-
Thông tin
-
Quiz
Sự tham gia của các nông hộ nhỏ trong chuỗi cung ứng sữa Vinamilk | Quản trị chuỗi cung ứng | Đại học Thương mại
Sự tham gia của các nông hộ nhỏ trong chuỗi cung ứng sữa Vinamilk | Quản trị chuỗi cung ứng | Đại học Thương mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Quản trị chuỗi cung ứng (QT) 49 tài liệu
Đại học Thương Mại 373 tài liệu
Sự tham gia của các nông hộ nhỏ trong chuỗi cung ứng sữa Vinamilk | Quản trị chuỗi cung ứng | Đại học Thương mại
Sự tham gia của các nông hộ nhỏ trong chuỗi cung ứng sữa Vinamilk | Quản trị chuỗi cung ứng | Đại học Thương mại được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Môn: Quản trị chuỗi cung ứng (QT) 49 tài liệu
Trường: Đại học Thương Mại 373 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Thương Mại
Preview text:
lOMoARcPSD|40534848
TÌNH HUỐNG: SỰ THAM GIA CỦA CÁC NÔNG HỘ NHỎ
TRONG CHUỖI CUNG ỨNG SỮA CỦA VINAMILK
(TS.Lục Thị Thu Hường, Bộ môn Logistics KD, Đại học Thương mại) 1.
Ngành sữa Việt Nam (a)
Tình hình tiêu thụ sữa
Là một quốc gia đông dân (hơn 97,7 triệu người vào cuối năm 2020) và mức tăng
dân số cao khoảng 1,2%/năm, thị trường sữa tại Việt Nam luôn được đánh giá là có tiềm
năng lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh (6%-8%/năm trong thập kỷ qua), thu nhập bình
quân đầu người tăng 12-14%/năm, kết hợp với xu thế cải thiện sức khỏe và tầm vóc của
người Việt Nam khiến cho nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sữa luôn giữ mức tăng trưởng cao.
Sữa là sản phẩm dinh dưỡng bổ sung ngoài các bữa ăn hàng ngày, với trẻ em, thanh thiếu
niên và những người trung tuổi và đang trở thành sản phẩm thiết yếu đối với nhiều gia đình.
Lượng sữa tiêu thụ bình quân theo đầu người của Việt Nam năm 2019 đạt khoảng
21,8 lít/người/năm, thấp hơn 18% so với mức bình quân 26,7kg của một số quốc gia lân cận
trong khu vực Châu Á và kém xa mức tiêu thụ sữa của nhiều nước Châu Âu. Với mức tiêu
thụ sữa trên đầu người tại Việt Nam vẫn còn thấp (một phần do mặt bằng giá sữa ở Việt
Nam khá cao so với mức thu nhập trung bình của người dân), trong khi môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn, đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường sữa tại Việt
Nam. Với công nghệ ngày càng hiện đại, hệ thống kênh phân phối hiệu quả và giá cả hợp lý
hơn thì ngành sữa sẽ tiếp tục phát triển hơn trong tương lai.
Doanh thu ngành sữa liên tục đạt mức tăng trưởng 2 chữ số trong giai đoạn 2010-
2020, chủ yếu đến từ hai phân khúc sữa bột và sữa uống, chiếm 74% trong thị trường sữa.
Tuy mức tiêu thụ toàn ngành có sự chững lại trong hai năm gần đây nhưng với việc ngành
sữa đạt doanh thu trên 100 nghìn tỷ đồng vào năm 2017 cũng là một con số rất ấn tượng.
(b) Tình hình sản xuất và nguồn cung các sản phẩm sữa
Ngành sữa Việt Nam được đánh giá là đã có bước phát triển khá nhanh với chỉ 1-2
nhà sản xuất và phân phối sữa vào thời điểm trước những năm 1992 thì đến năm 2005 cả
nước có 39 doanh nghiệp. Sau hơn 10 năm số doanh nghiệp này đã tăng gấp đôi. Và đến
năm 2020 đã tăng lên hơn 85 doanh nghiệp với hàng trăm nhãn hiệu và các loại sản phẩm
đa dạng. Sự thâm nhập của các thương hiệu sữa nước ngoài như Abbott, Babysan, Dumex,
Dutch Lady (Frieslandcampina), Meiji, Nestlé… và hiện đang chiến ưu thế với dòng sữa bột
càng khiến cho bối cảnh cạnh tranh ngành sữa thêm sôi động.
Tuy số lượng doanh nghiệp trong ngành sản xuất, chế biến và đóng gói sữa tại Việt
Nam là khá đông đảo nhưng lại có tính tập trung khá cao, trong đó có 10 doanh nghiệp sản
xuất chế biến sữa quy mô vừa và lớn với tổng cộng 26 nhà máy. Hai công ty đứng đầu thị
trường là Vinamilk và Friesland chiếm lĩnh thị phần tới 70%. Hai công ty này đều sản xuất
tất cả 4 dòng sản phẩm: sữa nước, sữa bột, sữa đặc và sữa chua. Các công ty khác đang nỗ
lực thâm nhập vào phân khúc thị trường sữa nước nhưng chưa đơn vị nào vượt quá thị phần 8% trở lên.
Với đặc thù ngành công nghiệp sữa, nguyên liệu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất
ảnh hưởng đến sự phát triển của từng doanh nghiệp và của toàn ngành. Chính phủ đã có chủ
trương đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp
nhập một số lượng khá lớn giống bò sữa thuần chủng từ Australia, Mỹ, New Zealand về lOMoARcPSD|40534848
nuôi và phát triển đàn bò. Mặc dù số lượng bò sữa tăng lên cả ở trang trại tập trung và cả ở
các hộ gia đình thì hiện tại tổng sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng
được dưới 1/3 lượng sữa nước.
Ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ có khoảng 15% của tổng số bò sữa được nuôi tập
trung ở trang trại lớn, trong khi có tới 85% số bò sữa được nuôi phân tán trong các nông hộ
với quy mô nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, chưa đảm bảo đúng kỹ thuật chăn nuôi, phòng trừ
bệnh tật, vệ sinh và an toàn thực phẩm, dẫn đến năng suất thấp và giá thành cao. Với số
lượng bò sữa chăn nuôi thấp và chất lượng kém ổn định, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào
nhập khẩu sữa. Thời gian gần đây, dù tốc độ tăng trưởng đàn bò sữa của Việt Nam tăng cao
nhưng vẫn là một trong 20 quốc gia nhập khẩu sữa nhiều nhất thế giới, trong đó nhập khẩu
chủ yếu từ New Zealand (26,5%), Hoa Kỳ (12,9%) và Singapore (7,5%). Phần lớn lượng
sữa bột nguyên liệu nhập vào Việt Nam được chế biến thành sữa hoàn nguyên. Điều này đã
từng gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng khi tiêu thụ các sản phẩm sữa nước, họ không thể
phân biệt đâu là sữa tươi đâu là sữa hoàn nguyên từ sữa bột. 2.
Chuỗi cung ứng sữa của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Dairy
Products Joint Stock Company. Công ty được thành lập từ năm 1976, hiện có trụ sở chính
tại 36-38 Ngô Đức Kế, Quận 1, Tp. HCM. Tổng số công nhân viên chức gần 10.000 người.
