thì nó biểu hiện thành những lượng
giá trị không giống nhau.
Còn các bộ phận cấu thành giá trị đã được sản xuất thì như sau: (m) thay đổi cùng chiều với
cường độ lao động. Thứ nhất, lao động thặng dư có cường độ cao hơn tạo ra nhiều (m) hơn, và lao
động thặng dư có cường độ thấp hơn tạo ra ít (m) hơn. Thứ hai, cường độ lao động tăng hay giảm
sẽ làm cho thời gian cần thiết giảm đi hay tăng lên và do đó, làm cho thời gian thặng dư tăng hay
giảm một cách tương ứng.
Vấn đề phức tạp hơn là vấn đề ảnh hưởng của sự thay đổi của cường độ lao động đối với
lượng giá trị và giá cả của sức lao động. Giá trị và giá cả của sức lao động giảm một cách tương
đối, vì (m) tăng. Nhưng, đối với lượng tuyệt đối của giá trị và giá cả của sức lao động thì có thể có
những trường hợp sau đây: 1) cả giá trị lẫn giá cả sức lao động đều thay đổi; 2) cả giá trị lẫn giá
cả sức lao động đều không thay đổi; 3) chỉ có một trong hai yếu tố đó thay đổi. Nếu cường độ lao
động tăng lên hay giảm xuống không đáng kể, thì giá trị của sức lao động không thay đổi, do đó
không có cơ sở để làm thay đổi giá cả sức lao động. Nếu cường độ lao động tăng lên một cách
đáng kể, thì giá trị của sức lao động cũng tăng lên, vì lao động có cường độ cao hơn đòi hỏi phải
có nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để phục hồi lại sức lao động. Do đó, giá cả sức lao động cũng phải
được nâng lên. Nếu cường độ lao động lớn đến mức mà một số lượng lớn tư liệu sinh hoạt (được
mua bằng một số lớn tiền công của công nhân) không bù đắp nổi sự hao mòn của sức lao động, thì
có thể xảy ra tình hình là giá cả sức lao động tuy có được nâng lên, nhưng vẫn thấp hơn giá trị của
nó. Nhưng cần nhớ rằng sự thay đổi của cường độ lao động chỉ có ảnh hưởng khi sự thay đổi đó
còn là một hiện tượng mới mẻ, tức là khi sự thay đổi đó chưa trở thành “mức bình thường của xã hội”3.
Trường hợp thứ ba
Ở đây giả định rằng “NSLĐ và cường độ lao động không thay đổi, nhưng ngày lao động thay
đổi”. Trong những điều kiện ấy thì giá trị, trong đó ngày lao động được biểu hiện, thay đổi cùng
chiều với lượng của ngày lao động, và (m) cũng thay đổi theo hướng đó. Còn giá trị của sức lao
động (không kể trường hợp khi ngày lao động kéo dài quá mức làm cho cơ thể người công nhân
bị kiệt sức và đòi hỏi phải có nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để hồi phục lại cơ thể) thì không thay đổi
một cách tuyệt đối, nhưng thay đổi một cách tương đối (so với (m)) và theo chiều ngược lại; thí dụ
ngày lao động càng dài, thì (m) càng lớn và giá trị của sức lao động giảm đi một cách tương đối.
Nhưng bây giờ, quan hệ nhân quả đó sẽ khác đi: ngày lao động thay đổi - (m) thay đổi - giá trị của 3 t.23, tr. 739
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, lOMoAR cPSD| 48599919
sức lao động thay đổi. Nói cách khác, sau khi ngày lao động thay đổi thì (m) thay đổi, và sự thay
đổi của (m) lại kéo theo sự thay đổi tương đối của giá trị sức lao động.
Như chúng ta đều thấy, việc rút ngắn ngày lao động làm tổn hại trực tiếp đến (m) và đó là
“cái cớ” để cho các nhà kinh tế học tư sản chống lại việc rút ngắn đó. Nhưng ở đây không nên lẫn
lộn sự trừu tượng hóa về mặt lý luận với thực tế hiện thực. Việc rút ngắn ngày lao động chỉ làm
giảm (m) trong điều kiện NSLĐ hay cường độ lao động không thay đổi: trên thực tế, “sự thay đổi
của năng suất và cường độ lao động hoặc giả đi trước hoặc giả trực tiếp đi theo sau việc rút ngắn ngày lao động”4.
Trường hợp thứ tư
Tất cả những trường hợp kể trên đều là những trường hợp hoàn toàn lý tưởng, lý tưởng theo
nghĩa là những trường hợp ấy, như đã nói ở trên, đều được xây dựng về mặt lý luận. Nhưng trường
hợp thứ tư này lại khá sát thực tế: giả định rằng “ngày lao động, NSLĐ và cường độ lao động đều
đồng thời thay đổi”. Chúng tôi nói: “khá sát thực tế” có nghĩa là ở đây không có sự phù hợp hoàn
toàn, vì thật ra, ngoài ba nhân tố kể trên, còn có sự tác động của hàng loạt nhân tố khác mà chúng
ta không kể đến, thí dụ, sự thay đổi giá trị của tiền tệ, việc giá cả sức lao động sụt xuống thấp hơn
giá trị của nó do áp lực của đội quân thất nghiệp gây nên, v.v..
Nhưng, trong điều kiện có ba nhân tố trên thì có thể có đủ các loại kết hợp, và việc phân tích
những sự kết hợp đó không có gì khó khăn nếu biết lợi dụng những kết luận đã được nêu ra trong các tiết trước.