Vinamilk đã đạt tăng trưởng doanh thu cao, tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm cho giai đoạn từ
2005 đến 2011 là 25%. Năm 2011, Vinamilk gây ấn tượng với doanh thu trên 1 tỷ USD
(gần 22,3 nghìn tỷ đồng), con số này giúp Vinamilk chính thức gia nhập đội ngũ các doanh
nghiệp lớn của Châu Á Thái Bình Dương. Tới năm 2016 với doanh thu, vốn hóa lần lượt là
2,1 tỉ USD và 9,1 tỉ USD, Vinamilk lọt vào danh sách 2.000 công ty niêm yết lớn nhất thế
giới do tạp chí Forbes bình chọn (Global 2000). Vinamilk tiếp tục nắm giữ vị trí dẫn đầu
danh sách 50 thương hiệu dẫn đầu năm 2019 ở nước ta do Tạp chí Forbes Việt Nam công
bố, với giá trị thương hiệu đạt hơn 2,2 tỷ USD.
Bất chấp khó khăn, trì trệ và kinh tế đi xuống trong vài năm gần đây, Vinamilk vẫn
đạt kết quả kinh doanh cao vào năm 2020 với doanh thu hơn 59,7 nghìn tỷ đồng, tăng gần
5,8% so với năm trước. Và sau 6 năm, tổng tài sản tăng hơn 76% so với năm 2015, chỉ số
sinh lời (ROE và ROA) vẫn khá cao, tuy có suy giảm chút ít so với các năm trước (bảng 1).
Đây là một trong số ít các doanh nghiệp ít bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhờ nhu
cầu sản phẩm sữa cao trong giai đoạn dịch bệnh do sữa được cho là thực phẩm tốt cho hệ
miễn dịch và giá sữa nguyên liệu giảm 2,3%.
Bảng 1. Kết quả kinh doanh của Vinamilk, 2015-2020 Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Tổng doanh thu (Tỷ đồng)
40.223 46.965 51.135 52.629 56.453 59.723
Lợi nhuận trước thuế (Tỷ đồng)
9.367 11.238 12.229 12.052 12.796 13.519
Lợi nhuận sau thuế (Tỷ đồng) 7.770 9.364 10.278 10.206 10.554 11.236
Tổng tài sản (Tỷ đồng)
27.470 29.379 34.667 37.366 44.700 48.435
Vốn chủ sở hữu (Tỷ đồng)
20.924 22.406 23.873 26.271 29.731 33.647
ROE (Lợi nhuận trên vốn) 38% 43% 44% 39% 38% 35%
ROA (Lợi nhuận trên tài sản) 29% 33% 32% 27% 26% 24%
(Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên và website của công ty, www.vinamilk.com.vn) 2 lOMoARcPSD|40534848
Với bề dày hơn 45 năm thành lập và phát triển, sản phẩm đa dạng, thương hiệu được
người tiêu dùng tín nhiệm, Vinamilk hiện đang giữ vị trí đầu tàu trong ngành sữa với thị
phần tổng thể hơn 50%, trong đó tông ty tiếp tục duy trì thị phần áp đảo ở nhóm sản phẩm
sữa đặc (90%), sữa chua (68%) và sữa nước (48%). Riêng nhóm sản phẩm sữa bột thì
Vinamilk đứng vị trí thứ 2, sau công ty Abbott, với thị phần là 24,6%.
Hiện nay, Vinamilk đang có 9.361 cán bộ, công nhân viên làm việc tại 30 đơn vị gồm
chi nhánh, trang trại, nhà máy, công ty con trên cả nước. Trong đó, có gần 70% nhân viên
của Vinamilk có trên 5 năm làm việc gắn bó với công ty, tiếp tục duy trì ngôi vị số 1 trong
100 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam 2 năm liền
Mục tiêu của Vinamilk là tiếp tục duy trì vị trí đứng đầu thị trường sữa tại Việt Nam,
đồng thời mở rộng và phát triển cà thị trường trong nước cũng như quốc tế. Vinamilk phấn
đấu đứng vào nhóm 50 công ty sữa có doanh thu cao nhất thế giới trong vài năm tới, với tốc
độ tăng trưởng sẽ giữ vững 2 con số trong 5 năm tiếp theo. Bên cạnh đó, hạ giá thành sản
phẩm là một trong những mục tiêu quan trọng của chuỗi cung ứng sữa Vinamilk, để loại sản
phẩm dinh dưỡng quan trọng này có thể tiếp cận được thêm nhiều tầng lớp nhân dân hơn và
nhiều nhóm khách hàng hơn nữa. Hình 1 khái quát hoá chuỗi cung ứng của Vinamilk với
các hoạt động đi từ quản lý nguồn cung tới khâu sản xuất và phân phối trên thị trường nội
địa, với các số liệu cập nhật cho tới cuối năm 2020.
Hình 1: Chuỗi cung ứng sữa của Vinamilk trên thị trường nội địa
(Nguồn: Tổng hợp từ Lục Thị Thu Hường, 2016 và website của công ty, tính đến hết năm 2020) (a)
Nguồn cung cấp nguyên vật liệu
Nguyên liệu (sữa bột, sữa tươi, đường...) chiếm trên 60% giá vốn hàng bán, trong đó
phần lớn là nguyên liệu nhập khẩu, và vì vậy bất kỳ thay đổi nào về giá nguyên liệu đều có lOMoARcPSD|40534848
thể tác động mạnh lên giá bán sản phẩm và năng lực cạnh tranh của chuỗi cung ứng
Vinamilk. Tiếp theo là chi phí bao bì chiếm khoảng 10-15% và phần còn lại là chi phí sản
xuất và khấu hao máy móc, thiết bị.
Từ năm 1990, khi Việt Nam bắt đầu phát triển ngành chăn nuôi bò sữa, Vinamilk đã
gắn bó với các hộ nông dân và triển khai thu mua sữa tươi nguyên liệu. Cuộc <cách mạng
trắng= năm 1991 là nỗ lực đầu tiên của Công ty nhằm xây dựng vùng nguyên liệu nội địa,
với xuất phát điểm chỉ có 30 nông hộ tham gia. Đến nay, Vinamilk đã liên kết với hơn 8.000
nông hộ trên khắp cả nước. Giải pháp trọng tâm là đồng hành cùng bà con nông dân để
hướng dẫn và tư vấn về kĩ thuật chăn nuôi bò sữa như phân phối thức ăn chăn nuôi, dung
dịch vệ sinh vắt sữa, tư vấn, chuyển giao công nghệ và kiểm soát dịch bệnh…, cũng như
chuồng trại luôn được kiểm tra đảm bảo chất lượng; song song phối hợp cùng thú y địa
phương để tiêm phòng, quản lý dịch tễ, bấm thẻ tai bò để theo dõi cũng như kiếm soát dư
lượng kháng sinh trong sữa.
Hiện tại, Vinamilk đang quản lý 83 Trạm trung chuyển sữa tươi nguyên liệu trên
phạm vi cả nước, với tổng đàn bò trong dân hơn 100.000 con, mỗi ngày cung cấp trên 600
tấn sữa tươi nguyên liệu. Các trạm thu mua sữa, ngoài nhiệm vụ chính là thu mua sữa tươi
nguyên liệu, còn thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cho nông hộ về chăn nuôi bò sữa như phân phối
thức ăn chăn nuôi, dung dịch vệ sinh vắt sữa, tư vấn, chuyển giao công nghệ và kiểm soát dịch bệnh...
Sản lượng sữa tươi nguyên liệu mua từ các nông hộ chiếm gần 70% tổng nguồn
nguyên liệu sữa tươi cung cấp cho các nhà máy. Vinamilk chỉ mua sữa của những hộ nông
dân chăn nuôi bò sữa có ký hợp đồng với mình. Đây là những hộ đã được Vinamilk khảo
sát, đánh giá hạ tầng chuồng trại và các tiêu chuẩn chăn nuôi bò sữa. Sữa tươi từ các nông
hộ được gom tới các trạm trung chuyển & chuyển tiếp tới 5 trung tâm làm lạnh hoặc trực
tiếp tới 13 nhà máy sữa ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam.
Các trung tâm thu mua này thuộc quyền sở hữu và điều hành của bên thứ ba. Họ phải
đầu tư vào hệ thống trữ lạnh và xe bồn vận chuyển lạnh cùng mạng lưới thu mua tới các
nông hộ. Họ cũng là người trực tiếp lấy mẫu sữa khi thu mua & chuyển tới phòng thí
nghiệm của Vinamilk để đánh giá chất lượng & định giá sữa nguyên liệu của từng nông hộ.
Còn việc thanh toán tiền mua sữa sẽ do Vinamilk thực hiện trực tiếp với nông dân, khoảng 2
lần trong tháng, theo số lượng và chất lượng sữa cung cấp. Tuy đã có rất nhiều nỗ lực đầu tư
vào hệ thống này, bao gồm cả việc tổ chức các lớp tập huấn cho nông dân nâng cao năng
suất và đảm bảo chất lượng sữa, nhưng đây vẫn là khâu yếu nhất trong toàn bộ chuỗi cung ứng của Vinamilk. Th an h a bồn to tra tr 3h á n g ểm ợng ểm ki ti lư uyển xe on ki ền ch Tr ẫu ất ẫu s m ữ i m Ch i a ử Vận ử G G
Hình 2. Hệ thống thu mua sữa từ các nông hộ nhỏ của Vinamilk 4 lOMoARcPSD|40534848
Để đảm bảo ổn định hơn nguồn sữa tươi nguyên liệu cho các nhà máy hoạt động,
Vinamilk đã & đang tiếp tục phát triển hệ thống trang trại trải dài khắp Việt Nam, do chính
Vinamilk sở hữu, ngày càng được mở rộng và quy mô, cũng như hiện đại về công nghệ.
Điều này giúp VNM tránh được tình trạng khan hiếm nguyên liệu khi có sự cố bất ngờ xảy
ra. Bắt đầu từ năm 2006, đến nay công ty đã phát triển được 13 trang trại bò sữa với tổng
lượng đàn bò là khoảng 32.200 con (xem Phụ lục A). Hệ thống trang trại này được chứng
nhận đạt tiêu chuẩn Global GAP cho chăn nuôi & sản xuất sữa bò lớn nhất Đông Nam Á.
Với diện tích rộng rãi dành cho trang trại, được trang bị hệ thống vắt sữa tự động
hiện đại của Thụy Điển, có hệ thống làm mát cho bò sữa, được tiêm phòng thú y đúng lịch
v.v. nên các trang trại chăn nuôi bò sữa của Vinamilk được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu
chuẩn ISO 9001:2008. Vinamilk trở thành một trong những đơn vị tiên phong trong ngành
chăn nuôi bò sữa tại Việt Nam áp dụng thành công Hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Dự
kiến công ty sẽ triển khai thêm các trại bò sữa công nghiệp tại Bình Dương, Sóc Trăng...để
nâng số lượng đàn bò lên 35.000 con vào năm 2020. Hiện tại, sản lượng sữa của Vinamilk
đã đạt 950-1000 tấn/ngày. Đây là mức sản lượng kỷ lục, đánh dấu một bước tiến lớn với
hoạt động chăn nuôi bò sữa tại các trang trại của Vinamilk. Với các dự án đang phát triển
cộng với việc nhập khẩu bò sữa, dự kiến đến 2022-2023, tổng đàn bò sữa do Vinamilk quản
lý và khai thác ước đạt khoảng 170.000 con.
Đối với nguồn nguyên liệu nhập khẩu, xây dựng mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững đối
với nguồn cung cấp chiến lược lớn ở trong và ngoài nước là mục tiêu chính của Vinamilk
nhằm đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu không những ổn định về chất lượng cao mà còn
ở giá cả rất cạnh tranh. Các nhà cung cấp chính của Vinamilk gồm có:
- Fonterra: là một tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực về sữa và
xuất khẩu các sản phẩm sữa, tập đoàn này nắm giữ 1/3 khối lượng mua bán trên toàn
thế giới. Đây chính là nhà cung cấp chính bột sữa chất lượng cao cho Vinamilk.
- Hoogwegt International đóng vai trò quan trọng trên thị trường sữa thế giới và được
đánh giá là một đối tác lớn chuyên cung cấp bột sữa cho nhà sản xuất và người tiêu
dùng ở châu Âu nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. VNM có mối quan hệ chặt
chẽ với nhà cung cấp này.
- Perstima Bình Dương, Việt Nam chuyên cung cấp hộp thiếc
- Tetra Pak Indochina chuyên cung cấp đóng gói bì carton và thiết bị đóng gói.
Đối với nguồn sữa bột nguyên liệu, Vinamilk đã sử dụng chiến lược nhiều nhà cung
cấp (Fonterra và Hoogwegt Intl) thay vì chỉ chọn nhà cung cấp duy nhất để phân tán rủi ro. (b)
Năng lực sản xuất
Vinamilk có 13 nhà máy sản xuất các sản phẩm sữa và nước giải khát nằm ở các khu
vực kinh tế trọng điểm của 3 miền Bắc-Trung-Nam. Ngoài ra, Vinamilk đầu tư một nhà máy
sữa tại New Zealand năm 2013 để tiếp cận nguồn nguyên liệu cao cấp, đồng thời để dễ dàng
phục vụ thị trường quốc tế. Vào tháng 5/2016, Vinamilk khánh thành nhà máy sữa Angkor
tại Campuchia. Bên cạnh đó, công ty có 2 xí nghiệp kho vận tại thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội, đảm nhiệm công tác vận tải, bảo quản và dự trữ nguyên liệu cũng như sữa thành
phẩm cho hoạt động sản xuất và phân phối trên toàn quốc (phụ lục B).
Năng lực sản xuất của VNM tăng đều với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm từ 2007
đến 2012 là 19,5%. Tổng công suất năm 2012 đạt 1,1 triệu tấn và đạt 1,6 triệu tấn năm
2013, sau khi khánh thành 2 siêu nhà máy ở Bình Dương. Năm 2011, công suất tăng 38,5%
cùng với sự khánh thành của Nhà máy sữa Tiên Sơn, chuyên sản xuất sữa đặc, sữa chua và lOMoARcPSD|40534848
sữa nước. Công suất tăng lên 1,1 triệu tấn khi Nhà máy sữa Đà Nẵng đi vào hoạt động năm
2012, góp phần cung cấp sữa nước và sữa chua cho thị trường miền Trung. Với Nhà máy
sữa Đà Nẵng, Vinamilk là công ty sữa đầu tiên có nhà máy sản xuất tại miền Trung. Nhà
máy này giúp việc phân phối hiệu quả hơn và vị thế của Vinamilk vững chắc hơn tại các
thành phố miền Trung đang phát triển. Vinamilk thường vận hành ở mức 70% tổng công
suất của hệ thống sản xuất. Với công suất 1,6 triệu tấn hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu hoạt
động của VNM trong tương lai tới.
Với các sản phẩm sữa tươi nguyên chất, sữa nguyên liệu sau khi thu hoạch từ
các trang trại của Vinamilk hoặc mua từ các nông hộ sẽ được chuyển ngay vào bình lọc, bồn
trung gian, sau đó được đưa vào bồn lạnh ở nhiệt độ 4oC để bảo quản sữa. Nguồn sữa này sẽ
được xe có hệ thống giữ nhiệt chuyển về nhà máy trong ngày, nhiệt độ sữa không quá 6oC.
Tại nhà máy chế biến, sữa tươi tiệt trùng được xử lý ở nhiệt độ cao (từ 140- 143oC) trong
thời gian 3-4 ngày, nên dễ bảo quản, có thể bảo quản ở nhiệt độ bình thường với thời hạn sử
dụng khá dài (từ 6 tháng đến 1 năm). Sữa tươi thanh trùng được xử lý phức tạp hơn nhưng ở
nhiệt độ thấp hơn 75oC trong khoảng 30 giây, sau đó nhanh chóng làm lạnh ở 4oC. Sữa
thành phẩm nhanh chóng được chuyển từ các nhà sản xuất đến các đại lý bán buôn và bán lẻ
trên cả nước, từ đó chuyển đến tay người tiêu dùng.
Vinamilk có 4 nhóm sản phẩm từ sữa với trên 250 mặt hàng sữa và nước giải khát để
đáp ứng thị hiếu đa dạng khác nhau. Danh mục sản phẩm đa dạng đó được chia thành các
nhóm thương hiệu: Vinamilk (bao gồm sữa nước, sữa chua, kem), Vfresh (nước ép trái cây
và sữa đậu nành), Dielac (sữa bột), Ridielac (bột dinh dưỡng), Ông thọ, Ngôi sao Phương
Nam (sữa đặc) và Icy (nước uống đóng chai và nước chanh muối).
Nhận thấy xu hướng người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến việc sức khỏe,
Vinamilk đang chuyển dịch sang các sản phẩm với giá trị gia tăng cao hơn. Công ty đã tung
ra thị trường sữa chua collagen, sữa uống chứa ADM, sữa tươi hữu cơ, sữa bột được bổ
sung thêm vi chất khác. Vinamilk có sản phẩm cho khách hàng thuộc nhiều nhóm đa dạng
với các mức thu nhập, với hương vị và kích thước bao bì sản phẩm phong phú. (c)
Mạng lưới phân phối và thị trường tiêu thụ
Công ty có mạng lưới phân phối rộng khắp với hơn 243 nhà phân phối và hơn
220.00 điểm bán lẻ trên 63 tỉnh/thành phố của toàn quốc theo kênh phân phối truyền thống.
Ở kênh hiện đại, Vinamilk bán hàng trực tiếp cho 650 siêu thị lớn nhỏ và 1,534 cửa hàng
tiện ích, rút ngắn được độ dài của kênh, giảm chi phí và tăng lợi thế nhờ qui mô. Kênh hiện
đại nhằm tận dụng quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh. Tuy nhiên, kênh phân phối truyền
thống (tiệm tạp hóa) vẫn giữ vai trò quan trọng do chiếm đến 80% tổng doanh thu. Mạng
phân phối là điểm mạnh và là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công trong hoạt động của
Vinamilk. Mạng lưới này được quản lý tập trung bởi các chi nhánh và được phân chia theo địa bàn hoạt động:
- Hội sở chính và phụ trách miền Đông Nam Bộ: Phường Tân Phú, Quận 7, Tp. HCM
- Chi nhánh miền Bắc: Tòa nhà Handi, Resco, Tháp B, Tầng 11, Hà Nội
- Chi nhánh miền Trung: Quận Hải Châu, Đà Nẵng
- Chi nhánh miền Tây Nam Bộ: Quận Ninh Kiều, Cần Thơ
Vinamilk tiếp tục mở rộng và tăng cường mạng lưới để có thể phân phối trực tiếp cho
khách hàng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi tập trung hơn 70% dân số. Khu vực nông
thôn đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng doanh thu vượt bậc những năm gần đây.
Nhà máy tại Đà Nẵng và Thanh Hóa sẽ giúp cho hệ thống phân phối hiệu quả hơn, cũng như
củng cố hơn nữa vị thế của công ty ở miền Trung Việt Nam. 6 lOMoARcPSD|40534848
Hiện Vinamilk dẫn đầu phân đoạn thị trường sữa đặc có đường và sữa chua, với thị
phần lần lượt lên đến 80% và 58% năm 2017. Trong tương lai gần, vị trí này sẽ không thay
đổi. Sữa đặc có biên lợi nhuận thấp, tỷ lệ tăng trưởng thấp và việc sản xuất đòi hỏi vốn lớn.
Friesland dường như đã rút lui khỏi dòng sản phẩm này còn các công ty nhỏ lại thấy phân
đoạn thị trường sữa đặc không đủ hấp dẫn để tham gia.
Sữa chua đòi hỏi đầu tư lớn vào tủ mát và xe đông lạnh, khiến việc thâm nhập vào
phân đoạn thị trường này trở nên khó khăn hơn. Với mạng lưới điểm bán lẻ rộng khắp và
có tới 9 nhà máy có dây chuyền sản xuất sữa chua tại cả ba miền Bắc-Trung-Nam,
Vinamilk có lợi thế trong phân đoạn thị trường này và sẽ đảm bảo thị phần thống lĩnh.
Phân đoạn thị trường có tỷ lệ lợi nhuận cao nhất là sữa bột, trong đó Abbot Vietnam
chiếm thị phần lớn nhất (32%), tiếp sau là Vinamilk (24,6%). Các công ty nước ngoài vẫn
thống lĩnh phân đoạn thị trường này, với tổng thị phần 70,4%. Tâm lý chuộng hàng ngoại
của người Việt là lý do chính khiến các nhãn hiệu nước ngoài được ưa chuộng hơn.
Vinamilk dự kiến sẽ canh tranh ở phân đoạn thị trường này nhờ giá bánsản phẩm thấp hơn
đáng kể (từ 10%-30% so với giá các sản phẩm nước ngoài) và dần nâng cao nhận thức của
người tiêu dùng thông qua quảng cáo, các hội nghị và sự kiện. Vinamilk đặt mục tiêu thị
phần 35%, nhưng có lẽ để thay đổi quan điểm của người tiêu dùng, cần có nhiều thời gian
hơn cũng như một chiến lược khác.
Trái ngược với mặt hàng sữa bột, thị trường sữa nước hầu như không bị cạnh tranh
bởi các hãng sữa ngoại. Trên thị trường sữa nước (thanh trùng và tiệt trùng), Vinamilk dẫn
đầu thị trường ở phân khúc này với 48% thị phần. Tính trung bình, sữa tươi chiếm 31%
doanh thu của công ty trong 4 năm qua, chiếm 35% doanh thu trong năm 2017. Trong ngắn
hạn, sữa tươi vẫn là sản phẩm quan trọng nhất đóng góp vào doanh thu và lợi nhuận. Nhu
cầu cho sự thuận tiện chính là lý do khiến cho tốc độ tăng trưởng dự kiến trong giai đoạn
2016-2020 đạt 13,1%, sữa nước vẫn đóng góp chính cho tăng trưởng và lợi nhuận. Với các
sản phẩm phong phú và mang tính tiên phong, Vinamilk đã và đang phát triển mạnh mẽ ở phân khúc này. 3.
Thành công của chuỗi cung ứng sữa Vinamilk
Sữa và các sản phẩm từ sữa là thực phẩm cần thiết đối với sức khoẻ thể chất và tinh
thần của người dân. Tổng lượng tiêu thụ sữa Việt Nam liên tục tăng mạnh, mức tiêu thụ sữa
tại thị trường sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020. Tính theo doanh số và sản lượng, Vinamilk là
nhà sản suất sữa hàng đầu tại Việt Nam. Vinamilk cung cấp cho thị trường danh mục các
sản phẩm, hương vị và qui cách bao bì có nhiều lựa chọn nhất. Thương hiệu được bình chọn là nhất của Bộ Công Thương. Vinamilk cũng được người tiêu dùng bình chọn trong nhóm
như vậy có sự đóng góp lớn lao của quản trị chuỗi cung ứng tại công ty.
- Vinamilk đã xây dựng được chuỗi cung ứng mở rộng, đảm bảo chính sách 3
đúng, đáp ứng tương đối tốt nhu cầu thị trường.
Chính sách 3 đúng (Đúng sản phẩm, Đúng số lượng và Đúng lúc) vừa là yêu cầu, vừa
là định hướng trong xây dựng chuỗi cung ứng mở rộng của Vinamilk. Công ty đã và
đang nỗ lực xây dựng mạng lưới cung ứng nguyên liệu ổn định, cũng như mạng lưới
phân phối rộng khắp để đảm bảo thực hiện tốt chính sách quan trọng này.
Sữa được xem là thực phẩm hoàn hảo, có chứa tất cả các dưỡng chất cần thiết với tỷ
lệ cân bằng cho việc xây dựng và phát triển cơ thể sống của con người. Tuy vậy, sữa lOMoARcPSD|40534848
cũng là một sản phẩm rất dễ bị hư hỏng do vi sinh vật gây ra. Vì vậy, kiểm tra chất
lượng là một hoat động không thể thiếu của ngành công nghiệp chế biến sữa để tạo ra
các sản phẩm sữa chất lượng tốt. Vinamilk luôn cố gắng cung cấp cho người tiêu
dùng các sản phẩm không những an toàn mà còn đảm bảo dinh dưỡng và chất lượng.
Để đạt được điều đó, Vinamilk rất chú trọng kiểm soát chặt chẽ tất cả các nguyên
liệu đầu vào, đặc biệt là chất lượng nguồn sữa tươi nguyên liệu theo tiêu chuẩn quốc
tế. Các quy trình đó được dựa trên việc thực hiện các kiểm nghiệm chất lượng cơ bản
tại từng giai đoạn khác nhau từ thu mua, vận chuyển, chế biến, đóng gói, bảo quản và
phân phối tới tay người tiêu dùng.
Xuất phát từ đặc điểm nguyên liệu và sản phẩm có thời hạn sử dụng ngắn, trọng
lượng lớn, dung tích chiếm chỗ nhiều nên chi phí vận chuyển và bảo quản trong quá
trình sản xuất và phân phối sữa khá lớn. Để chuỗi cung ứng vận hành đạt hiệu quả
cao, VNM luôn cố gắng đảm bảo vừa đủ số lượng và đúng thời điểm cung ứng cho
mạng lưới sản xuất và mạng lưới phân phối. Thời gian và tốc độ là điều kiện tiên
quyết để nguyên liệu sữa tươi được cung ứng đủ số lượng và đảm bảo chất lượng tới
nhà máy. Các xe bồn chứa sữa tươi lạnh phải vận chuyển nhanh chóng trong vòng
3h, từ 91 trạm thu mua trên cả nước, tới 13 nhà máy chế biến sữa.
- Xây dựng chuỗi cung ứng đảm bảo 3 chữ A: Agile (Nhanh nhẹn) - Adaptable
(Thích nghi) - Align (Tích hợp). Công ty Vinamilk là một trong số ít các công ty ở
Việt Nam có Giám đốc điều hành chuỗi cung ứng. Công ty đã và đang triển khai
ngày càng sâu rộng khả năng liên kết và hỗ trợ các nông hộ trong quá trình chăn nuôi
và thu hoạch sữa tươi. Công ty có năng lực thương lượng và có lợi thế mặc cả với
người chăn nuôi trong việc thu mua nguyên liệu sữa, do Vinamilk là nhà thu mua
lớn, chiếm khoảng 60% sản lượng sữa của cả nước.
- Ứng dụng mạnh mẽ IT trong toàn bộ hoạt động chuỗi: VNM là một trong ít
doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng giải pháp quản trị mối quan hệ với khách hàng
(CRM) của SAP. Đây là giai đoạn hai trong việc triển khai ERP của công ty này. Hệ
thống SAP được xây dựng trên nền tảng công nghệ SAP NetWeaver, NetWeaver đã
tích hợp thông tin từ hệ thống ERP sử dụng Oracle EBS cùng với hệ thống Solomon
sử dụng tại các nhà phân phối và ứng dụng trên PDA cho nhân viên bán hàng.
Riêng các đại lý chính thức của Vinamilk hiện đang triển khai sử dụng phần mềm
được FPT phát triển cho PDA để ghi nhận các giao dịch. Các nhân viên bán hàng sử
dụng PDA kết nối với hệ thống tại nhà phân phối để cập nhật thông tin. Gần đây
nhất, ngày 15/02/2012, tại Tp.HCM, Vinamilk và Viettel đã ký kết hợp tác xây dựng
phần mềm bán hàng trực tuyến, đánh dấu sự đột phá của VNM và Viettel trong việc
ứng dụng CNTT vào lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Dự án này được thực hiện trong
15 tháng và tháng 5/2013 bắt đầu được triển khai tại Vinamilk trên toàn quốc. 4.
Thách thức trong chuỗi cung ứng sữa Vinamilk
Mặc dù đã đạt được những thành công đáng kể nhưng chuỗi cung ứng của Vinamilk
vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức như sau:
- Nguồn nguyên liệu bấp bênh, thiếu hụt và phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu:
Việt Nam vốn không có truyền thống chăn nuôi bò sữa nên không có các giống trâu
bò sữa chuyên dụng đặc thù nào. Ngành chăn nuôi bò sữa mới chỉ thực sự trở thành
ngành sản xuất hàng hóa từ những năm 1990 trở lại đây. Lượng nguyên liệu sữa sản
xuất trong nước chỉ đáp ứng được 37% nhu cầu hiện nay, chủ yếu phục vụ sản xuất 8 lOMoARcPSD|40534848
sữa nước. Vinamilk phải nhập khẩu 67% lượng sữa bột các loại. Mặc dù Việt Nam có
kế hoạch phát triển chăn nuôi đàn bò sữa từ hàng chục năm trước, nhưng tỷ lệ tăng
trưởng sản lượng nguyên liệu vẫn không theo kịp nhu cầu sử dụng sữa của người
dân. Chính phủ khuyến khích mở rộng các trang trại bò sữa và nâng cao sản lượng.
Vì chênh lệch cung và cầu rất lớn, khiến thị trường có những đợt tăng giá sữa liên tục
mà vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng hai chữ số. Nhưng sự tăng trưởng đó là không bền vững,
ảnh hưởng tiêu cực tới sức mua của người tiêu dùng và các vấn đề an sinh xã hội.
Nguyên nhân chính là do nguồn nguyên liệu chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Thêm nữa Vinamilk còn bị ảnh hưởng gián tiếp bởi chi phí và sự dao động giá đối
với thức ăn chăn nuôi bò sữa. Có đến 80% thức ăn dành cho bò sữa (cỏ họ đậu, cỏ
khô, cỏ ủ có hàm lượng) là phải nhập khẩu nên phụ thuộc nhiều vào biến động giá
trên thế giới, ảnh hưởng đến chi phí đầu vào và ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.
- Mô hình liên kết với các nông hộ chưa hoàn thiện: Vinamilk đã và đang tích cực
triển khai các mô hình liên kết với các trang trại sữa của nông dân bằng việc đầu tư
kỹ thuật, đầu tư chuồng trại, kỹ thuật chăm sóc bò, công tác thú y, nhân giống, hỗ trợ
các thiết bị vắt sữa và bảo quản sữa…Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn,
vướng mắc nảy sinh giữa doanh nghiệp và nông dân trong cơ chế hỗ trợ, cho vay
vốn, cũng như cách xác định giá thu mua sữa, quy trình kiểm tra chất lượng sữa
nguyên liệu…. khiến cho kết quả của các mô hình liên kết chưa được như mong
muốn. Lượng sữa thu mua không ổn định, chất lượng giữa các nông hộ không đồng đều.
Quy mô của các nông hộ chăn nuôi khá nhỏ, chỉ có 10% số hộ chăn nuôi trang trại
chuyên nghiệp. Kỹ năng chăn nuôi của nông dân chưa cao, nguồn thức ăn còn phụ
thuộc phần lớn vào thức ăn tinh có giá thành cao, chất lượng không ổn định nên năng
suất sữa thấp. Năng suất sữa trung bình nuôi hộ gia đình khoảng 14,5kg/con/ngày,
cao hơn so với khu vực nhưng lại thấp hơn khá xa so với các nước phát triển như
châu Âu, Mỹ (25kg/ngày)… Sau một số năm phát triển quá nóng, từ năm 2015 sự
phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa cũng đã chững lại và bộc lộ một số khó khăn,
yếu kém mới, nhất là trong vấn đề tổ chức quản lý vĩ mô ngành hàng và tổ chức quản
lý sản xuất các cơ sở chăn nuôi mô phát triển đàn bò sữa về vốn, con giống, đầu tư hạ tầng, chuồng trại còn thiếu,
chưa đồng bộ và chưa trọng tâm.
- Khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm: Vấn đề
an toàn chất lượng sữa là một trong những nhân tố tác động mạnh đến ngành sữa nói
chung và Vinamilk nói riêng. Thời gian qua, các vấn đề nổi cộm như sữa có chứa
Melamine, có chất thuốc súng, có chất lượng thấp hơn công bố… đang khiến cho
người tiêu dùng hết sức lo ngại.
Chất lượng sữa thành phẩm phụ thuộc rất nhiều yếu tố như nguyên liệu đầu vào, quy
trình sản xuất, quy chuẩn bán hàng. Sản xuất sữa đòi hỏi phải tuân thủ quy trình khắt
khe, nghiêm ngặt từ nuôi bò - vắt sữa - bảo quản - thu gom - vận chuyển - xét nghiệm
- chế biến - đóng gói - bán hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện quy trình này còn bất
cập. Nhiều nông hộ chăn nuôi theo quy mô nhỏ theo phương thức thủ công truyền
thống, thức ăn chưa đảm bảo nên chất lượng sữa không cao. Công nghệ vắt sữa và
bảo quản lạc lậu. Việc kiểm định các hàm lượng vi chất trong thành phần sữa vẫn chưa được thực hiện. lOMoARcPSD|40534848
- Yếu kém trong phát triển các sản phẩm giá trị cao: Vinamilk đã đáp ứng được
tương đối tốt thị trường đại chúng, nhưng chưa đa dạng hoá được sản phẩm của mình
ở những thị trường giá trị cao với các sản phẩm như bơ, pho-mat, váng sữa, các sản
phẩm cho người cao tuổi và người bị bệnh khác nhau.
- Bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt: Nếu trước những năm 90, ở Việt Nam chỉ
có vài nhà sản xuất, phân phối sữa, chủ yếu là sữa đặc và sữa bột (nhập khẩu), thì
hiện nay ngành sữa Việt Nam đã có gần 20 hãng nội địa và rất nhiều doanh nghiệp
phân phối sữa chia nhau một thị trường tiềm năng với gần 100 triệu dân. Thị trường
trở lên cạnh tranh hơn từ phía các công ty trong nước cũng như các công ty nước ngoài.
TH True Milk, một công ty sữa Việt Nam mới gia nhập thị trường từ 2006, nhưng đã
có những bước đi táo bạo trong cả hoạt động sản xuất và marketing các sản phẩm của
mình. TH Milk đã đầu tư 400 triệu USD xây dựng nhà máy và nông trại bò sữa, dự
kiến sẽ đầu tư tổng cộng 1,2 tỷ USD vào ngành công nghiệp sữa. Friesland Campina
cũng tăng cường đầu tư vào các nông trại bò sữa, nhà máy và quảng cáo để mở rộng
sản xuất và cũng như chiếm lĩnh thị phần. Một số công ty sữa nhỏ hơn như Sữa Long
Thành, Sữa Mộc Châu, Sữa Ba Vì đã thâm nhập vào phân đoạn thị trường sữa chua
và sữa nước, do đó thị trường ngày càng mang tính cạnh tranh cao. Các sản phẩm sữa
được hưởng thuế nhập khẩu thấp hơn (3%-5%), tạo điều kiện cho các nhãn hiệu sữa
nước ngoài nhập khẩu vào Việt nam, có thể tác động xấu lên doanh thu, lợi nhuận.
- Mức độ thân thiện với môi trường chưa cao: Hiện tại, toàn bộ bao bì sản phẩm của
Vinamilk là loại sử dụng 1 lần nên rất lãng phí tài nguyên và vật liệu cho sản xuất
bao bì, làm tăng gánh nặng cho công tác xử lý môi trường đối với các loại bao bì đó.
Thêm nữa, tỷ trọng sản phẩm có bao bì kích cỡ nhỏ (80 - 100 - 125 ml) chiếm phần
khá lớn càng làm mức độ thân thiện với môi trường giảm sút. Nhưng hiện tại công ty
chưa có dự định triển khai sử dụng bao bì thuỷ tinh vì chưa thiết lập được phương án
hợp lý để thu hồi và tái sử dụng loại bao bì này. 5.
Giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng sữa của Vinamilk
Mục tiêu của chuỗi cung ứng sữa là đảm bảo cung cấp một cách hiệu quả cho thị
trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, an toàn, tiện lợi với mức giá phù hợp
và sự lựa chọn đa dạng, thân thiện với môi trường, cũng như đảm bảo lợi ích hài hoà của tất
cả các thành viên tham gia chuỗi. Để đạt được mục tiêu này và vượt qua những thách thức
nêu trên, chuỗi cung ứng sữa của Vinamilk cần phải có các giải pháp đồng bộ giúp kết nối
chặt chẽ tất cả các mắt xích trong quy trình từ chăn nuôi bò sữa, tới hoạt động thu gom, sản
xuất và phân phối hàng hóa tới tay người tiêu dùng.
- Tiếp tục đầu tư sâu rộng và bài bản vào nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước:
Cung cấp nguyên liệu sữa tươi đầu vào đang là khâu yếu nhất trong chuỗi cung ứng
ngành sữa Việt Nam nói chung và tại Vinamilk nói riêng. Một chuỗi cung ứng sữa
hiện đại và chuyên nghiệp cần phải đầu tư lớn và bài bản ngay từ khâu chăn nuôi,
phải có quy trình kiểm tra chất lượng chặt chẽ, cũng như phải đảm bảo minh bạch về nguồn gốc nguyên liệu.
Bắt đầu từ năm 2007 với trại bò sữa Tuyên Quang, Vinamilk hiện đang có 13 trang
trại quy mô lớn với tổng đàn bò sữa 35.500 con. Dự kiến công ty sẽ triển khai thêm
các trại bò sữa công nghiệp tại nhiều tỉnh thành khác...để nâng số lượng đàn bò lên.
Ở các trang trại quy mô lớn, công ty có điều kiện áp dụng quy trình sản xuất khép kín 10 lOMoARcPSD|40534848
hiện đại, quản lý chất lượng đồng bộ, vận dụng công nghệ cao, những máy móc hiện
đại vào ngành trồng trọt và chăn nuôi của nước nhà, chọn những giống bò sữa phả hệ
rõ ràng và ưu tú, đảm bảo cho năng suất sữa cao và đạt tiêu chuẩn lý sữa sạch từ
đồng cỏ đến bàn ăn. Đây là một phương hướng phát triển đúng đắn của khâu chăn
nuôi bò sữa tại Vinamilk nói riêng và ngành chăn nuôi bò sữa Việt Nam nói chung.
- Hoàn thiện mối quan hệ liên kết với các nông hộ chăn nuôi bò sữa: Bên cạnh
nguồn sữa tươi từ các trang trại công nghiệp, Vinamilk vẫn cần tiếp tục xây dựng các
mối quan hệ hợp tác bền vững hơn với các nông hộ để đảm bảo nguồn cung phong
phú và ổn định hơn. Với đặc điểm nguồn sữa từ nông hộ thường nhỏ lẻ, phân tán và
chất lượng không đồng đều, vai trò và trách nhiệm của các công ty chế biến sữa như
Vinamilk lại càng nặng nề. Công ty vừa phải đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra
vừa phải cân đối được lợi ích hài hoà của mình với lợi ích của các nông hộ. Thực tế
hiện nay, lợi ích của nông dân nhận được vẫn khá thấp so với các thành viên khác
trong chuỗi, không khuyến khích được sự phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ về
nguồn nguyên liệu tại chỗ. Vinamilk cần xác định đầy đủ và hài hòa được lợi ích của
tất cả các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sữa, từ đó xác định được cơ chế thu
mua, kiểm tra chất lượng và mức giá phù hợp để người nông dân sẽ có cơ hội nhận
được lợi ích cao hơn và tương xứng hơn với phần đóng góp của họ trong chuỗi.
- Phát huy vai trò của các trung gian thu gom sữa nguyên liệu: Hiện Vinamilk thu
mua sữa tươi nguyên liệu qua bên thứ ba, những trung tâm có trang thiết bị lưu trữ và
vận chuyển, đồng thời có hệ thống liên kết với nông dân. Nhưng vì mục đích lợi
nhuận, các điểm thu mua chỉ được thiết lập khi có đủ số lượng bò, đủ lượng sữa để
đặt bồn chứa và không quá xa nhà máy để giảm chi phí vận chuyển và bảo đảm an
toàn vệ sinh. Đây là khó khăn để mở rộng địa bàn chăn nuôi đến những vùng có tiềm
năng đất đai và lao động. Bên cạnh đó, việc công ty tự mình ký kết hợp đồng thu mua
với hàng nghìn hộ nông dân với các trình độ chăn nuôi khác nhau đã tạo nên cấu trúc
chuỗi cung ứng rất cồng kềnh, phức tạp và khó giám sát.
Vinamilk nên đầu tư nhiều hơn vào lực lượng thu gom, tổ chức họ thành một mạng
lưới chuyên nghiệp, coi trọng vai trò và vị trí của họ cao hơn trong chuỗi cung ứng
thì sẽ đạt hiệu quả thu mua lớn hơn. Doanh nghiệp nên tìm kiếm các đối tác trung
gian thích hợp và ký hợp đồng với 5-10 nhà cung ứng nguyên liệu (người thu gom
nguyên liệu). Về phần mình, mỗi nhà thu gom nguyên liệu hoàn toàn có thể liên kết
chặt chẽ và hài hòa lợi ích với 20-40 nông dân trong vùng để cung cấp nguyên liệu
cho doanh nghiệp chế biến. Có thể nói người thu gom nguyên liệu chính là cầu nối
hữu hiệu nhất giữa người sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến sữa.
- Tăng cường khả năng truy nguyên nguồn gốc của chuỗi cung ứng: Vinamilk cần
đầu tư nhiều hơn nữa vào các công cụ, biện pháp và quy trình đảm bảo khả năng truy
nguyên nguồn gốc của các sản phẩm sữa. Chất lượng và trạng thái sản phẩm khó có
thể được giám sát chặt chẽ và tức thời nếu thiếu khả năng truy nguyên nguồn gốc của
chúng. Hiện vẫn còn khá nhiều lo ngại liên quan đến vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm và tính minh bạch về nguồn gốc của các sản phẩm sữa.
- Phát triển và đa dạng hoá sản phẩm: Để giữ vững và phát huy vị trí đầu ngành sữa
Việt Nam, Vinamilk cần đầu tư nhiều công sức và công nghệ hơn nữa vào phát triển
sản phẩm mới, đặc biệt là những sản phẩm có giá trị cao và những sản phẩm phục vụ
các đoạn thị trường đặc thù về dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ. lOMoARcPSD|40534848
- Phát triển hệ thống phân phối khép kín: Hệ thống phân phối khép kín là giải pháp
tốt để giảm thiểu các khả năng gây hư hỏng cho sản phẩm sữa trong đầu ra của chuỗi
cung ứng. Nhà phân phối phải là những đơn vị được chọn lọc và được uỷ nhiệm.
Nhân viên giao hàng là người có hợp đồng lao động chính thức với nhà phân phối.
Nhà phân phối chịu trách nhiệm về các cửa hàng bán lẻ trong địa bàn của mình. Hệ
thống này đảm bảo hàng hoá được phân phối trực tiếp từ nhà sản xuất đến nhà bán lẻ,
loại trừ tình trạng hàng trôi nổi, hàng hoá trên kệ được theo dõi thường xuyên để
được thay thế khi bị hỏng bao bì hoặc sắp hết hạn sử dụng.
- Kiến nghị vĩ mô: Bên cạnh những nỗ lực của Vinamilk và các thành viên trong
chuỗi, quá trình vận hành chuỗi cung ứng còn cần tới sự hỗ trợ đắc lực của các chính
sách và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, từ các tổ chức và ban ngành khác. Phát
triển ngành công nghiệp phụ trợ, cải thiện cơ sở hạ tầng, quản lý thị trường, tăng
năng lực logistics, hải quan, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư… đều cần một
sự chỉ đạo và quản lý nhất quán, sát sao và hiệu quả từ Nhà nước. 6. Kết luận
Quản trị tốt chuỗi cung ứng là một hành trình phối hợp từ nhà cung cấp nguyên vật
liệu, các nhà máy sản xuất, các đơn vị vận chuyển đến các trung tâm phân phối, các cửa
hiệu đến người tiêu dùng trong sự vận hành nhịp nhàng và liên tục của cả dòng vật chất và
dòng thông tin, để có khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng ở mức cao nhất với chi phí vận
hành thấp nhất. Phát triển chuỗi cung ứng các sản phẩm sữa một cách bền vững là mục tiêu
quan trọng đối với Công ty CP sữa Việt Nam nói riêng và ngành sữa nói chung, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống, đáp ứng tốt nhu cầu đối với sản phẩm dinh dưỡng quan
trọng trong dân cư và tạo cơ hội phát triển kinh tế cho nông dân Việt Nam.
Để quản trị tốt hơn nữa chuỗi cung ứng sữa cần có các giải pháp tổng thể và đồng bộ.
Từ phía Vinamilk cần có sự chia sẻ và hợp tác chặt chẽ hơn từ đầu nguồn tới cuối nguồn,
đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu và góp phần bình ổn giá sữa trên thị trường. Từ phía
quản lý nhà nước, các bộ ban ngành và địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa về
cơ chế chính sách và hạ tầng cơ sở.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Công thương (2010). Phê duyệt Quy hoạch phát triển Ngành công nghiệp chế
biến sữa Việt Nam tới năm 2020, tầm nhìn tới 2025. Quyết định 3399/QĐ-BCT
2. Nguyễn Việt Khôi, Nguyễn Thị Thanh Hương (2011). Đánh giá hiệu quả của ngành
sữa Việt Nam từ phân tích chuỗi giá trị. Tạp chí Nghiên Cứu Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 402.
3. Euromonitor (2019). Dairy in Vietnam.
4. Luc Thi Thu Huong (2016). Vinamilk’s supply chain and the small farmers’
involvement. Tạp chí Khoa học: Kinh tế và Kinh Doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 32.5E.
5. Nguyen Anh Phong (2015). Improved market access and smallholder dairy farmer
participation – Lessions learned study – Vietnam. Retrieved at www.dairyasia.org
6. Website của công ty www.vinamilk.com.vn 12 lOMoARcPSD|40534848
Phụ lục A: Danh sách các trang trại bò sữa của Vinamilk Số lượng TT Tên trang trại Năm hoạt động bò sữa 1.
Trang trại bò sữa Tuyên Quang 2007 2.000 2.
Trang trại bò sữa Bình Định 2008 2.000 3.
Trang trại bò sữa Nghệ An 2009 2.600 4.
Trang trại bò sữa Thanh Hóa 2010 1.600 5.
Trang trại bò sữa Đà Lạt 2012 1.600 6. Resort bò sữa Tây Ninh 2013, mở rộng 2019 8.000 7.
Trang trại bò sữa Như Thanh, Thanh Hóa 2016 2.000 8.
Trang trại bò sữa Hà Tĩnh 2016 2.000 9.
TT bò sữa Organic, Đà Lạt, Lâm Đồng 2017 1.000 10.
TT bò sữa thống Nhất Thanh Hóa 1 2018 4.000 11.
TT bò sữa Organic, Di Linh, Lâm Đồng 2019 700 12.
TT bò sữa Thống Nhất Thanh Hóa 2 2019 4.000 13.
Trang trại bò sữa Quảng Ngãi 2020 4.000
Tổng đàn bò sữa thuộc sở hữu của Vinamilk 35.500
Phụ lục B. Danh sách các nhà máy sữa của Vinamilk TT Tên nhà máy X.dựng Sản phẩm Địa chỉ 1 NM Trường Thọ
1976 sữa nước, sữa đậu nành, sữa chua,
nước ép trái cây, phô mai Quận Thủ Đức, Tp.HCM 2 NM Dielac
1976 sữa bột, bột dinh dưỡng cho trẻ em Tp.Biên Hòa, Đồng Nai 3 NM Thống Nhất
1976 sữa đặc, sữa nước, kem, sữa chua, sữa chua uống Quận Thủ Đức, Tp. HCM 4 NM sữa Hà Nội
1994 sữa nước, sữa đậu nành, sữa chua,
nước ép trái cây, phô mai Huyện Gia Lâm, Hà Nội 5 NM sữa Bình Định 2003
sữa tươi tiệt trùng, kem, sữa Tp.Quy Nhơn, chua, sữa chua uống Bình Định 6 NM sữa Nghệ An 2005
sữa đặc, sữa tươi, sữa chua TX.Cửa Lò, Nghệ An 7 NM sữa Sài Gòn 2003 sữa tươi, sữa chua Q.12, Tp. HCM 8 NM sữa Cần Thơ 2001
sữa tươi, sữa chua, kem, bánh Q.Bình Thủy, Cần Thơ 9 NM Tiên Sơn
2005, sữa nước, sữa chua, sữa chua 2014
uống, nước trái cây, sữa đậu nành Huyện Tiên Du, Bắc Ninh 10 NM nước giải khát KCN Mỹ Phước 2, Việt Nam 2006
nước trái cây, sữa đậu nành, nước tinh khiết Bình Dương 11 NM sữa Đà Nẵng
2012 sữa tươi và sữa chua Q.Liên Chiểu, Đà Nẵng 12 NM sữa Việt Nam 2013 sữa tươi KCN Mỹ Phước 2, Bình Dương 13 NM sữa bột trẻ em Việt Nam 2013 sữa bột KCN Việt– Singapore 1, Bình Dương
(Nguồn: Công ty CP sữa Việt Nam) lOMoARcPSD|40534848
Câu hỏi thảo luận
1. Bổ sung các dữ liệu/thông tin về công ty CP sữa Việt Nam, về ngành sữa và các
doanh nghiệp thành viên quan trọng trong chuỗi, đặc biệt là về các hoạt động thu
mua sữa nguyên liệu trong ngành của các công ty chế biến.
2. Hãy phân tích và tìm ra phương thức tốt nhất để Vinamilk thiết lập hệ thống thu mua
sữa tươi nguyên liệu từ các nông hộ nhỏ nhằm đạt được lợi ích cao nhất, cân bằng
giữa Vinamilk và với các nông hộ nhỏ?
3. Mô tả chức năng và hoạt động của các trung tâm thu gom sữa tươi nguyên liệu trong
chuỗi cung ứng Vinamilk? Công ty Vinamilk có nên bỏ qua loại trung gian này trong
chuỗi cung ứng và thiết lập các điểm thu mua của riêng mình hay không? Tại sao?
4. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) sẽ có những tác động như thế nào đến
các nông hộ chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ của Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn?
5. Hãy giải thích tại sao: mặc dù nguồn sữa tươi nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng
được một phần nhỏ nhu cầu sản xuất-chế biến ở Việt Nam nhưng những người chăn
nuôi bò quy mô nhỏ ở một số vùng vẫn gặp khó khăn trong việc bán sữa tươi cho các công ty chế biến sữa? 14