Cuối cùng, chúng ta cần chú ý tới lời nhận xét sau đây của Mác (lời nhận xét này rất thú vị
và có tính chất giáo huấn): ngày lao động phải thay đổi như thế nào sau khi xóa bỏ PTSX TBCN.
Một mặt, có thể “hạn chế ngày lao động ở mức lao động cần thiết”. Nhưng, mặt khác, “lao động
cần thiết phải mở rộng phạm vi của mình ra”. Nhu cầu của công nhân sẽ được thỏa mãn đầy đủ
hơn, một mặt, cần phải coi lao động tạo ra quỹ dự trữ và quỹ tích lũy là lao động cần thiết. Nhưng
mặt khác, việc thu hút hết thảy những người có khả năng lao động tham gia lao động sẽ làm giảm
nhiều thời gian lao động cần thiết của mỗi người lao động nói riêng. “Với một cường độ lao động
nhất định và một sức sản xuất nhất định của lao động thì phần ngày lao động xã hội cần thiết cho
việc sản xuất vật chất sẽ càng ngắn, do đó, cái phần thời gian còn lại cho hoạt động tự do về mặt
tinh thần và xã hội của các cá nhân sẽ càng nhiều, nếu như lao động được phân phối một cách càng
đồng đều giữa tất cả những thành viên có khả năng lao động của xã hội...”5. CHÚ THÍCH CHƯƠNG XV
Đôi khi người ta tranh luận rằng: vậy (m) thu được bằng cách nâng cao cường độ lao động
là (m) tuyệt đối hay (m) tương đối? Có những lý lẽ tán thành ý kiến này và cũng có những lý lẽ
tán thành ý kiến kia. Ngày lao động có cường độ cao hơn tạo ra nhiều giá trị hơn và do đó, tạo ra
nhiều (m) hơn, tức là (m) tăng lên không phải do hạ thấp giá trị của sức lao động (giống như trong
điều kiện nâng cao NSLĐ) mà do tăng số giá trị vừa mới được tạo ra trong suốt ngày lao động.
Nhưng thời gian lao động kéo dài ra (kéo dài ngày lao động) cũng có tác dụng như vậy. Do đó,
dường như có thể kết luận rằng: cần phải coi (m) được tăng lên do tăng cường độ lao động là ( m) tuyệt đối.
Nhưng có lý lẽ đối lập lại: khi tăng cường độ lao động thì độ dài của ngày lao động vẫn không
thay đổi, nhưng tỷ lệ giữa thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư lại thay đổi:
thời gian lao động cần thiết giảm xuống (giá trị của sức lao động được tái sản xuất trong một số
giờ lao động tuy ít hơn, nhưng cường độ cao hơn), còn thời gian lao động thặng dư tăng lên. Do
đó, cả hai bộ phận của ngày lao động đều thay đổi giống như khi nâng cao NSLĐ, cho nên, cần
phải coi số (m) lớn lên do tăng cường độ lao động là (m) tương đối.
4 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr. 742 5 t.23, tr. 747
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, lOMoAR cPSD| 48599919
Trong phần chú thích chương X, chúng tôi đã cố gắng chứng minh sự cần thiết phải phân
biệt (m) tuyệt đối và (m) siêu ngạch. Khi chỉ tăng cường độ lao động trong một số xí nghiệp riêng
biệt, thì trên thực tế, việc đó làm tăng thêm (m), nhưng tăng như vậy không phải do giảm giá trị
của sức lao động, mà là do tăng thêm số giá trị vừa mới được tạo ra. Và đó chỉ là (m) siêu ngạch.
(m) siêu ngạch ở đây chỉ khác với (m) siêu ngạch được nghiên cứu trong chương X ở chỗ: (m) siêu
ngạch ở đây thu được là do kết quả của việc nâng cao cường độ lao động, chứ không phải do nâng
cao NSLĐ. Nhưng trong cả hai trường hợp, chỉ có một số nhà tư bản cá biệt có khả năng vươn lên,
có khả năng tăng hơn nữa cường độ của lao động mà họ bóc lột, mới thu được (m) tăng thêm đó.
Tình hình này tiếp tục xảy ra cho tới khi trình độ của cường độ lao động trở thành trình độ phổ
biến. Mác viết: chỉ khi trình độ mới đó đã đạt tới trình độ phổ biến “thì một ngày lao động có
cường độ lao động cao hơn sẽ biểu hiện ra trong nhiều sản phẩm hơn so với một ngày lao động dài
như thế nhưng có cường độ thấp hơn”6. Cho nên, giá trị của sức lao động bị hạ thấp, vì nó thể hiện
một số lượng lao động xã hội cần thiết vật hóa ít hơn trước kia (cường độ lao động được nâng lên
đã trở thành “mức tiêu chuẩn xã hội phổ biến”), và (m) tăng lên chỉ là nhờ hạ thấp giá trị của sức lao động.
Như vậy, khi ngày lao động có cường độ cao hơn chưa được áp dụng một cách phổ biến, thì
nó có tác dụng như là ngày lao động kéo dài ra, tức là nó tạo ra nhiều (m) hơn vì nó tạo ra nhiều
giá trị hơn, song đó chỉ là (m) siêu ngạch. Nhưng khi cường độ mới đã được nâng cao trở thành
“mức tiêu chuẩn xã hội phổ biến” và bắt đầu được coi là một mức xã hội cần thiết, thì số (m) thu
được nhiều hơn đó chỉ là do giá trị của sức lao động đã bị giảm xuống “bây giờ giá trị này do một
số lượng thời gian xã hội cần thiết ít hơn tạo ra). Và đó là (m) tương đối, giống như ( m) tương đối
thu được khi nâng cao NSLĐ. 6 t.23, tr. 739
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd,